Thứ Hai, 1 tháng 8, 2022
Quan điểm của
V.I.Lênin về bảo vệ Đảng và sự vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng hiện nay
Khẳng định tính khoa học, cách mạng trong cách tiếp cận của V.I.Lênin về
bảo vệ Đảng, bài viết đề xuất một số nội dung cơ bản, góp phần bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với
những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng:
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”(1).
Tuy nhiên, các tổ chức phản động lưu vong tiếp tục tăng cường hoạt động
chống phá Đảng, Nhà nước; phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng, với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng
tinh vi, thâm độc. Chúng lợi dụng “một bộ phận cán bộ, đảng viên... chưa nêu
cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí,
sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi
phạm pháp luật...”(2); đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc
tạo sự hoài nghi, gây ra tâm trạng bức xúc trong một bộ phận quần chúng nhân
dân, từ đó kích động tập trung đông người gây rối, leo thang các hoạt động bạo
lực, phá hoại.
Như một yêu cầu khách quan của mọi cán bộ, đảng viên trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng là “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng...”(3).
1. Quan điểm của V.I.Lênin về bảo vệ Đảng
Kể từ lúc ra đời cho đến nay, học thuyết Mác - Lênin luôn vấp phải sự “ghen
ghét, đố kỵ” của các thế lực thù địch và những kẻ chủ nghĩa cơ
hội. Chúng điên cuồng phá hoại chủ nghĩa Mác - Lênin; ra sức tác
động, làm suy yếu của tổ chức đảng cộng sản từ bên trong. Vì thế, Ph.Ăngghen đã
chỉ ra: “chủ nghĩa cơ hội biến chủ nghĩa Mác thành một thứ “chủ nghĩa Mác” bị
xuyên tạc méo mó”(4). Thực chất của các luận điệu này là thù địch
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng sẵn sàng hy sinh lợi ích cơ bản, để đạt lợi
ích trước mắt; chủ trương hành động vô nguyên tắc: phủ nhận nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
Vào đêm trước của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, trên báo Người vô sản, số
10, ngày 6 tháng 9 năm 1917, V.I.Lênin đã viết bài “Một vụ săng-ta chính trị”
nhằm đấu tranh chống lại bọn săng-ta chính trị, mục đích của bọn phản động này
là: bịa đặt, dọa dẫm, vu khống Đảng và các lãnh tụ của Đảng, đặc biệt là phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, bảo vệ Đảng trong những thời khắc vô
cùng khó khăn khi mà các lực lượng đối lập, thù địch bôi nhọ Đảng, chia rẽ Đảng
với quần chúng nhân dân, giai cấp công nhân với nông dân và trí thức, V.I.Lênin
đã viết: “Chúng ta tin tưởng ở đảng, chúng ta thấy ở đó trí tuệ, danh dự và
lương tâm của thời đại chúng ta”(5).
Trước “phút giao thừa” của cuộc cách mạng, quyết tâm “bảo vệ năng lực công
tác của đảng ta, bảo vệ các lãnh tụ của đảng”(6). V.I.Lênin đã kêu
gọi toàn thể đảng viên nâng cao nhận thức, cảnh giác trước các âm mưu chia rẽ
nội bộ và hãy đoàn kết, siết chặt đội ngũ, tin tưởng vào tư cách của một đảng
chân chính cách mạng và bảo vệ nền tảng chủ nghĩa Mác, bảo vệ các lãnh tụ của
Đảng(7).
Theo V.I.Lênin, Đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. V.I.Lênin
đặc biệt quan tâm tới sự đoàn kết, thống nhất trong điều kiện Đảng cầm quyền,
cho rằng bất cứ sự bất đồng nào, ngay cả sự bất đồng không đáng kể, cũng có thể
trở thành nguy hiểm về mặt chính trị. Đây là nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội
bộ, tự nó phá hoại sức mạnh của Đảng.
