Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020

Quản lý tốt tình huổng bất thưòng

 

 

 

 


Tình huống bất thường là một thuật ngữ chỉ một hiện tượng, một sự kiện, sự việc diễn ra trong đời sống xã hội có nguyên nhân từ khách quan hoặc chủ quan dẫn đến những hậu quả xã hội ở mức độ khác nhau.

Bất thường là những biến cố không hề mong muốn, ngoài nhận thức và không lường hết thiệt hại của nó đối với cá nhân và xã hội

Ở nước ta các tình huống bất thường nảy sinh do tự nhiên như: lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, sự cố môi trường... xảy ra trong thời gian qua đã gây thiệt hại rất lớn. Bên cạnh đó, những tình huống bất thường nảy sinh do tác động của các yếu tố xã hội cũng đang có những tác động tiêu cực không nhỏ đến đời sống mọi mặt của nhân dân.

Tình huống bất thường có thể diễn ra ở mức độ tác động giống nhau, nhưng khác nhau ở sự tiếp cận của con người. Nếu tiếp cận thụ động (không đủ khả năng nắm bắt) thì trở thành bất thường. Chúng làm cho hoạt động quản lý xã hội không lường trước được, năm ngoài dự kiến, vượt quá sự chuẩn bị đối phó, gây thiệt hại trầm trọng cho con người, để lại di hại không dễ khắc phục ngay được. Có loại tình huống bất thường không phải do tốc độ của diễn biến (đột ngột, tức thời), mà là sự mất niềm tin nghiêm trọng dưới con mắt của người dân và chế độ như sự phát sinh lợi ích nhóm trong xã hội, tình trạng tham nhũng thực sự đe dọa cơ chế và thể chế...Tính bất thường ở đây được nhận thức là mặt trái của xã hội mang hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Tình huống bất thường được xác định theo các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, là những sự kiện có thực, đã diễn ra. Chính những diễn biến đã diễn ra, tác động ảnh hưởng, mang tới hậu quả xã hội ở một nơi, một thời điểm nhất định làm cơ sở nghiên cứu, phân tích, tìm ra các yếu tố mang tính quy luật hoặc ngẫu nhiên trong nhận thức khoa học và lý thuyết nhất định về chúng.

Thứ hai, mang yếu tố khách quan hoặc chủ quan. Yếu tố khách quan được phân ra bởi các tình huống diễn ra từ sự vận động của các yếu tố trong tự nhiên mang tính quy luật tương đối ổn định, ngoài ý muốn chủ quan của con người (cá nhân, cộng đồng hay tổ chức). Yếu tố chủ quan thuộc về những tình huống gắn liền với nhận thức của con người.

Thứ ba, tính chất tác động, ảnh hưởng của các tình huống bất thường tới sự biến đổi tiêu cực tới điều kiện sinh hoạt có thể từ những nguyên nhân tự nhiên khách quan hoặc xã hội, mức độ gây ra hậu quả và khả năng khắc phục.

Những tình huống bất thường có thể là các hiện tượng xã hội có các nguyên nhân khác nhau do con người, như: chiến tranh gây ra sự khủng hoảng kinh tế, suy kiệt tiềm năng phát triển, làm chết chóc, gây đau thương về tổn thất con người; từ nguyên nhân suy thoái kinh tế dẫn đến các chính sách cực đoan; do tai nạn giao thông, hỏa hoạn; sự cố ô nhiễm môi trường, ngộ độc thực phẩm, phá sản doanh nghiệp, vỡ hụi...Các tình huống bất thường có nguyên nhân từ tự nhiên, như: biến đổi khí hậu, thời tiết, sụt lún địa chất, hạn hán, núi lửa, sóng thần, ngập mặn, lũ lụt, dịch bệnh.. .Các nguỵên nhân nàý có thể nằm ngoài sự tác động của con người nhưng cũng có thể do chính hoạt động của con người tạo ra. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, khi xảy ra khủng hoảng tài chính, người dân thường đổ xô rút tiên hàng loạt, bán tháo cổ phiếu, gây sụp đổ cả hệ thống ngân hàng hoặc rung động thị trường chứng khoán. Thảm họa môi trường không chỉ đe dọa đến ô nhiễm không khí, nguồn nước, đất mà cả điều kiện sinh kế lâu dài của cư dân. Khủng hoảng tài chính và thảm họa môi trường bao giờ gắn với hiệu ứng đám đông, gây nên các hê lụy xã hội nặng nề, nếu không có biện pháp xử lý sẽ gây nên các đảo lộn xã

Quản lý tình huống bất thường là quá trình chủ động và thực hiện hiệu quả các mục tiêu của các chủ thể quản lý xã hội: 1) Đương đâu với thực tê; 2) Bình tĩnh xây dựng kế hoạch, tìm biện pháp khả thi, thực hiện mọi cách để giản thiểu hậu quả và ngăn chặn không cho bất thường lan nhanh hay kéo dài: 3) Chia sẽ thông tin; 4) Phân tích sâu gốc rễ các vấn đề; 5) Săn sàng đón nhận hậu quả xấu; 6) Tranh thủ cơ hội tốt; 7) Ra quyết định kịp thời, hiệu quả; 8) ổn định và phát triển sau tình huống bất thường.

Việc nhận diện chính xác các tình huống bất thường trong thực tế, nghiên cứu các hệ lụy do chúng gây ra và đề xuất một số vấn đề về quản lý xã hội đối với các tình huống đó là điều hết sức cần thiết, đặc biệt trong tình hình hiện nay[1]. Việc ngăn ngừa tác hại của các tình huống bất thường phụ thuộc vào các yếu tố như tính cộng đồng, kinh nghiệm, năng lực tổ chức quản lý và tiềm năng vật chất, kỹ thuật cùa nhà nước.

Để chủ động, đảm bảo tính hiệu quả trong quản lý tình huống bất thường cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, cần có quan điểm rõ ràng để ngăn chặn các tình huống bất thường trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, từ đó làm cơ sở cho việc huy động mọi nguồn lực xã hội, trong nước và quốc tế nhằm chủ động phòng ngừa, quản lý hiệu quả tình huống bất thường.

Hai là, các khoa học có liên quan cần đưa tình huống bất thường trở thành đối tượng nghiên cứu của mình. Trong đó, khoa học quản lý xã hội cần xác định đối tượng nghiên cứu chính là các tình huống bất thường và kết quả nghiên cứu là nhằm phục vụ quản lý các tình huống bất thường ngày càng chủ động, hiệu quả. Việc tăng cường nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ sẽ giúp chủ động, hiệu quả hơn trong dự báo, kiểm soát, phòng ngừa các tình huống bất thường trong tự nhiên và xã hội.

Ba là, thực hiện tốt việc phân loại các tình huống bất thường để chủ động quản lý. Bởi vì, các tình huống bất thường có chung một đặc điểm là gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội; nhưng có sự khác nhau ở nguyên nhân, diễn biên, khác nhau ờ môi trường, không gian xuất hiện...Do đó, cần thiết phải phân loại để có sự chủ động ứng phó dưới dạng nhận biết, chuẩn bị và đề ra các giải pháp ứng phó. Trên cơ sở đó, các chủ thể quản lý kịp thời thực hiện các biện pháp quản lý xã hội phù hợp, đạt hiệu quả cao.

Bốn là cần thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của các nhóm xã hội đề thích nghi với các tình huống bất thường. Chủ động thông tin và trung thực về thông tin trong tình huống bất thường là một yêu cầu quan trọng. Thông tin về tình huống bất thường cần được đưa ra kịp thời, không né tránh, không phỏng đoán và tránh những thông tin gây hiệu ứng tiêu cực. Khi các vụ việc bất thường xảy ra, đại diện các cơ quan chức năng trả lời truyên thông, báo chí cần lựa chọn các thông điệp khách quan, khoa học và trung tính.

