Thứ Hai, 1 tháng 8, 2022
"CÓ NHỮNG THẾ LỰC KHÔNG MUỐN VIỆT NAM ỔN ĐỊNH, HÒA BÌNH"
Cầu thả hay suy thoái?
Người ta vì dân, vì nước mà quên mình "hy sinh" thì mấy thằng báo láo, báo đểu, báo mất dạy và cả bọn duyệt bài không biết do cẩu thả hay suy thoái mà cho đăng bừa là "thiệt mạng"?!
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 02/8
Đằng sau luận điệu đòi xoá bỏ một số
điều luật trong Bộ luật Hình sự
Khi loài người đang ở thời kỳ
mông muội, họ đã biết đặt ra các quy ước, quy định bằng miệng hay các chỉ dấu
với nhau. Các quy định đó đưa ra giới hạn để mọi người phải tuân thủ và đảm bảo
các nguyên tắc chung. Khi xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ, nhà nước xây dựng
các văn bản quy phạm pháp luật, buộc tất cả mọi người trong xã hội đó có nghĩa
vụ chấp hành, tuân thủ và nếu như ai vi phạm thì phải chịu các biện pháp xử lý
tương ứng.
Thời
đại ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng pháp luật và
các quốc gia hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tình hình, đặc điểm, điều kiện
cụ thể. Điều đó thể hiện sự tiến bộ, văn minh của loài người.
Thế
nhưng, hiện một số người, nhất là số cơ hội chính trị có quan hệ với các tổ
chức thù địch, đối tượng phản động lưu vong, chống phá Nhà nước từ bên ngoài
đang tìm cách đi ngược lại sự văn minh, tiến bộ xã hội. Các đối tượng tìm kiếm
sự can thiệp từ bên ngoài nhằm kêu gọi xóa bỏ một số điều luật với các mục đích
chính trị xấu.
Chẳng
hạn, các đối tượng kêu gọi xóa bỏ một số điều luật được quy định tại Bộ luật
Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), bao gồm một số điều luật thuộc nhóm tội xâm
phạm an ninh quốc gia như: Điều 109 "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân"; Điều 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền
thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam".
Hay như Điều 331 "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" thuộc Chương
XXII về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính...
Thứ
nhất, các đối tượng đang muốn đưa mình thoát khỏi "vùng cấm" của luật
pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ bề hoạt động chống phá mà không bị
chế tài pháp luật xử lý. Các đối tượng đang cố gắng tạo cho mình một vành đai
an toàn, nằm trong "nhóm lợi ích" vượt ra ngoài sự quản lý của pháp
luật để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước như: Tuyên truyền chống Nhà
nước; thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt
Nam… mà không bị pháp luật cấm đoán.
Thứ
hai, các đối tượng muốn gây sự chú ý từ bên trong lẫn bên ngoài, thông qua các
hoạt động tuyên truyền kêu gọi, tẩy chay, đòi xóa bỏ các điều luật nhằm gây sự
chú ý cho dư luận trong nước cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức
theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí, thường xuyên có
các bài viết chống phá Việt Nam như đài RFA, RFI... Các hoạt động kêu gọi nhằm
đánh lạc hướng dư luận để tạo suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam
đang "rối ren"; tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo
áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật
này.
Thứ ba,
tất cả các hoạt động kêu gọi xóa bỏ các quy định của điều luật trên không nằm
ngoài âm mưu tạo ra môi trường thuận lợi để tiến hành các hoạt động chống phá
Đảng, Nhà nước, mục đích hướng đến là thay đổi nhận thức của đông đảo quần
chúng toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Việc kêu gọi xóa bỏ một số điều luật trong Bộ luật Hình sự Việt Nam nhằm
xuyên tạc, vu khống, hạ bệ hình ảnh Việt Nam, cho rằng chúng ta vi phạm dân
chủ, nhân quyền; vu cáo nhà nước sử dụng các điều luật này để "bóp
nghẹt" quyền tự do dân chủ, các quyền căn bản của công dân được Hiến định.