Người xác định, muốn bảo vệ Đảng, trước hết phải đoàn kết, thống nhất về tư
tưởng, chính trị và tổ chức trong Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất ở đây không
phải là xuôi chiều, cả nể mà phải trên cơ sở thường xuyên và nghiêm túc tự phê
bình và phê bình để khắc phục sai lầm và khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Người
cho rằng, chuyên chính vô sản không thể thực hiện được nếu không có sự đoàn kết
nhất trí của những người lao động và “công khai thừa nhận sai lầm” của một đảng
là tiêu chí quan trọng để đánh giá xem đảng đó có thật sự là đảng mácxít hay
không hoặc “cần phải để cho tất cả các đảng viên được hết sức tự do phê bình
các cơ quan trung ương và công kích các cơ quan trung ương”(8).
Sự đoàn kết, thống nhất trong đảng phải dựa trên cương lĩnh, điều lệ, đường
lối, chính sách của Đảng, là sự đoàn kết có nguyên tắc trên cơ sở lợi ích chung
của đất nước, dân tộc và giai cấp.
V.I.Lênin cho rằng, muốn tự bảo vệ mình, Đảng phải gắn bó chặt chẽ với quần
chúng, kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần
chúng; phải được sự ủng hộ của chính giai cấp. Đây là vấn đề luôn được
V.I.Lênin lưu ý đối với chính đảng cách mạng trong quá trình lãnh đạo, cầm
quyền, muốn trở thành một đảng dân chủ - xã hội.
Bởi vì, đảng không thể lãnh đạo được giai cấp, nếu không có mối liên hệ
chặt chẽ với giai cấp công nhân ngoài đảng và các tầng lớp lao động khác. Người
lưu ý rằng, một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là sự cắt đứt
liên hệ với quần chúng. V.I.Lênin tiếp tục nhấn mạnh, đó “là nguy hiểm nhất và
đáng sợ nhất” để thấy tầm quan trọng của vấn đề. Đồng thời, khi trở thành đảng
cầm quyền, đảng cách mạng cần chú ý một nguy cơ dễ xuất hiện đó là bệnh quan
liêu, xa rời quần chúng, những thói hư, tật xấu, như theo đuôi quần chúng hoặc
xa rời quần chúng...
V.I.Lênin khẳng định, một trong những “kẻ thù phá hoại đảng” là chủ nghĩa
cơ hội. Thứ chủ nghĩa mà Người vạch rõ bộ mặt thật là “dễ dàng thừa nhận mọi
công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế”(9).
Nguy hại của chủ nghĩa cơ hội khi xuất hiện trong đảng là họ sẵn sàng thỏa
hiệp chính trị. Ngoài ra, V.I.Lênin phê phán bọn chủ nghĩa cơ hội hiểu chủ
nghĩa Mác một cách phiến diện, siêu hình, không có hệ thống. Và do vậy, họ luôn
“nhảy từ một cực đoan bất lực này sang một cực đoan bất lực khác”, rất nguy hại
cho đảng. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa rất tinh vi và xảo quyệt, song bằng trí tuệ
uyên bác, tư duy khoa học, V.I.Lênin đã nhắc nhở một cách nghiêm túc: “bổn phận
của chúng ta, nếu chúng ta vẫn muốn còn là những người xã hội chủ nghĩa, là
phải đi sâu, đi sát hơn vào quần chúng thật sự: đấy là toàn bộ ý nghĩa của cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và toàn bộ nội dung cuộc đấu tranh đó”(10).
V.I.Lênin ý thức rất cao về sự nguy hại của chủ nghĩa cơ hội trong đảng,
đây là bộ phận thoái hóa, biến chất làm cho đảng cách mạng suy yếu, đặc biệt
trong những giai đoạn khó khăn. Vì vậy, thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa
cơ hội trong đảng sẽ làm cho đảng mạnh lên. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng
tư tưởng của đảng cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong nội bộ, sẽ
có tác dụng tích cực, vừa bảo vệ đảng, vừa làm cho đảng mạnh hơn.