Năm là, các chủ thể liên quan đến hoạt động quản lý xã hội phải có một tầm nhìn xa và hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các tinh huống bất thường. Chủ thê quản lý xã hội, nhất là Nhà nước cần tăng cường các hoạt động truyền thông, nâng cao năng lực, kỹ năng cho người dân ứng phó với các tình huống bât thường. Thông qua đó tang cường sự hiểu biết, kỹ năng, thúc đẩy các nhóm xã hội/địa phương thoát khỏi tình huống bất thường.

Sáu là, cần nghiên cứu, ban hành và thực hiện một hệ thống pháp luật quy định vê trách nhiệm và năng lực quản lý tình huống bất thường chặt chẽ và hiệu quả. Căn cứ của hoạt động quản lý tình huống bất thường là nhà nước phải là khung thể chế thông qua hệ thống pháp luật. Hệ thống các quy phạm cần được đặt ra một cách đồng bộ, kịp thơi, bắt đầu tư khung thể chế trong Hiên pháp, luật và các văn bản quy phạm hành chính.

Bảy là, nghiên cứu xây dựng phát triển cơ quan, tổ chức chuyên trách và chuyên nghiệp có chức năng ứng phó với tình huống bất thường; đầu tư thỏa đáng các ngưôn lực, trang thiết bị công nghệ hiện đại cho hoạt động ứng phó với tình huông bât thường. Thường xuyên thực hiện nghiên cứu khoa học, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm từ các tình huống bất thường đã xảy ra.


 



[1] Nguyễn Văn Thâm (2014), tài liệu đã dẫn, tr 59.

Quản lý tốt những vấn đề sai lệch xã hội

 


Sai lệch xã hội là một khái niệm của xã hội học được định nghĩa là sự vi phạm có nhận thức các tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng của một nhóm hay của xã hội.

Sai lệch xã hội là hành vi của các cá nhân hoặc nhóm người nào đó không phù hợp với những gì được coi là bình thường của cộng đồng,  đi chệch những gì mà số đông những người khác mong đợi ở họ trong những hoàn cảnh nhất định. Sự sai lệch xã hội là sự vi phạm các chuẩn mực hoặc các quy tắc đã được chấp nhận của một nhóm xã hội hay một xã hội nhất định[1].

Sai lệch xã hội, dù là về tư tưởng, thái độ hay trong hành vi, cũng đều chiu sự phán xử của hệ quy chiếu chính thống. Nó thường bị quy thành cái cá biệt, đáng bị chỉ trích, vì nó đụng chạm đến tâm thế xã hội, gây ra những hệ lụy khó kiểm soát. Có thể nhận thấy, những gì được coi là sai lệch, trên hết là một vấn đề được xác định về mặt xã hội bởi một cộng đồng xã hội hay một nhóm người bên trong cộng đồng đó.

Thực tế cũng cho thấy, sai lệch chịu sự chi phối bởi quyền lực, sự bất công trong xã hội. Chẳng hạn, có những hành vi giống nhau nhưng người không có quyền lực bị xem là lệch lạc và có thể chịu hình phạt, trong khi người có quyền lực thì không. Không những vậy một hành vi có được coi là lệch lạc hay không tùy thuộc vào quan niệm của xã hội, vào cách mà người khác nhận thức tình huống. Sai lệch xã hội chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tiêu chuẩn văn hóa, một hành vi được coi là lệch lạc trong mối quan hệ với những tiêu chuẩn văn hóa cụ thể. Những tiêu chuẩn văn hóa rất khác nhau giữa các nền văn hóa, trong mỗi nền văn hóa cũng khác nhau ở các tiêu văn hóa...; hơn nữa tiêu chuẩn văn hóa còn thay đổi theo thời gian nên quan niệm về sự lệch lạc cũng khác nhau và thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn, chỉ những năm gần đây ở Việt Nam, hút thuốc lá ở nơi công cộng được coi là hành vi lệch lạc, trong khi trước đó nó là việc khá bình thường.

Có 4 yếu tố cấu thành sai lệch xã hội (nguyên nhân khách quan).

Một là, do những sai lệch trong hệ thống giá trị. Hệ thống giá trị trong xã hội được hình thành qua các thời kỳ lịch sử nhất định và do vậy nó mang tính lịch sử; nó sẽ mất đi khi không còn phù hợp với thực tiễn xã hội song nó lại được hình thành mới khi thực tiễn biến đổi. Hệ thống giá trị được chia thành các giá trị chung phổ quát (giá trị nhân loại) và các giá trị thuộc về một giai cấp hay tầng lớp nào đó. Bất kỳ một sự chệch hướng giá trị của xã hội hiện hành đều có thể bị coi là sai lệch xã hội.

Hai là, do sự biến đổi các chuẩn mực xã hội. Trong đời sống xã hội, chuẩn mực xã hội là những quy ước chung của cả cộng đồng hay một nhóm xã hội nhất định, quy định những hành vi cụ thể của mỗi cá nhân trong mỗi tình huống cụ thể nhất định. Sự xem nhẹ các chuẩn mực xã hội, không tuân thủ các chuẩn mực xã hội có thể dẫn tới những hành vi sai lệch xã hội. Tuy nhiên, cũng như bất kỳ hiện tượng xã hội nào, chuẩn mực xã hội cũng luôn biến đổi theo thòi gian. Chuẩn mực đã biến đổi hoặc bị bóp méo hoặc không được áp dụng đúng chỗ thì dẫn đến hành vi sai lệch xã hội.

Ba là, do sự thay đổi các quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình con người cùng nhau hoạt động sản xuất và tinh thần. Quan hệ sản xuất vật chất là quan hệ cơ bản, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội, là mối quan hệ cơ bản, chi phối mọi quan hệ khác. Sự vận động và phát triển của quan hệ sản xuất kéo theo sự thay đổi của các quan hệ xã hội. Chuẩn mực, giá trị xã hội vừa phản ánh các quan hệ xã hội vừa điều chỉnh các quan hê xã hội. Các quan hệ xã hội thay đổi sẽ làm cho hệ thống giá trị, chuẩn mưc xã hội cũng biến đổi và dẫn đến các hành vi sai lệch xã hội.

Bổn là, do sự rối loạn các thiết chế xã hội. Các thiết chế xã hội có chức năng điều chỉnh, hướng dẫn và kiểm soát hành vi con người phù hợp với các chuẩn mực mà thiết chế xã hội tạo ra. Chúng được thiết lập trên các nhu cầu cơ bản của xã hội. Các thiết chế xã hội có vai trò kiểm soát và quàn lý xã hội. Tuy nhiên, trong không ít tình huống vì nhiều lý do khác nhau dẫn đến thiết chế xã hội không được vận hành một cách bình thường, thậm chí rối loan dẫn tới mất ổn định xã hội. Vì vậy, bất kỳ một sự rối loạn hay đổ vỡ thiết chế xã hội nào đều trở thành vấn đề xã hội nghiêm trọng, dẫn đến hành vi sai lệch xã hội.

Các nhóm nguyên nhân (chủ quan) cơ bản dẫn đến sai lệch xã hội.