Các đối
tượng chống phá muốn xóa bỏ các điều luật nói trên đều nằm trong âm mưu, ý đồ
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và đây không phải là thủ đoạn mới. Các Bộ
luật Hình sự trước đây khi ban hành và thực thi thì các tổ chức, cá nhân thù
địch, phản động cũng tìm cách đả phá, đòi huỷ bỏ những điều luật mà họ cho rằng
"lạc hậu", "trói cột", "bịt miệng"…
Thời
gian qua, đã có nhiều đối tượng phạm tội, bị truy tố theo các tội danh quy định
tại Điều 109, Điều 117, Điều 331, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Trong đó, phạm tội quy định tại Điều 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc
tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam" có thể kể đến các đối tượng như: Nguyễn Đình Thành (SN
1991, trú tại xã Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, Bình Dương), Nguyễn Năng Tĩnh (SN
1976, trú tại xóm 11, xã Quỳnh Hưng, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An), Nguyễn Đức Hùng
(trú tại phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh)… Các đối tượng này đều có
hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm
nhằm chống Nhà nước Việt Nam. Những hành vi này ảnh hưởng đến an ninh trên lĩnh
vực văn hóa, tư tưởng, tác động đến đời sống tinh thần và sự thống nhất về nền
tảng tư tưởng chính trị, làm ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng nhân dân vào
hệ thống chính trị… Hành vi phạm tội của các đối tượng đều bị truy tố, xử lý
theo tội danh, điều khoản tương ứng, đúng quy định pháp luật.
Thực
tế, không phải vì nhận thức thiếu hiểu biết dẫn tới phạm pháp mà hầu hết các
đối tượng đều hiểu rõ những hành động của mình là trái với quy định của pháp
luật, là phạm tội, nhưng với các động cơ khác nhau, họ vẫn cố tình thực hiện
hành vi phạm tội. Thậm chí không ít đối tượng dù bị cơ quan chức năng nhiều lần
cảnh cáo, nhắc nhở hay xử phạt hành chính, xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn bất
chấp, cố tình thực hiện hành vi, thách thức pháp luật. Do đó, việc xử phạt với
các điều khoản tương ứng hành vi, tính chất phạm tội là việc làm đương nhiên
của cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều đó càng cho thấy sự nghiêm minh của pháp
luật và việc xử lý đó được cộng đồng xã hội đồng tình ủng hộ (ngoại trừ các
phần tử tham gia các tổ chức phản động, chống phá Nhà nước).
Một
nguyên tắc trong xây dựng nhà nước pháp quyền là phải thượng tôn pháp luật,
không ai có thể đứng ngoài pháp luật. Dù là ai, vị trí nào, gia thế ra sao thì
khi vi phạm đều xử lý bình đẳng và pháp luật hình sự cũng quy định rõ các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, những ai chủ mưu, cầm
đầu, cố tình thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, phạm tội nhiều lần, tái
phạm nguy hiểm… thì sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngược lại, những ai vì
nhận thức thấp kém, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo; biết ăn năn, hối lỗi, thành
khẩn khai báo… thì được giảm nhẹ hình phạt. Khi xét xử, luận tội, toà án xem
xét công và tội rõ ràng, công minh.
Việc
điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo tuân thủ theo quy định của Bộ luật
Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, quá trình xét xử đảm bảo việc tranh tụng
dân chủ trước toà. Các vụ án xét xử bị cáo theo các tội danh mà các đối tượng
thường xuyên có hoạt động kêu gọi xóa bỏ như Điều 109, Điều 117, Điều 331 Bộ
luật Hình sự cũng đảm bảo theo quy định, nguyên tắc đó. Các hoạt động tố tụng
đều thực hiện theo các trình tự, thủ tục được luật pháp quy định, thể hiện sự
công khai, minh bạch, trách nhiệm trong các hoạt động công tố và các bản án
được xem xét khách quan, người dân ủng hộ, điều này cũng góp phần củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Ổn định
chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của đất nước. Bài học từ một số quốc gia vùng Trung Đông, Bắc Phi, Nam Mỹ… cho
thấy, khi xã hội bất ổn, rối ren, hậu quả khủng hoảng đến với người dân là
không thể lường, sự bất ổn đó tác động trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, làm
đảo lộn đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Và một trong những nguyên
do dẫn tới sự bất ổn đó là có bàn tay chống phá của các thế lực xấu, sự bào mòn
các giá trị căn bản của luật pháp và xã hội.
Do đó,
bảo vệ sự ổn định chính trị - xã hội, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật
là yếu tố căn bản, góp phần tạo nên một xã hội công bằng, bền vững, loại trừ
các nguy cơ can thiệp, chống phá, lật đổ chính quyền nhân dân, đó là mục tiêu
tối thượng trong công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội. Việc đòi bỏ điều luật này, điều luật kia dưới vỏ bọc dân chủ, nhân quyền
chỉ là chiêu trò, thủ đoạn của các thế lực chống phá nhằm gây rối ren, bất ổn
xã hội.
Nguồn: CAND
Những đánh giá sai lệch về công tác
phòng, chống mua bán người ở Việt Nam
Chính sách nhất quán của Đảng
và Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trong mọi chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, con người luôn được đặt vào vị trí
trung tâm.