Với thái độ kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống mọi kẻ thù lớn nhỏ của chủ
nghĩa Mác: “Điều rất cần thiết hiện nay là, về mặt tổ chức, phải hoàn toàn tách
hẳn những phần tử cơ hội chủ nghĩa ấy ra khỏi các đảng công nhân”(11) và
dù cho bản thân đảng có “phải tạm thời chịu đau đớn kịch liệt đi nữa”(12).
Sự say mê lao động khoa học, tìm tòi nghiên cứu, V.I.Lênin đã nâng tầm cao
uy tín, vị thế, giá trị và ý nghĩa lý luận - thực tiễn của chủ nghĩa Mác. Người
đã nêu tấm gương mẫu mực về sự trung thành, đổi mới sáng tạo trong kế thừa, vận
dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - hệ tư tưởng của đảng vô sản trong điều kiện
mới với tầm nhìn mới.
Bằng tư duy khoa học, sắc bén, V.I.Lênin không hề coi lý luận của C.Mác như
một cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm, mà trái lại, ông cho rằng, lý
luận của C.Mác mới chỉ đặt nền móng cho một môn khoa học mà những người cộng
sản cần phải phát triển hơn nữa, nếu không muốn trở thành lạc hậu và bị cuộc
sống đào thải.
Cách tiếp cận khoa học và cách mạng của V.I.Lênin về bảo vệ Đảng phù hợp
với sự vận động, biến đổi của thực tiễn lịch sử. Cách tiếp cận và tư tưởng của
V.I.Lênin về bảo vệ Đảng đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là một đóng góp to lớn
cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở lý luận khoa học, thực tiễn quan trọng
cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
2. Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về bảo vệ Đảng trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Kiên định và khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Từ nghiên cứu lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn trong cuộc đời hoạt động
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”(13).
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Người, từ Đại hội VII của Đảng (1991),
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta luôn nhất quán kiên định và khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã
lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giành chính quyền, đập tan xiềng xích đô
hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa;
tiếp đến là chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, đánh
thắng hai đế quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng mạnh, giành lại độc lập,
tự do cho dân tộc, vững bước đưa đất nước đi lên xây dựng CNXH. Trong hơn 35
năm đổi mới, nước ta luôn giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đạt thành tựu to
lớn trên mọi mặt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy
tín quốc tế như ngày nay...
Từ điều kiện thực tiễn của cách mạng, Đảng ta đã vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đưa cách mạng Việt Nam
giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là minh chứng sống
động và thuyết phục, khẳng định tính đúng đắn, khoa học của đường lối cách mạng
Việt Nam, đúng đắn trong việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Toàn Đảng và mỗi
cán bộ, đảng viên đều khẳng định và kiên định chân lý đó.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Điều hết sức quan trọng là phải
luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần
chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người
cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống
trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học”(14).
Kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Thực tiễn
luôn vận động, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chủ động nắm tình
hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của các đối tượng để đấu tranh làm thất
bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Đấu tranh bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cần có
những nội dung, phương thức phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn nhất định. Trong
giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng internet, mạng xã
hội để chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vậy, ngoài các hình
thức đấu tranh truyền thống, cần bổ sung những hình thức đấu tranh mới, như:
đấu tranh trực tiếp, trực diện trên không gian mạng, thông qua các phương tiện
truyền thông xã hội; xây dựng đội ngũ thông tin viên rộng rãi, nhất là hội viên
các đoàn thể nhân dân...
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong tình hình mới. Chính Ph.Ăngghen từng nói: “Lý luận của chúng tôi là lý
luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học
thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(15). Sau này, V.I.Lênin cũng
khẳng định và nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái
gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó
chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát
triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”(16).
Phương pháp tốt nhất để phát triển, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là tiếp tục phát triển hệ thống các nguyên lý, lý luận khoa học
trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận, giải quyết thành công
những nhiệm vụ mới và trả lời được những vấn đề do cuộc sống đặt ra, nhất là
trong hội nhập quốc tế.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một
cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất
về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi
mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không
rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(17).