Một là, sự không hiểu biêt, hiểu biết không đúng, không chính xác các quy tắc, yểu cầu của chuẩn mực xã hội. Trong trường hợp đó, đa số các hành vi sai lệch xảy ra chủ yếu là do các cá nhân, tập thể thiếu thông tin, kiến thức, hiểu biết về các chuẩn mực xã hội, thiếu kinh nghiệm thực tế: do họ không hiểu hoặc hiểu không đúng quy tắc, yêu cầu của các chuẩn mực xã hội, do đó họ đã thực hiện hành vi sai lệch nhất định.

Hai là, tư duy diễn dịch không đủng, sự suy diễn các chuẩn mực xã hội thiếu căn cứ logic và sử dụng các phán đoán phi logic. Điều đó có nghĩa là, khi tham gia vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, do thói quen suy diễn sai lầm, sử dụng các phán đoán thiếu căn cứ logic nên một số cá nhân, nhóm xã hội thường nhầm lẫn hoặc cố ý áp dụng các chuẩn mực ở lĩnh vực này vào trong lĩnh vực khác, do vậy đã vi phạm một số chuẩn mực xã hội nào đó, tức là đã thực hiện hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội.

Ba là, cuất phát từ quan niệm sai lệch tới việc thực hiện hành vi sai lệch xã hội. Trong quá trình vận động và phát triển của xã hội có những quan niệm chỉ có ý nghĩa thực tế, được coi là đúng trong xã hội cũ trước đây. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay nó đã tỏ ra không phù họp và lỗi thời, bị coi là sai lệch chuẩn mực về cả hình thức, nội dung và tính chất. Mặc dù vậy, vẫn có những cá nhân, nhóm xã hội làm theo các các quan niệm sai lệch đó nên đã dẫn tới sai lệch xã hội.

Bốn là, các khuyết tật về tâm sinh lý dẫn tới hành vi sai lệch xã hội. Trong xã hội có những cá nhân nào đó, do dị tật bẩm sinh hoặc do tai nạn mắc phải khiến họ mang trên mình những khuyết tật nhất định về tâm sinh lý, thể chất, như: bị mù, câm, điếc, trí lực, thần kinh, rối loạn, hoang tưởng...Những khuyết tật đó làm cho các cá nhân mang khuyết tật bị mất đi một phần hoặc toàn bộ khả năng cảm nhận, nhận biết về các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội nói chung khiến họ thực hiện các hành vi sai lệch mà không biết.

Năm là, cơ chế về mối liên hệ nhân - quả giữa các hành vi sai lệch xã hội. Có thể thấy, quan hệ nhân quả đi từ việc thực hiện một hành vi sai lệch này tới việc thực hiện một hành vi sai lệch khác mà chủ thể không biết, hoặc biêt những vẫn cứ thực hiện là một trong những nguyên nhân đẫn đến hành vi sai lệch. Hành vi sai lệch thứ nhất được coi là nguyên nhân dẫn tới kết quả là hành vi sai lệch thứ hai. Khi xem xét môi quan hệ nhân-quả của sai lệch xã hội, chúng ta cần phải cãn cứ vào một sổ yếu tố sau: 1) Tính chất, khuynh hướng và sự phổ biến tương đối của hành vi sai lệch xã hội đó; 2) Điều kiện lịch sử, hoàn cảnh xã hội, thời gian địa điêm xảy ra sai lệch xã hội.

Hệ quả của sai lệch xã hội được nhìn nhận trên các phương diện:

Thử nhát, có thể mang nội dung, tính chất tích cực, tiến bộ, cách tân nêu như nó vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự chi phối của các chuẩn mực xã hôi đã lạc hậu, lỗi thời, phản động, đang kìm hãm sự phát triển của cá nhân và xã hội. Khi đó hành vi sai lệch có thể góp phần làm thay đổi nhận thức của xã hội và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

Thử hai, hệ quả của sai lệch có thể mang nội dung và tính chất tiêu cực ảnh hường xấu hoặc nguy hiểm cho xã hội nếu như nó vi phạm, phá vỡ tính ổn định, sự tác động của những chuẩn mực xã hội phù hợp, tiên bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi. Trong trường hợp này, sai lệch xã hội bị dư luận xã hội phê phán, lên án hoặc đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp trừng phạt theo nguyên tắc, quy định của pháp luật.

Thứ ba, sai lệch xã hội được xác định là tích cực hay tiêu cực cần phải được xem xét từ quan điểm lịch sử- cụ thể để xác định những cách thức ứng xử hợp lý. Chẳng hạn, có những điều hôm nay là chân lý, là chuân mực, giá trị, ngày mai có thể trờ thành cái cá biệt, cái cản trở sự phát triển Ngược lại, cái hôm nay bị quy kết là lệch lạc, cá biệt, ngày mai có thê trở thành chuân mực, chân lý, được thừa nhận. Đôi khi cái bị quy là “sai lệch xã hội” phải đến cả trăm năm sau mới được thừa nhận[2].

Về quản lý sai lệch xã hội        

Kiểm soát xã hội là sự kiểm soát của hệ thống thiết chế xã hội đối với những nhận thức tình cảm, thái độ và hành vi của con người. Chức năng của kiểm soát xã hội là tạo ra những điều kiện cho sự bền vững, ổn định và trật tự xã hội, mặt khác tạo ra những thay đổi mang tính hợp lý và tích cực (thay đổi trong khuôn khổ được phép, không ảnh hưởng đến độ bền vững và tính ổn định cùa hệ thống xã hội). Thực tế đặt ra yêu cầu kiểm soát xã hội cần phải có tính mềm dẻo, linh hoạt, như vậy mới có thể nhận biết được ý nghĩa của sai lệch xã hội. Chẳng hạn, phân biệt được sự khác nhau giữa những sai lệch tiêu cực, đe dọa phá hoại sự ổn định và trật tự xã hội và những sai lệch là mầm mong cho sự tiến bộ, phát triển. Nếu như kiểm soát xã hội không đáp ứng được yêu cầu này, nó sẽ triệt tiêu mọi nhân tố tích cực của sự phát triển xã hội. Do vậy, thực hiện kiểm soát, quản lý sai lệch xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng nhăm giữ gìn và bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn; cũng như sự phát triển xã hội. Quá trình kiểm soát xã hội bao gồm: tự kiểm soát và bị kiểm soát.

Tự kiểm soát là việc tuân thủ các chuẩn mực đã được cá nhân hóa chính là cơ sở của quá trình tự kiểm soát, hay kiểm soát từ bên trong. Các chuẩn mực được cá nhân hóa chính là hệ chuẩn mực của cộng đồng xã hội hoặc nhóm xã hội mà cá nhân là thành viên. Thực tế cho thấy, tự kiểm soát là công cụ hữu hiệu nhất trong kiểm soát xã hội, bởi vì nó cần ít sự giám sát và ít nỗ lực nhất để có thể trừng phạt những kẻ vi phạm. Quá trình tự kiểm soát nói lên sụ tuân thu bơi vì họ muon làm như vậy, chứ không phải là bởi vì họ sợ bị trừng phạt. Như vậy, quá trình tự kiểm soát là sự tự giác của các cá nhân trong tuân thủ các chuân mực. Cá nhân hình thành được khả năng tự kiểm soát thông qua việc tiêp nhận các phong tục tập quán, truyền thống, niềm tin, chuẩn mực và giá trị của xã hội Cá nhân có được khả năng tự kiểm soát xã hội do quá trình học tập và rèn luyện của bản thân.