Đánh
giá phiến diện, thiếu khách quan
Ngày
19/7 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố báo cáo tình hình buôn người năm
2022. Đây là báo cáo hằng năm theo Đạo luật Bảo vệ nạn nhân bị mua bán của Hoa
Kỳ năm 2000 do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trình lên Quốc hội nước này, trong đó nhận
xét công tác phòng, chống mua bán người của 188 quốc gia trên thế giới nhằm kêu
gọi Chính phủ các nước thực hiện nghiêm túc Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về
phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung.
Trong
báo cáo tình hình buôn người năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xếp Việt Nam trong
nhóm 3, tụt 18 bậc so với năm 2021 (năm 2021, đánh giá Việt Nam thuộc nhóm 2)
cùng với các nước như Brunei, Campuchia, Malaysia, Myanmar tại Đông Nam Á và
một số nước khác như Trung Quốc, Cuba... Cũng theo báo cáo này, những nước nằm
trong nhóm 3 có thể bị hạn chế nhận một số viện trợ từ Hoa Kỳ trong tương lai.
Báo cáo trên có những nhận xét không khách quan, không phản ánh những nỗ lực to
lớn của Việt Nam trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người trong
thời gian qua.
Liên
quan đến vấn đề trên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng ngày 21/7
khẳng định: “Bộ Ngoại giao Mỹ ra báo cáo năm 2022 về tình hình mua bán người
trên thế giới với các thông tin không xác thực, không phản ánh đầy đủ, chính
xác về tình hình và nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam”.
Việc
nhìn nhận, đánh giá một vấn đề cần phải dựa trên những thông tin xác thực, có
các hoạt động kiểm chứng, khảo sát thực tế, nếu không sẽ đưa ra những nhận xét
thiếu khách quan, phiến diện. Điều này tác động không tốt đến quan hệ ngoại
giao hai nước, gây ra những hiểu lầm đáng tiếc và tạo cớ để các thế lực thù
địch suy diễn, xuyên tạc về công cuộc phòng, chống tội phạm mua bán người ở
Việt Nam nói riêng, công tác đảm bảo quyền con người nói chung.
Thực
tế, việc phòng, chống mua bán người được Đảng, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan
tâm, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và được tiến hành trên nhiều lĩnh
vực, từ phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm cũng như hỗ trợ nạn nhân. Việt
Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về
phòng, chống mua bán người. Những nỗ lực, cố gắng của Việt Nam trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán người thời gian qua là toàn diện, rõ nét.
Tại
Điều 150 và Điều 151, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy
định rõ về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Đặc biệt, Luật
Phòng, chống mua bán người được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày
1/1/2012 đã quy định khung pháp lý quan trọng làm cơ sở cho công tác phòng
ngừa, phát hiện và xử lý tội phạm mua bán người. Với mục tiêu huy động mọi
nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân
tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm mua bán người trên
phạm vi toàn quốc, ngày 10/5/2016, Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 30/7
hằng năm là “Ngày Toàn dân phòng, chống mua bán người”. Nghị định số
62/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo
vệ an toàn cho nạn nhân, người thân của họ. Ngày 11/2/2019, Hội đồng thẩm phán
TAND Tối cao ban hành Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật Hình sự về “Tội mua bán người”; Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 193/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phòng, chống mua bán người
giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, quyết định này có hiệu lực từ
ngày 9/2/2020. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 1944/QĐ-TTg
ngày 18/12/2021 của Chương trình thực hiện Kết luận số 13-KL/TW về tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và
Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025, định hướng đến
năm 2030, nhất là các phương án, kế hoạch, giải pháp đảm bảo ANTT, phòng, chống
tội phạm trong và sau dịch bệnh COVID-19.
Ngày
18/7 vừa qua, hướng tới Ngày Thế giới và Toàn dân phòng chống mua bán người,
các bộ: Lao động, Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng và Ngoại giao cũng
đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị
mua bán nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành, tiến
hành xác minh, xác định, giải cứu, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người.