Theo đó, cần tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề căn bản nhất trong
sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, như: Kinh tế thị trường định
hướng XHCN; con đường CNH, HĐH theo định hướng XHCN ở nước ta; đổi mới và hoàn
thiện hệ thống chính trị; phát huy dân chủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều
kiện mới; phát triển văn hóa, con người và nguồn lực con người; đặc điểm nội
dung của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, sự phát triển của kinh tế tri thức, phát triển bền vững...
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng Việt Nam, tập trung tấn
công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, “đồng thanh” phủ nhận bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thâm độc hơn, chúng
đưa ra luận điệu đòi tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác - Lênin,
nhằm phủ nhận nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh; thực chất là để phủ
định chủ nghĩa Mác - Lênin và cũng phủ định chính ngay tư tưởng Hồ Chí Minh,
tiến tới phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vận dụng sáng
tạo quan điểm, tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ Đảng trong đấu tranh để bảo vệ,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là chỉ dẫn để công tác
này đạt kết quả trong điều kiện mới.
_Nguồn: LLCT__
(1), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25-26, 40-41.
(2) ĐCSVN: Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XIII “về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, Hà Nội, ngày 25-10-2021, tr.1-2.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.113.
(5), (6) V.I.Lênin: Toàn tập, t.34, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.122, 123.
(7) Xem: Lê Trọng Hanh, Nguyễn Thị Lam: Vận dụng quan điểm của
Lênin đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, Tạp
chí Tuyên giáo, số 1/2019, tr.21.
(8) Phạm Văn Linh: Tư tưởng của Lênin về xây dựng chính đảng kiểu
mới và sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, Trang Thông tin điện
tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 15-4-2020.
(9) V.I.Lênin: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.239.
(10) V.I.Lênin: Toàn tập, t.30, Sđd, tr.229.
(11) V.I.Lênin: Toàn tập, t.26, Sđd, tr.327.
(12) V.I.Lênin: Toàn tập, t.27, Sđd, tr.154.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2011, tr.289.
(14), (17) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn để lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Quân
đội nhân dân, ngày 17-5-2021.
(15) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.36, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.796.
(16) V.I.Lênin: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.232.
Bàn về văn hóa trong công tác tư tưởng
BỘ PHẬN CẤU THÀNH VĂN HÓA ĐẢNG, VĂN HÓA
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Văn hoá có nhiều nghĩa, đa diện, nhưng dù
ở góc độ nào khi nói đến văn hoá là nói đến giá trị văn hóa. Đó là những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết
tinh, hun đúc qua nhiều thế hệ tạo thành hệ giá trị tốt đẹp để quy tụ, định
hướng suy nghĩ và hành động của mọi người trong xã hội. Giá trị văn hóa có
nhiều cấp độ: nhân loại, dân tộc, cộng đồng, lĩnh vực, gia đình, cá nhân. Các
giá trị tiêu biểu của nhân loại là: chân - thiện - mỹ, dân chủ, tự do, bình
đẳng... Các giá trị tiêu biểu của dân tộc Việt Nam là: yêu nước, đoàn kết, tự
cường, nghĩa tình, trung thực… Nền văn hóa Việt Nam hiện nay đang hướng tới các
giá trị: dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học. Các giá trị văn hóa gia đình Việt
Nam hiện đại đang hình thành là: ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh... Tuy
ở các tầm cấp khác nhau nhưng các giá trị văn hóa luôn đan xen, hòa quyện vào
nhau, bởi giá trị văn hóa chung không tồn tại bên ngoài những giá trị văn hóa
riêng. Trái lại, giá trị văn hóa của nhân loại, dân tộc, ngành, lĩnh vực luôn
tồn tại trong mỗi giá trị của cộng đồng, gia đình, cá nhân và biểu hiện thông
qua mỗi giá trị văn hóa riêng đó.