Bị kiểm soát là quá trình xã hội tạo ra những biện pháp kiểm soát xã hội từ bên ngoài đôi với cá nhân, nhóm xã hội. Các biện pháp này có thể là chính thức hoặc phi chính thức. Kiểm soát xã hội phi chính thức bao gồm những dạng áp lực khác nhau được tạo ra trong các bối cảnh giao tiếp trực tiếp giữa các cá nhân nhằm đảm bảo sự tuân thủ các chuẩn mực chung. Thông qua đó, các cá nhân thể hiện sự không đồng tình và từ đó tạo áp lực khiến người khác điều chỉnh hành vi của họ. Kiểm soát xã hội chính thức là những biện pháp kiểm soát được nêu trong văn bản chính thức của xã hội và được thực thi bởi các cơ quan chức năng của nhà nước. Trong các xã hội công nghiệp và biển đổi phức tạp, kiểm soát xã hội chính thức trở nên đặc biệt quan trọng bởi không có đù các biện pháp kiểm soát phi chính thức.

Các giải pháp tăng cường kiểm soát, quản lý sai lệch xã hội:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục và tiếp cận thông tin hướng tới việc cung câp, trang bị, hướng dân, giải đáp các thông tin vê chuân mực xã hội, có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết của con người, trong chừng mực nhất định họ biết được những việc nên làm, những điều nên tránh trong hành vi của mình.

Hai là, tăng cường các hoạt động can thiệp trị liệu về tâm lý, y - sinh học: nhằm tìm hiểu, phát hiện ở họ những khuyết tật về thể chất (mù, câm, điếc..); những khuyết tật về trí lực (bệnh hoang tưởng, bệnh tâm thân...) hoặc trạng thái say rượu, nghiện ma túy...

Ba là, chú trọng biện pháp kiểm soát, quản lý dựa trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội của xã hội; tức là hướng đên mục tiêu phòng ngừa, kiểm soát tận gốc rễ các sai lệch xã hội, loại bỏ những nguyên nhân là nảy sinh các sai lệch. Hướng đến các giải pháp ngăn chặn sự hình thành sai lệch xã hội gắn với “bi kịch của sự phát triển”, nảy sinh từ các quan hệ của cơ chế thị trường, hội nhập. Bổn là, tập trung kiểm soát, quản lý sai lệch hướng vào việc xây dựng các giá trị, chuẩn mực xã hội và định hướng, thúc đẩy các hành vi theo giá trị xã hội, chuẩn mực xã hội. Như, phát huy và kế thừa giá trị truyền thống cao đẹp của nhân loại; củng cố vai trò điều chỉnh của luật pháp, tăng cường các biện pháp giáo dục tuân thủ các chuẩn mực mới.

Năm là, nhấn mạnh biện pháp kiểm soát, quản lý thông qua áp dụng sự lên án và trừng phạt của xã hội đôi với những cá nhân, nhóm xã hội có hành vi sai lệch gây nhiều hệ quả tiêu cực cho xã hội, có xu hướng lặp lại, lan rộng.

Sáu là, tập trung biện pháp pháp hướng sự chủ động và trực tiếp vào việc tấn công các sai lệch xã hội, xây dựng một hệ thống tổ chức điều hành và quản lý có hiệu lực. Ở đây, căn cứ vào từng loại hành vi sai lệch; từng nhóm xã hội để phân tích và tìm ra những giải pháp tương ứng.

Bảy là, thực hiện giải pháp tiếp cận tổng hợp và kế hoạch hóa xã hội: giáo dục các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thông, xây dựng và phổ biến lối sống lành mạnh, tiến bộ; mở rộng các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh, tiến bộ; Hướng vào mục tiêu kiểm soát, quản lý và khắc phục sai lệch xã hội, chúng ta cần phải có được một quan điểm mang tính hệ thống..

Tùy vào điều kiện xã hội cụ thể mà có biện pháp kiểm soát, quản lý sai lệch xã hội phù hợp, nhưng mục tiêu cơ bản của nó không bao giờ thay đổi. Đó là sự định hướng vào những bản chất tốt đẹp của con người; bản chất tôt đẹp và nhân đạo của chế độ xã hội



[1] Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr 245.

[2] Đặng Cnh Khanh (2007), Khắc phục đầy đủ và toàn diện các sai lệch xã hội Tạp chí cộng sàn điện tử http://www.tapchicongsan.org.vn/

Phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong xây dựng đất nước hiện nay

 


Qua phòng, chống COVID- 19 chúng ta càng tự hào có Đảng, có Bác Hồ kính yêu, có Nhà nước pháp quyền XHCN; và càng tư hào hơn khi nhân dân ta các dân tộc (từ dân tộc Kinh đến các dân tộc thiểu số), các tầng lớp, lực lượng, các nhóm xã hội… luôn đoàn kết, gắn bó, quyết tâm cao trong phòng, chống dịch.

Dịch COVID-19 là loại dịch bệnh lây lan từ người sang người với tốc độ rất nhanh. Để chống dịch tốt, đòi hỏi mỗi người phải thực hiện tốt việc đeo khẩu trang và cách ly xã hội. Nếu trong xã hội chỉ một vài người chấp hành không nghiêm các quy định thì không thể khống chế được. Thực tế, hiện nay ở nhiều nước có những quy định trong cách ly xã hội rất nghiêm; trình độ y học rất tốt, nhưng tỷ lệ nhiễm vi rút COVID- 19 rất lớn, bởi vì do ý thức trách nhiệm của người dân không tốt. Với Việt Nam, lòng yêu nước đã phát huy tốt trong chống dịch CIVID-19, chúng ta hãy phát huy hơn nữa chủ nghĩa yêu nước Việt nam trong thực hiện các nhiệm vụ kép hiện nay. Đây là lời hiệu triệu nhưng cũng đầy tự hào bởi truyền thống, khí phách Việt nam.

THỦ ĐOẠN MỚI TRONG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình ở Việt Nam, các thế lực thù địch luôn coi việc phá hoại tư tưởng là mũi nhọn, là con đường ngẵn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng với chế độ xã hội chủ nghĩa. Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh các thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam, đó là:

Chúng chúng tìm mọi cách đẩy nhanh quá trình “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. So sánh các chế độ, chính sách liên quan đến đời sống nhân dân ta với các nước phương Tây; vấn đề tự do, dân chủ, hòng làm cho người dân thấy như “ xã hội Việt Nam đang có vấn đề” dẫn đến hoài nghi, mơ tưởng về một “xã hội khác tốt đẹp hơn”. Nếu cán bộ, đảng viên chúng ta không vững vàng về tư tưởng, dễ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thay đổi quan điểm, tư tưởng, đạo đức, lối sống.

Điều chỉnh thủ đoạn chống phá từ công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng đối lập, đòi bỏ điều 4. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do không đem lại kết quả. Thủ đoạn mới của chúng là tuyên truyền kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ. Từ đó tác động làm tha hóa từng cán bộ, đảng viên, nhằm thực hiện mưu đồ phá hoại từ bên trong, thức đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Chúng sử dụng các hình thức tác động tinh vi, xảo quyệt đối với từng đối tượng:

Đới với cán bộ, đảng viên, chúng thổi phồng khuyết điểm yếu kém của một số địa phương và một số cá nhân đảng viên, đánh đồng giữa tập thể, cá nhân tốt với tập thể cá nhân có khuyết điểm, sai phạm hòng làm cho nhân dân mất niểm tin vào cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đối với tầng lớp nhân dân, chúng lợi dụng việc tiếp cận thông tin sai lệch, nhằm tạo khoảng chống trong tư tưởng nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi, mất niềm tin với chế độ, Đảng và nhà nước, từ đó chúng kích động các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trước thủ đoạn mới của các thế lực thù địch chống phá đất nước ta, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, giữ vững lập trường, tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chủ động phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

                Thanh Bình



Không ngừng nâng cao chất lượng trong quản lý các vấn đề xã hội ở Việt Nam

 


Các vấn đề xã hội nảy sinh từ những hệ quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội quá nhanh chóng, mất cân bằng, thiếu bền vững, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của con người và xã hội. Do vậy, giải quyết vấn đề xã hội là nhằm bảo đảm sự ổn định cho quá trình chuyển hóa tăng trưởng kinh tế thành phát triển bền vững theo hướng tiến bộ và công bằng xã hội.