Việt
Nam cũng tích cực hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người, phát huy vai
trò của cơ quan đại diện ở nước ngoài trong việc nắm tình hình, kịp thời phát
hiện và giải cứu nạn nhân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, hồi hương công dân Việt
Nam là nạn nhân bị mua bán trở về nước. Các điều ước quốc tế, hiệp định song
phương, đa phương, các thỏa thuận hợp tác về phòng, chống mua bán người mà Việt
Nam là thành viên được triển khai thực hiện có hiệu quả. Theo đó, ngày
20/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Kế hoạch triển khai
thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của LHQ. Việt Nam
tiếp tục nỗ lực thực hiện Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp
pháp, an toàn và trật tự (GCM) nhằm củng cố môi trường di cư minh bạch, ngăn
chặn nguy cơ mua bán người trong các hoạt động di cư quốc tế, trong đó đề ra
các giải pháp toàn diện và bao trùm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý di cư, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của người di cư nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu
giảm nguy cơ mua bán người, giảm tội phạm mua bán người, tiếp nhận, bảo vệ và
hỗ trợ hiệu quả các nạn nhân của thực trạng mua bán người. Trên thực tế, tình
hình phòng, chống mua bán người trong nước và qua biên giới cũng luôn được rà
soát để kịp thời có biện pháp xử lý phù hợp, khắc phục những khó khăn do đại
dịch COVID -19 gây ra.
Không
chỉ xâm hại quyền con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đạo đức, nhân
phẩm, tính mạng của các nạn nhân, tội phạm mua bán người còn gây ảnh hưởng xấu
đến nền tảng đạo đức, giống nòi, thuần phong mỹ tục, tác động trực tiếp đến
tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm
ấy, những năm qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam từ Trung ương đến địa
phương luôn thể hiện trách nhiệm cao, thái độ kiên quyết trong phối hợp đấu
tranh, ngăn chặn, xử lý tội phạm mua bán người. Các cơ quan báo chí Trung ương
và địa phương đã chú trọng xây dựng, duy trì hoạt động các chuyên trang, chuyên
mục, chương trình phát thanh, truyền hình tuyên truyền về phòng, chống mua bán
người, trong đó tập trung tuyên truyền về các phương thức, thủ đoạn mới, địa
bàn trọng điểm của tội phạm này, những đối tượng có nguy cơ cao trở thành nạn
nhân, quyền lợi mà nạn nhân được hỗ trợ và đường dây nóng tiếp nhận thông tin
về nạn nhân và vụ việc. Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông trên các
phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng và mạng xã hội...
Về
nhiệm vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, Việt Nam đang tích cực xây dựng, triển
khai quy trình chuẩn về hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng; xây dựng quy chế
phối hợp liên ngành, liên cấp về tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và cung cấp kết nối
dịch vụ tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và người nghi là nạn nhân bị mua bán. Củng
cố, phát triển, cải thiện chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách
Nhà nước trong công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo đảm tính sẵn có, dễ
tiếp cận; đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, xây dựng tiêu chí đánh giá chất
lượng dịch vụ hỗ trợ nạn nhân và thí điểm các mô hình hỗ trợ nạn nhân hòa nhập
cộng đồng. Đồng thời, lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào các
chương trình phòng, chống tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội, giảm nghèo, đào
tạo nghề, giải quyết việc làm, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ em và các chương
trình phát triển kinh tế xã hội khác…
Theo số
liệu của Cục Cảnh sát hình sự, từ năm 2010-2020, trên địa bàn cả nước đã điều
tra, khám phá 4.116 vụ, khởi tố 6.012 bị can phạm tội mua bán người ra nước
ngoài; trong số này có 419 vụ, 476 bị can mua bán trẻ em ra nước ngoài. Theo
báo cáo của các TAND, kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ năm 2016 đến
năm 2021 về tội mua bán người đã giải quyết là 450 vụ/506 vụ án đã thụ lý; tội
mua bán người dưới 16 tuổi đã giải quyết là 190 vụ/225 vụ án thụ lý. Đây là
những con số “biết nói” minh chứng những nỗ lực không biết mệt mỏi của Việt Nam
trong phòng, chống nạn mua bán người.
Cần
phải nhìn nhận đúng một thực tế là không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nơi, nhiều
khu vực trên thế giới, hoạt động mua bán người tiếp tục diễn biến phức tạp. Ðây
là công việc nhiều khó khăn, trở ngại nhưng với quyết tâm chính trị và bằng
kinh nghiệm của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và toàn dân tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi
tội phạm mua bán người. Trong bối cảnh tội phạm mua bán người hình thành các
đường dây, tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác với
các nước trên thế giới, các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tội phạm mua bán
người.
Liên
quan đến bản Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt
Nam Phạm Thu Hằng nhấn mạnh: “Chúng tôi mong muốn phía Hoa Kỳ trong thời gian
tới hợp tác chặt chẽ hơn nữa để có đánh giá đầy đủ về tình hình và nỗ lực
phòng, chống mua bán người của Việt Nam. Chúng tôi cũng sẵn sàng trao đổi với
các nước, trong đó có cả Hoa Kỳ cũng như các bên liên quan về các vấn đề hợp
tác cụ thể để cùng nhau triển khai hiệu quả công tác phòng, chống mua bán
người”.
Nguồn: CAND