Văn hoá xuyên thấm trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Bởi vì, dù ở đâu, lĩnh vực nào, con người cũng luôn hướng tới
những điều tốt đẹp, luôn có ý thức bồi đắp, sáng tạo và hành động theo các giá
trị văn hóa. Trong xã hội Việt Nam hiện đại, văn hóa được gắn với nhiều
lĩnh vực như văn hoá chính trị, văn hoá kinh doanh, văn hoá giao thông, văn
hóa học đường, văn hóa công sở, văn hoá Đảng... Công tác tư tưởng là một
bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng(1),
vì vậy, có thể nói, văn hóa trong công tác tư tưởng là một bộ phận hợp thành
văn hóa Đảng, văn hóa trong hệ thống chính trị. Do
đó, xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng là một yêu cầu mang tính tất yếu,
khách quan. Về vấn đề này, Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương khoá XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (Nghị
quyết 33-NQ/TW) đã khẳng định: “Chú trọng chăm lo xây
dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn
thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh”(2). Kết luận 76/KL/TW ngày
4/6/2020 của Ban chấp hành Trung ương khóa
XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW tiếp tục khẳng định: “Tăng
cường xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế. Tiếp tục chỉ đạo, tổ chức
thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Coi trọng xây dựng văn hoá từ trong Đảng, trong bộ
máy nhà nước”(3).
MỘT CÁCH TIẾP CẬN VĂN HÓA TRONG CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG
Văn hoá vốn có rất nhiều định nghĩa, vì
vậy, văn hóa trong công tác tư tưởng chắc chắn cũng sẽ có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Tuy nhiên, xem xét văn hóa trong công tác tư tưởng bằng phương pháp
hệ thống cấu trúc là một cách tiếp cận dễ hiểu và dễ thực hiện. Theo khoa học
công tác tư tưởng, mỗi hoạt động tư tưởng đều có các yếu tố cấu thành là: chủ
thể, đối tượng, mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện và hiệu
quả(4). Các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau, vận hành
trong một môi trường xã hội khách quan và chịu sự tác động mạnh mẽ của môi
trường ấy. Như vậy, văn hóa trong công tác tư tưởng có thể hiểu là các yếu tố
cấu thành hoạt động tư tưởng nêu trên phải luôn thấm đẫm các giá trị văn hóa.
Nói cách khác, mọi hoạt động tư tưởng phải lấy các giá trị văn hóa là mục tiêu,
thường xuyên thực hành các giá trị văn hóa đó trong thực tiễn và sáng tạo ra
các giá trị văn hóa mới mang đặc trưng của lĩnh vực tư tưởng, đồng thời hoạt
động tư tưởng cũng phải được tiến hành trong một môi trường văn hóa lành mạnh,
tốt đẹp.
“Chân” là một giá trị văn hóa phổ quát của
nhân loại, tương ứng với tính khoa học trong hệ giá trị của nền văn hóa Việt
Nam hiện đại. Tính khoa học vốn là một nguyên tắc của công tác tư tưởng, nó đòi
hỏi công tác tư tưởng phải nhận thức được quy luật khách quan, tôn trọng quy
luật khách quan và vận hành theo quy luật khách quan. Công tác tư tưởng là hoạt
động tác động vào thế giới tinh thần của con người. Đó là một thế giới vô cùng
đa dạng, phức tạp, muốn thu phục nhân tâm, chủ thể công tác tư tưởng phải nhận
thức và vận hành theo các quy luật của lĩnh vực tư tưởng, tinh thần. Mục tiêu
của công tác tư tưởng phải đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của
nhân loại. Nội dung của công tác tư tưởng phải là sản phẩm của nghiên cứu khoa
học, đúng đắn, chân thật, tiến bộ. Phương thức tiến hành phải dựa vào tri thức
của các ngành khoa học như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học…, cùng với
những cứ liệu chính xác, đầy đủ và ứng dụng kịp thời những thành tựu của khoa
học kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Hiệu quả công tác tư tưởng cũng phải được
đánh giá một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể ở cả nhận thức, thái
độ, hành vi của đối tượng. Nói một cách giản dị, tính khoa học chính là sự đúng
đắn, tiến bộ, luôn đứng về lẽ phải và công lý. Ngược lại, các biểu hiện chủ
quan, duy ý chí, lừa bịp, che giấu thông tin, gieo rắc mê tín, dị đoan, lạc
hậu, bảo thủ, chạy theo thành tích, “làm láo báo cáo hay” đều là phi văn hóa.