Tăng trưởng kinh tế, dù mạnh mẽ đến đâu cũng không thể tự động và trực tiếp giải quyết được các vấn đê xã hội. Do đó, tập trung quản lý, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội là một trong những nét đặc trưng của con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó là con đường phát triển dựa vào con người và hướng đến con người. Nó cũng là một đặc điểm bảo đảm sự điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Các vấn đề xã hội là hệ quả song hành với quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, và thường là những hiện tượng xã hội rẩt phức tạp, nan giải mà bất kỳ một quốc gia dân tộc nào dù phát triển hoặc chưa phát triển cũng có thể phải đối mặt. Thực tế cho thấy, các vấn đề xã hội cũ đang có xu hướng trỗi dậy và gia tăng. Đồng thời, các vấn đề xã hội mới ngày càng xuất hiện. Sự gia tăng tác động tiêu cực của các vấn đề xã hội đang là những thách thức cản tr việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm chậm lại quá trình phát triển của xã hội. Chính vì vậy, quản lý và giải quyết các vấn đề xã hội phải trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, nhà nước và xã hội Việt Nam. Song để đạt mục tiêu này, một yều cầu đặt ra là cần phải được dự báo các vấn đề xã hội một cách kịp thời, chính xác và đưa ra chương trình nghị sự chung của quốc gia. Muốn vậy, vấn đề xã hội cần được đặt vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự của Đảng và Nhà nước[1]. Để đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực trong quản lý các vấn đề xã hội đòi hỏi cần phải xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ, kịp thời, thích hợp và khả thi. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016) đã nhấn mạnh mục tiêu: Phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt vấn đề xã hội; giải quỵết tốt các vấn đề xã hội là tạo ra động lực cho sự phát triển xã hội hài hòa, bển vững[2].

Để tăng cường công tác quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội một cách chủ động, hiệu quả hơn, cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, về mặt quan điểm, nhận thức cần phải chấp nhận “vấn đề xã hội” sẽ còn tồn tại với xã hội trong quá trình phát triển. Đồng thời, thực tế cho thấy các nguyên nhân tạo ra chúng ngày một tinh vi, phức tạp thêm. Không thể có một xã hội mà không có vấn đề xã hội, nhưng cần phải xây dựng một xã hội có đủ năng lực giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Do vậy, Việt Nam cần phải hướng đến mục tiêu là kiểm soát, giảm thiểu tác động tiêu cực của vấn đề xã hội. Trên cơ sở tiếp cận giải quyết các vấn đề xã hội trong mối tương quan giữa sự vận động, tái cấu trúc nền kinh tế với sự vận động, tái cấu trúc xã hội.

Hai là, cần thúc đẩy quá trình xây dựng hoặc cập nhật, vận dụng sáng tạo những quan điểm mới, lý thuyết mới cho hệ thống lý luận của Đảng và Nhà nước trong giải quyết vấn đề xã hội. Thực tiễn cho thấy đã đến lúc chúng ta phải dũng cảm thay thế những quan điểm lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp, không thể sử dụng để giải thích và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước trong điều kiện hiện nay. Đặc biệt, cần phải chủ động tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi của đội ngũ cán bộ và các giai tầng xã hội đối với các vấn đề xã hội.

Ba là, tiếp tục kiện toàn và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng tinh gọn về bộ máy; thống nhất, đồng bộ về nguồn lực, mục tiêu; chia sẻ về dữ liệu thông tin nhằm giải quyết kịp thời, chính xác và hiệu quả hom các vấn đề xã hội.

Bốn là, tăng cường lượng hoá tiêu chí, áp dụng các công nghệ quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng từng bước hội nhập với thế giới. Các tiêu chí và công nghệ tiếp cận phải bám sát nhũng yêu cầu của chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, việc đổi mới xây dựng chỉ tiêu liên quan đến các vấn đề xã hội cần thực hin một cách có chọn lọc, phù hp với bối cảnh điều kiện của Việt Nam. Việc lượng hoá các tiêu chí, áp dụng công nghệ quản lý giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng từng bước tiếp cận với thế giới là tiền để cần thiết; tạo cơ sở khoa học cho việc đổi mới nhận thức và phương pháp hoạch định, triển khai quản lý giải quyết các vấn đề xã hội ngày càng chủ động, hiệu lực và hiệu quả hơn.

Năm là, xác lập mối liên hệ giữa phương thức quản lý xã hội bằng pháp luật với nắm bắt quy luật kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội, hướng tới phát trin bền vững là sự lựa chọn duy lý và mang tính tổng tích hợp. Do đó, đẩy mạnh việc thể chế hoá hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý các vấn đề xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề thể chế hóa các văn bản sẽ thúc đẩy công tác quản lý các vấn đề xã hội bằng pháp luật cần phải được đẩy manh

Sáu là, tiếp tục xây dựng phát triển các nguồn lực cho việc quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội. Trước tiên phải tăng cường đầu tư các nguồn lực của Nhà nước và cần phải được xem xét là sự đầu tư cho mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, mở rộng hp tác quốc tế để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của các nguồn lực thông qua việc thực hiện xã hội hóa quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội. Nhà nước giữ vai trò định hướng, “đặt hàng” các doanh nghiệp, tổ chức xã hội thực hiện một số lĩnh vực thay các cơ quan hành chính Nhà nước hiện vẫn đang điều hành, quản lý và chịu trách nhiệm. Đó cũng là một hướng đột phá trong việc triển khai thực hiện có hiệu quả đổi với việc quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội.

Bảy là, trong chương trình nghiên cứu và đào tạo của các trường Đai học và Viện nghiên cứu có liên quan cần phải thể hiện tư duy “mở”, đa dạng hóa quan điểm tiêp cận khoa học và hành động can thiệp, vấn đề đặt ra là cần phát triển các chuyên ngành khoa học xã hội, trong đó có xã hội học để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định cuộc sống, bảo vệ con người trước những cú sốc của một xã hội đang ngày càng biến đổi nhanh và phức tạp. Do vậy, các kết quả nghiên cứu khoa học phải đáp ứng được nhu cầu nâng cao nhận thức, thay đôi thái độ và hành vi can thiệp về vấn đề xã hội. cần phải tăng cường các phương pháp tiếp cận khoa học, phương pháp dự báo vấn đề xã hội gắn liền với quy luật vận động, hệ quả của quá trình phát triển kinh tế- xã hội[3].

Những vấn đề xã hội ở Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng phức tạp hơn, phạm vi lan tỏa rộng hơn, tác nhân tham gia đa dạng hơn, hệ quả xã hội lớn hơn. Vì vậy các vấn đề xã hội cần được chú ý nhận diện và xử lý giải quyết trên quan điểm của tư duy hệ thống, trong xu hướng vận động, biến đổi và phát triển không ngừng của xã hội. Và do đó, đòi hỏi phải phối hợp nhiều lực lượng tham gia, cũng như phải khoa học hơn, nhiều nguồn lực và vì con người hơn mới có khả năng ngăn ngừa và ứng phó có hiệu quả. Những biểu hiện của các vấn đề xã hội đòi hỏi hoạt động quản lý xã hội phải có khả năng định hình phương thức ứng phó và quản lý mới, kịp thời, phù hp và hiệu quả.