Công tác tư tưởng phải tuân thủ và hướng
tới cái “Thiện” vốn là một giá trị tiêu biểu của nhân loại mà trong nền văn hóa
Việt Nam đó là tính nhân văn, tất cả phục vụ con người và vì sự phát triển của
con người. Mục tiêu công tác tư tưởng phải hướng tới cái tốt, bao dung, độ lượng,
yêu thương và tôn trọng con người, vì hạnh phúc của con người. Nội dung của
công tác tư tưởng phải lấy phản ánh cái tốt là chủ đạo, luôn cổ vũ, khuyến
khích cái tốt, bảo vệ hòa bình, thịnh vượng; phê phán, bài trừ cái ác, dã man,
bạo lực. Công tác tư tưởng phải khuyến khích con người làm việc thiện; chia sẻ,
cảm thông với những hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh; lên án những hành vi phi đạo
đức, chà đạp lên luân thường, đạo lý. Chủ thể công tác tư tưởng cũng phải là
người có đạo đức, lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Hiệu quả của công tác tư tưởng
là phải làm cho đối tượng hiểu, tin, ủng hộ, thực hành cái thiện. Nói cách
khác, giáo dục tư tưởng phải gắn chặt với giáo dục đạo đức, thiện hóa con
người.
Cái đẹp cao cả trong công tác tư tưởng là
phải làm cho quần chúng thấy được cái hay, cái đẹp của lý tưởng xã hội chủ
nghĩa. Công tác tư tưởng phải làm cho đối tượng tiếp thu nội dung một cách hào
hứng trên tinh thần tự nguyện, tự giác. Phương châm của công tác tư tưởng là
“lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”; nội dung là ca ngợi, tôn vinh, lan tỏa cái hay, cái
đẹp trong cuộc sống. Phương thức tiến hành công tác tư tưởng phải lôi cuốn, hấp
dẫn, đạt tới trình độ nghệ thuật. Cái đẹp cụ thể ở đây là sự cân đối, hài hoà
của các phương tiện trực quan; ngôn ngữ, lời nói chuẩn mực, sinh động; sự đúng
giờ, tôn trọng người nghe; cán bộ tư tưởng có phong thái gọn gàng, lịch sự,
chỉn chu trước quần chúng. Hiệu quả của công tác tư tưởng phải mang đến cho đối
tượng lý tưởng cao đẹp, hình thành những xúc cảm tích cực, lành mạnh, khuyến
khích mọi người suy nghĩ đẹp, hành xử đẹp và luôn sáng tạo ra cái đẹp.
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VĂN HÓA TRONG CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG
Những năm qua, bên cạnh những thành tựu to
lớn góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới, công tác tư tưởng
vẫn còn nhiều hạn chế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Công tác
tư tưởng có lúc, có nơi chưa được cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết
phục chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan
tâm đứng mực, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số khó khăn, phức tạp
chưa được làm sáng tỏ”(5). Đối chiếu với các giá trị văn hóa nêu
trên, công tác tư tưởng còn phải cố gắng rất nhiều mới đạt tới tầm văn hóa. Nội
dung công tác tư tưởng chưa thật sự bảo đảm tính khoa học, chưa bắt kịp những
thay đổi của hiện thực khách quan; chưa giải quyết kịp thời những vấn đề thực
tiễn đặt ra, chưa làm rõ quy luật, sự biến đổi tâm lý đối tượng dưới tác động
của điều kiện mới. Thông tin tốt, tích cực chưa trở thành dòng chủ lưu; cái
xấu, cái ác, dối trá còn lan tràn trên các phương tiện truyền thông, nhất là
mạng xã hội. Phương thức tiến hành chưa xuất phát từ đối tượng, còn mang tính
áp đặt, một chiều, chưa giải quyết hài hòa giữa đáp ứng nhu cầu thông tin với
giáo dục, định hướng tư tưởng, chưa phù hợp với cách nghĩ, cách cảm của người
Việt Nam. Một bộ phận người làm công tác tư tưởng chưa thật sự là tấm gương
tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức, lối sống. Đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng
còn chủ quan, cảm tính, chạy theo số lượng, bệnh thành tích, bệnh hình thức còn
khá phổ biến.
Công tác tư tưởng đang sử dụng một số
lượng khá lớn thời gian, công sức, tiền bạc của xã hội nhưng còn thiếu hiệu
quả, chưa hấp dẫn, lôi cuốn người nghe, vẫn mang nặng tính bắt buộc. Tình trạng
lười học, ngại học, chán học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên vẫn còn
khá phổ biến. Nhiều cơ quan, cán bộ tư tưởng chưa phát huy tốt vai trò của văn
học, nghệ thuật trong truyền tải nội dung tư tưởng. Tính tư tưởng, tính giáo
dục của báo chí, truyền thông, văn học, nghệ thuật chưa cao, có biểu hiện xa
rời hồn cốt của dân tộc, lai căng, vọng ngoại, lép vế, tụt hậu so với thông tin
trên mạng xã hội, thông tin kinh tế, giải trí…
TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG VĂN HÓA TRONG CÔNG
TÁC TƯ TƯỞNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Sau hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, công
tác tư tưởng của Đảng đã phát huy tốt các giá trị truyền thống của dân tộc và
đang hình thành nhiều giá trị mới. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ mới, những giá
trị truyền thống đang bị thách thức bởi môi trường, điều kiện sống có sự thay
đổi mạnh mẽ. Những giá trị mới thì còn non nớt, chưa ổn định và bền vững. Bên
cạnh đó, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng kỹ thuật số
đang tạo ra một cuộc xâm lăng văn hóa từ bên ngoài, môi trường văn hóa đang bị
vẩn đục bởi nhiều yếu tố phi văn hóa. Những vấn đề đó đang đặt ra cho công cuộc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa trong công tác tư tưởng nói
riêng nhiều khó khăn, thách thức.
Xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng
đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ, là một quá trình dần dần, từ từ, không thể bằng
mệnh lệnh hành chính và những cách làm nóng vội, chạy theo phong trào. Nhưng
cũng không vì thế mà chậm trễ, thụ động ngồi chờ, phải bắt đầu ngay từ ngày hôm
nay bằng những việc làm cụ thể, có trách nhiệm, có lộ trình bước đi phù hợp. Để
xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng, trước mắt cần tiến hành một số biện
pháp sau đây:
Một là, ngành Tuyên giáo phải thấm nhuần các
quan điểm của Đảng về văn hóa, nhất là tinh thần Hội nghị Văn hóa toàn
quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong đó, cần quán triệt và thực hiện quan điểm văn hóa phải đặt
ngang hàng với kinh tế và chính trị. Ngành Tuyên giáo sớm nghiên cứu làm rõ văn
hóa trong công tác tư tưởng là gì, minh định hóa, giản dị hóa thành các nội
dung cụ thể. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho
mỗi cán bộ tư tưởng, mà trước hết là cấp ủy, cán bộ tuyên giáo các cấp quán
triệt sâu sắc, tạo sự nhất trí cao, đồng tâm, hiệp lực, tạo động lực từ bên
trong cho công cuộc xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng.