[1] Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đă dẫn.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). sđd.

[3] Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đã dẫn.

Quản lý các vấn đề xã hội ở Việt Nam ngày càng hiệu quả

 


Vấn đề xã hội là những hiện tượng xã hội nảy sinh từ điều kiện và hệ quả của quá trình phát trin kinh tế - xã hội; ảnh hưởng xấu đến sự phát trin của cộng đồng, giai tầng xã hội hoặc toàn bộ xã hội. Vấn đề xã hội là những hiện tượng được công luận hay một số bộ phận của công luận đòi hỏi như là một tất yếu cần được thay đổi/giải quyết thông qua hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Như vậy, các vấn đề xuất hiện từ các quan hệ xã hội có tác động, ảnh hưởng hoặc đe doạ đến sự phát triển bình thường của xã hội, đòi hỏi xã hội phải có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hoặc giải quyết kịp thời, hiệu quả.

Một xã hội lành mạnh sẽ có sức đề kháng tốt đối với các “vấn đề xã hội”. Kinh nghiệm thực tiễn và khoa học đã chứng minh, khi kinh tế đi xuống, có thể chỉ cần vài năm để hồi phục, song một khi những vấn đề xã hội gia tăng đến mức không thể kiểm soát, hệ quả xã hội rất khôn lường và sẽ mất nhiều thập kỷ để khôi phục. Về mặt lý thuyết có thể đưa ra 7 tiêu chí để nhận diện vấn đề xã hội (phân biệt với vấn đề cá nhân), bao gồm: 1) có liên quan và tác động tới nhiều nhóm trong xã hội; 2) Có liên quan và ảnh hưởng đến nhiều thiết chế, lĩnh vực xã hội khác nhau; 3) Mang tính chất quốc tế, quốc gia; 4) Trở thành một chủ đề bàn bạc nhiều trong các chương trình nghị sự; 5) nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội; 6) Khó giải quyết tận gốc và triêt để; 7) Các vấn đề xã hội mới ngày càng xuất hiện, khó tiên lượng.

Năm 2000, Liên Họp quốc đã xác định 8 vấn đề xã hội- Mục tiêu thiên niên kỷ, bao gồm: 1) Xóa bỏ nghèo cùng cực & đói; 2) Phổ cập giáo dục tiểu học; 3)Tăng cường bình đẳng giới ;4) Giảm tỷ lệ từ vong ở trẻ em; 5).Tăng cường sức khỏe cho bà mẹ; 6) Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét, dịch bệnh; 7) Bảo đảm bền vững về môi trường; 8) Thiết lập quan hệ toàn cầu vì phát triển.

Ở Việt Nam, các vấn đề xã hội bao gồm: 1) Lạm phát; 2) Thất nghiệp; 3) Bất bình đẳng xã hội; 4) Chất lượng giáo đục; 5) Thiên tai, biến đổi khí hậu; 6) Tham nhũng, buôn lậu; 7) ách tc giao thông; 8) Vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường; 9) Chất lượng khám chữa bệnh; 10) Dịch bệnh; 11) vấn đề khác[1]...

Từ những phân tích như vừa nêu có thể thấy, khái niệm và thực tiễn của vấn đề xã hội được hiểu và nhìn nhận khá đa dạng. Vì thế, việc tiếp cận và giải quyết vấn đề xã hội luôn là một thách thức trong nhận thức và hành động của Việt Nam hiện nay. Có thể khẳng định, các vấn đề xã hội ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước Việt Nam. Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng đều đề cập khá rõ nhiều vấn đề xã hội nổi cộm như: tình trạng tham nhũng và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; suy giảm niềm tin, tệ nạn xã hội như ma túy và mại dâm; tai nạn giao thông và thương tích; chất lượng nền giáo dục và đào tạo; chất lượng hệ thống khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Đặc biệt, từ năm 1986 đến nay, tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết các vấn đề xã hội đã có những bước phát triển mới: Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ việc giải quyết vấn đề xã hội sang nhấn mạnh việc phát huy quá trình xã hội hóa trong giải quyết vấn đề xã hội. Từ chỗ không chấp nhận vấn đề xã hội trong quá trình xây dựng đất nước sang chấp nhận các vấn đề xã hội như là hệ quả không mong muốn, song hành với sự phát triển kinh tế- xã hội. Từ chỗ coi việc giải quyết vấn đề xã hội là vấn đề thuần túy có tính chất chi phí nguồn lực sang vấn đề đầu tư cho phát triển bền vững. Từ chỗ giải quyết vẩn đề xã hội mang tính bị động/đối phó sang phương châm: dự báo, chủ động, tích cực hơn. Đặc biệt, trong việc giải quyết vấn đề xã hội đã từng bước lấy con người làm trung tâm, mục tiêu và động lực trong hoạch định và thực thi hệ thống chính sách an sinh xã hội nhằm giải quyết tốt, hiệu quả vấn đề xã hội2. Những thành tựu trên đây chính là hệ quả của tính ưu việt  chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng.



[1] ĐỒ Văn Quân (2015), Các vắn đề xã hội ờ Việt Nam hiện nay: nhận thứchành động, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị, số 11.

Qua chống dịch COVID-19 chúng ta càng tự hào về Đảng và Bác Hồ kính yêu

 


Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời (năm 1930), luôn không ngừng đổi mới về nhận thức, trách nhiệm, hành động, làm sao ngày càng có đủ năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, toàn dân có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, mọi người bình đẳng, tương trợ giúp nhau cùng phát triển.

 Tuy là một đất nước không lớn, nhưng với tầm nhìn sâu rộng, Đảng và Bác Hồ kính yêu đã nhanh chóng tiếp cận những tư tưởng khoa học, tiến bộ của chủ nghĩa Mác- Lênin- tư tưởng tiến bộ của thời đại- tư tưởng mang đậm tính nhân văn của ước nguyện bao đời của loài người, để từ đó xây dựng nên một chế độ xã hội chủ nghĩa với nền dân chủ thực sự: của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Thời gian qua với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thế và lực của Việt Nam ngày càng nâng cao. Đặc biệt qua phòng, chống dịch COVID- 19 từ tháng 1 đến tháng 9 vừa qua, trong khi toàn thế giới với tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong rất cao, nhưng ở Việt Nam với số người nhiễm và tử vong rất thấp (có hơn 30 người tử vong). Đây có thể nói nó thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN coi trọng con người trong chống dịch. Điều này được minh chứng rất rõ tính ưu việt của cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đó là mọi sự lãnh đạo của Đảng, mọi công việc của Nhà nước đều vì nhân dân. Biểu hiện rất rõ là, khi xảy ra dịch bệnh, dẫu biết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế, nhưng Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện rất tốt việc cách ly xã hội và các biện pháp khác để chống dịch (chúng ta luôn coi tính mạng con người lên trên hết). Từ quan điểm trên, bằng những quy định rất cụ thể, cùng với ý thức tự giác thực hiện của người dân, chúng ta đã nhanh chóng khống chế được dịch bệnh qua hai giai đoạn dịch bùng phát. Đây có thể nói là năng lực  lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của đất nước rất tốt. Qua chống dịch COVID- 19 chúng ta càng tự hào vì có Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại.

 

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

 


Cũng giống như trong tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay đi bên trong bản thân nó. Bât cứ xã hội nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu cũng luôn biến đổi. Sự biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, đa dạng, phức tạp hơn.

Biến đổi xã hội là quá trình xã hội trong đó các yếu tố cấu thành xã hội và cả hệ thống xã hội thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác[1].

Như vậy, biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến. Bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần và cấu trúc của xã hội đều được gọi là biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội diễn ra ở quy mô, cấu trúc và thành phần của xã hội như nhóm xã hội, vị thế xã hội, văn hóa, mạng lưới xã hội và toàn bộ hệ thống xã hội mà các yếu tố này tạo nên. Cùng với chiều cạnh cấu trúc-hệ thống xã hội còn có chiều cạnh thời gian: bt kỳ sự biến đổi nào cũng diễn ra trong khung thời gian nhất định và có thể là tạm thời, ngắn gọn hoặc bn vững lâu dài.

Sự biến đổi xã hội có thể diễn ra một cách tuần tự, từ từ theo quy luật tiến hóa hoặc diễn ra một cách mạnh mẽ, đột ngột dưới tác động của các cuộc cách mạng xã hội. Sự biến đổi có thể theo chiều hướng tiến bộ, với đặc trưng là trạng thái tiếp theo đạt tới mức hoàn thiện cáo hơn trạng thái trước đó. Cũng có thể biến đổi xã hội theo chiều hướng suy thoái, với biểu hiện là trạng thái tiếp theo kém hơn trạng thái trước đó[2].

Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống nhau giữa các xã hội. Biến chuyển xã hội có một số đặc trưng như sau: (i) Diễn ra trong những môi trường, các không gian xã hội khác nhau; (ii) Tốc độ và tính chất khác nhau; (iii) Biến đổi xã hội cũng diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau; (iv) Vừa có tính tự giác, nhưng cũng mang tính phi kế hoạch, có những biến đổi người ta lường trước, nhưng có những thay đối con người không thể lường được; (v) Biến đổi xã hội vừa mang kết quả tốt, nhưng cũng mang lại nhiều hậu quả xấu; (vi) Có những biến đổi diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng cũng có những biến đổi xã hội diễn ra thời gian rất lâu

Ba cấp độ biến đổi xã hội là biến đổi vĩ mô; biến đổi xã hội trung mô; biến đổi vi mô. Biến đổi xã hội ở cấp độ vi mô thể hiện rõ nhất là biến đổi nhận thức, thái độ và hành vi của cá nhân và các nhóm nhỏ. Biến đổi xã hội ở cấp độ trung mô thể hiện rõ nhất là sự biến đổi mô hình tổ chức, cấu trúc tổ chức, chức năng vai trò của tổ chức. Sự biến đổi xã hội ở cấp độ vĩ mô thể hiện rõ nhất là biến đổi của hệ thống cấu trúc xã hội, ví dụ từ truyền thống sang hiện đại, từ nông nghiệp sang công nghiệp . Biến đổi xã hội không song hành, thuận chiều và đồng nhất tự nhiên với phát triển và tiến bộ. Biến đổi xã hội vừa bao hàm những biến đổi nội tại của lĩnh vực xã hội, của từng yếu tố cấu thành lĩnh vực này lại vừa bao hàm, phản ánh những biến đổi với tư cách là hệ quả xã hội từ những biến đổi ngoài lĩnh vực xã hội, của kinh tế, chính trị văn hóa và môi trường tác động vào con người, vào các quan hệ và cấu trúc xã hội. Và, những biến đổi trong các lĩnh vực này không phải là tương dung mà trong không ít trường họp lại mâu thuân với nhau. Rõ nhất là kinh tế tăng trưởng và có những biên đổi tích cực nhưng không tự động dẫn tới những biến đổi xã hội tích cực tương ứng.

Các khía cạnh trong biến đổi xã hội bao gồm: (i) Biến đổi về dân số, (ii) Biến đổi về môi trường, (iii) Biến đi vê chính trị, (iv) Biến đổi về kinh tế, (v) Biến đổi về tư tưởng, (vi) Biến đổi về văn hóa và tôn giáo, (vii) Biến đổi về công nghệ và kỹ thuật.

Qúa trình biến đổi xã hội là quá trình chịu sự tác động bởi nhiu yếu tố, trong đó hoạt động quản lý xã hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Điều này thể hiện ở chỗ, hệ thống lý thuyết về phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường tạo nên mô hình bền vững, hài hòa cho sự biển đổi xã hội; hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường bảo đảm những điều kiện cụ thể cho sự biến đổi xã hội; đội ngũ những con người thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường bảo đảm những điều kiện thực hiện sự cam kết của xã hội cho biến đổi xã hội; hệ thống thể chế, thiết chế xã hội kiểm soát việc thực hiện các quá trình biến đổi xã hội... Đây là những điều kiện ràng buộc đối với việc thực hiện các điều kiện biến đổi xã hội vì con người, vì sự tiến bộ. Nhận diện những biến đổi xã hội, tức là xem xét nội dung, nguyên nhân, quy mô, xu hướng và tính phức tạp của những biến đổi đó một cách cụ thể.

Biến đổi xã hội ở Việt Nam là một quá trinh “biến đổi kép”, không chỉ là chuyển đổi từ nền văn minh nông nghiệp cổ truyền sang nền văn minh công nghiệp và hiện đại mà đồng thời còn là sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước1. Nghiên cứu biến đổi xã hội ở Việt Nam qua hơn 30 năm vừa qua là nghiên cứu những biến đổi xã hội gắn liền với tiến trình đổi mới đất nước. Biến đổi xã hội ở Việt Nam vừa chịu sự tác động to lớn của lực hút và lực đẩy của bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội trong nước và trên thế giới; của truyền thống và hội nhập quốc tế; của quy luật phát triển không đều giữa các vùng miền, giai tầng xã hội, lĩnh vực; đặc biệt là định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ... Trong đó có thể dễ dàng nhận diện biến đổi xã hội trên các chiều cạnh: Biến đổi cấu trúc xã hội; biến đổi phân tầng xã hội; biến đổi thiết chế xã hội/thể chế xã hội; biến đổi quan hệ xã hội; biến đổi hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội; biến đổi nhu cầu lợi ích; biến đổi tâm lý xã hội, mô hình hành vi và lối sống; biến đổi cấu trúc lao động; biến đổi hệ thống phúc lợi xã hội và mạng lưới an sinh xã hội là những biến đổi xã hội điển hình nhất ở Việt Nam trong đổi mới. Đặc biệt, trong cấu trúc xã hội đã và đang biến đổi mạnh mẽ, với sự xuất hiện của các giai tầng xã hội mới. Hiện nay, cấu trúc giai tầng xã hội ở Việt Nam được xác định, bao gồm: (i) công nhân; (ii) nông dân; (iii) tri thức; (iv) doanh nhân; (v) thanh niên; (vi) phụ nữ; (vii) quân đội; (viii) người cao tuổi; (ix) người về hưu; (x) tôn giáo; (xi) dân tộc (các tộc người thiểu số); (xii) công chức, viên chức; (xiii) người Việt Nam ở nước ngoài.

Có thể hiểu quản lý biến đổi xã hội là việc sử dụng hệ thống giá trị chuẩn mực xã hội, chính sách và các thể chế, thiết chế xã hội, thông qua đó các chủ thể tham gia vào hoạt động quản lý biến đổi xã hội.