Hai là, đầu tư nghiên cứu, tổng kết, hệ thống
hóa thành hệ giá trị văn hóa truyền thống của ngành Tuyên giáo trong hơn 90 năm
qua. Đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa trong tương lai mà ngành
cần phải hướng tới, chẳng hạn như: Chân thực, thuyết phục, minh bạch, kịp thời,
đối thoại… Với những giá trị văn hóa mới, cần có sự quan tâm trợ giúp, bồi đắp,
bảo vệ của cấp ủy các cấp, tạo môi trường thuận lợi cho các giá trị đó đứng
vững trong môi trường không thuận lợi, từng bước kết tinh, lắng đọng thành các
giá trị của lĩnh vực tư tưởng và ngành tuyên giáo. Trên cơ sở các giá trị văn
hóa chung của ngành, cần hình thành các giá trị văn hóa trong từng lĩnh vực
như: văn hóa trong nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị; văn hóa trong tuyên
truyền, cổ động chính trị; văn hóa ứng xử của cán bộ, nhân viên cơ quan tuyên
giáo…
Ba là, tổ chức một phong trào xây dựng môi
trường văn hóa trong cơ quan tuyên giáo, thông tin, truyền thông trên phạm vi
toàn quốc. Văn hóa là sáng tạo, đa dạng, phong phú, vì vậy cần khuyến khích
những cách làm mới, “trăm hoa đua nở”, trên cơ sở đó phát hiện, nhân rộng ra
toàn ngành. Qua phong trào, phải tạo ra những giá trị có thật, bền vững, có thể
đo đếm, trải nghiệm được. Kiên quyết khắc phục bệnh hình thức và bệnh thành
tích, tư duy rập khuôn, máy móc khi xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng.
Bốn là, tiến hành tổng kết, xây dựng mô hình văn
hóa trong công tác tư tưởng cùng với tiếp thu những giá trị tốt đẹp từ nước
ngoài, từ các ngành khác, lĩnh vực khác. Tăng cường kiểm tra, giám sát, phát
hiện biểu dương các tập thể và cá nhân tiêu biểu, đồng thời kiên quyết xử phạt,
lên án những hành vi, hiện tượng vô văn hóa, phi văn hóa trong nội bộ ngành với
tinh thần không sợ “vạch áo cho người xem lưng”, bởi thẳng thắn, trung thực với
chính mình cũng là một nét văn hóa của người làm công tác tư tưởng.
Xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng sẽ góp phần
xây dựng Đảng ta thực sự trí tuệ, đạo đức và văn minh, đưa nền văn hóa Việt
Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức để chấn hưng và xây dựng thành công một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho
dân tộc, giống nòi. Văn hóa trong công tác tư tưởng sẽ tạo thành nguồn lực và
động lực mạnh mẽ để xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, xứng
đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc ta. |
Năm là, xây dựng thiết chế công tác tư tưởng có
văn hóa, bởi đó là nơi sản sinh ra các giá trị văn hóa, lưu giữ và vận hành các
giá trị văn hóa của ngành. Phải làm cho văn hóa thấm sâu vào từng cơ quan làm
công tác tư tưởng, cán bộ tư tưởng. Đặc biệt là chăm lo xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh, tốt đẹp, văn hóa liêm chính, văn hóa trọng dân trong công sở của
các cơ quan tư tưởng, tuyên giáo, tạo môi trường thuận lợi để nuôi dưỡng, bồi
đắp các giá trị văn hóa của công tác tư tưởng.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản của công
tác tư tưởng là giáo dục con người về mặt chính trị, nguyên lý “người đi giáo
dục phải được giáo dục” đòi hỏi công tác tư tưởng, cán bộ tư tưởng phải có văn
hóa. Nếu cấp uỷ, người làm công tác tư tưởng ở đâu cũng luôn lấy các giá trị
văn hóa làm mục tiêu, làm thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng thì ở đó công tác tư tưởng sẽ đạt tới tầm văn hoá. Toàn ngành Tuyên giáo,
toàn Đảng và cả nước làm được như vậy thì văn hóa trong công tác tư tưởng sẽ
từng bước hình thành và phát triển. Văn hoá trong công tác tư tưởng cùng với
văn hóa chính trị, văn hóa trong công tác tổ chức, văn hóa trong công tác kiểm
tra… sẽ góp phần tạo nên văn hoá Đảng, văn hóa của hệ thống chính trị như mục
tiêu của Đảng đã xác định.
Nguồn: TG
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H,
2014.
(3) Kết
luận số 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước.
(4) Lương Khắc Hiếu: Cơ sở lý luận công tác
tư tưởng, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2017.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, t.I,
tr.90-91.