Quá trình này diễn ra trong môi trường tương tác xã hội giữa chủ thể thuộc hệ thống chính trị và khu vực bên ngoài hệ thông chính trị. Chẳng hạn, nhà nước ban hành các quy tắc, quy định cho biến đổi xã hội; trong khi xã hội xác định rõ lợi ích và hành động tập thể để thúc đẩy biến đổi xã hội theo hướng tích cực. Như vậy, quản lý biến đổi xã hội là đem những tác động của thể chế chính sách, của các nhân tố điều kiện vào đối tượng sao cho đủ sức kích thích tích cực, phát triển đồng thời ngăn chặn hoặc ít ra cũng làm giảm thiểu mặt tiêu cực, thoái triển.

Ngày nay quá trình hiện đại hóa là xu hướng thống lĩnh xã hội đã và đang làm thay đổi thang bậc giá trị, chuẩn mực trong xã hội, nhiều giá trị và quy tắc được định hướng và xác lập trong quá khứ nhưng không còn được chấp nhận trong thòi kỳ hiện đại và ngược lại. Xã hội Việt Nam đang diễn ra quá trình biến đổi xã hội nhanh chóng và sự vận động phức tạp khó lường. Điều này đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi mô hình, phương thức quản lý xã hội từ truyền thống sang hiện đại. Để đảm bảo sự biến đổi đúng định hướng cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của mọi giai tầng xã hội một cách chủ động, sáng tạo, dựa trên nền tảng tri thức khoa học và nhìn thẳng vào sự thật xã hội. Có thể dễ nhận thấy ở cấp độ vi mô, có nhiều biến đổi tích cực hơn là ở cấp độ trung và vĩ mô; biến đổi xã hội ở tầm ngắn hạn có nhiều biểu hiện tích cực hơn là nhìn biến đổi xã hội trong chiều canh dài hạn; so sánh sự biến đổi xã hội trước năm 1986 so với giai đoạn hiện nay có nhiều thay đổi nhanh chóng, tích cực nhưng so với yêu cầu của thực tiễn và so với các quốc gia có cùng điều kiện tương tự thì chúng ta lại thấy sự biến đổi xã hội ờ Việt Nam hiện nay đang đặt ra rất nhiều vấn đề. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu phải tăng cường các hoạt động quản lý biến đổi xã hội.

Để tăng cường tính chủ động, hiệu quả và hiệu lực của quản lý biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay, cần chú ý thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, hoạch định và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phải hết sức chú ý tới vấn đề biến đổi xã hội, hướng tới quản lý biến đổi xã hội.

Do biến đổi xã hội luôn có tầm quan trọng chiến lược, làm thay đổi nhận thức từ chủ thể lãnh đạo, quản lý, có thẩm quyền ra các quyết sách, đường lối và chính sách. Biến đổi xã hội có ý nghĩa sâu xa và to lớn hơn, ở chỗ, mọi chính sách phải hướng tới phục vụ lợi ích và phát triển các tiểm năng sáng tạo của con người, coi con người là mục tiêu và động lực của đổi mói và phát triển, do đó con người trở thành tiêu điểm của mọi chính sách. Vì vậy, trong hoạt động quản lý biến đổi xã hội cần chú trọng tới lợi ích vả nhu cầu của xã hội. Tức là chú trọng tới nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất và của phát triển xã hội nói chung. Muốn vậy, trước hết cần phải có sự thay đổi trong nhận thức việc hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng và điều chỉnh chính sách, luật pháp, cơ chế quản lý của Nhà nước phải hướng tới phát triển, theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững.

Hai là, quản lý biến đổi xã hội được thực hiện đồng bộ bởi hệ thống chính trị và bên ngoài hệ thống chính trị. Muốn hoạt động quản lý biến đổi xã hội tốt cần đảm bảo các yêu cầu: (i)Tầm nhìn; (il) Những giá trị côt lõi (mục tiêu); (iii) Hành động và chương trình hành động; (iv) Chủ thể tổ chức thực hiện; (v) Lực lượng xã hội tham gia (đó là cộng đồng xã hội); (vi) Những điều kiện thúc đẩy hỗ trợ phát triển; (vii) Hiệu ứng xã hội, hiệu quả, kết quả để thụ hưởng, để tiếp tục tái sinh sự phát triển theo hướng tiên bộ, tích cực[3].

Ba là, đẩy mạnh việc hoàn thiện các công cụ quản lý biến đổi xã hội phù hợp với đối tượng chịu sự tác động của biến đổi xã hội. Công cụ tác động tới quản lý biến đổi xã hội là thể chế, thiết chế, chính sách...Còn đối tượng tiếp nhận biến đổi, hoặc được thụ hưởng lợi ích từ những biến đổi xã hội tích cực hoặc phải chịu những thiệt hại từ những biến đổi xã hội tiêu cực là con người, nhóm xã hội, cộng đồng hoặc toàn bộ xã hội. Một yêu cầu đặt ra để xử lý tốt mối quan hệ này là cần xem xét những biến đổi xã hội từ phương diện con người - hoạt động và chính sách là xem xét sự vận động, tác động qua lại giữa chủ thể - đối tượng và đối tượng - chủ thể . Trên cơ sở đó, tập trung vào xây dựng khuôn khổ pháp lý để bảo vệ quyền của các nhóm xã hội; phát triển khuôn khổ pháp lý; thúc đẩy tiếng nói và trách nhiệm giải trình; tiếp cận công lý, bảo trợ xã hội, phát triển ngành; phân tâng xã hội, cơ động xã hội, di chuyển dân cư, dịch chuyển lao động.

Bổn là, biến đổi xã hội theo nghĩa lành mạnh, tích cực không thể không diễn ra tự phát mà phải được chủ động kiến tạo và phải thực sự là đối tượng của quản lý xã hội. Vì vậy, quản lý biến đổi xã hội cần được thực hiện thông qua hệ thống kiểm soát biến đổi xã hội trên tất cả các cấp độ, lĩnh vực; quản lý sự biến đổi xã hội ở từng thành phần của hệ thống xã hội và mổi quan hệ giữa các thành phân; trong điêu kiện bình thường và không bình thường. Cụ thể, hệ thông kiểm soát biến đổi xã hội bao gồm: hệ thống kiểm soát biên đổi dân số, biến đổi môi trường tự nhiên, biến đổi về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn háa, công nghệ và kỹ thuật, tôn giáo...

Năm là, quản lý biến đổi xã hội là một đòi hỏi tất yếu khách quan, nhằm đưa sự biến đổi xã hội đi vào quỹ đạo tiến bộ xã hội, tích cực, công bằng. Trong đó con người được giải phóng được phát triển toàn diện. Trình độ quản lý biến đổi xã hội phản ánh trình độ phát triển xã hội của một quốc gia dân tộc. Do đó, phải quản lý biến đổi xã hội dựa trên nguyên tắc vì con người, vì sự phát triển xã hội hài hòa, bền vững.

Tóm lại, biến đổi xã hội ở Việt Nam sẽ vận động theo hướng tích cực nếu như được hiện thực hóa thành công những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và môi trường. Đông thời, tạo ra được một cơ chế dân chủ đ mọi chủ thể trong xã hội có thể tham gia kiểm soát được quá trình biến đổi xã hội, xây dựng hệ thống tiêu chí khách quan và toàn diện trong đánh giá biển đổi xã hội. Biến đổi xã hội chỉ diễn ra theo hướng tích cực nếu như thực hiện được tính toàn diện và tính đồng bộ, do lực lượng xã hội tiến bộ tác động, cùng với những điều kiện tích cực cho sự phát triển.



[1] Lê Ngọc Hùng (2010), Các cấp độ và xu hướng biến đồi xã hội ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ xcf hội học, Tạp chí Thông tin Khoa học xă hội số 4, tr 7.

[2] Lê Ngọc Hùng (2010), tài liệu đã dẫn, tr 7.

[3] Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.