Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Ưu việt hay khác biệt?

 

Ngay sau khi cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt, trên không gian mạng, một số blogger có địa chỉ ở nước ngoài đã cố tình nhạo báng, cho rằng những luận điểm, nội dung trong cuốn sách đã lỗi thời, lạc hậu, thiếu cơ sở khoa học.

Các ý kiến này quy chụp: Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Việt Nam là một sai lầm, đó là cách đi khác biệt, thậm chí là dị biệt.

Con đường duy nhất đúng

Cần khẳng định ngay, các ý kiến trên là nhằm phủ nhận tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN); hòng gây hoang mang trong nhận thức và dư luận xã hội về con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây cũng là thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm nói xấu, hạ bệ vai trò, sự đóng góp của cá nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Dễ nhận thấy, không phải đến tận bây giờ, kẻ thù mới hướng mũi chống phá vào việc phủ nhận CNXH, mà thực chất, đây là mục tiêu xuyên suốt, bao trùm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Cái cách mà chúng đã thành công ở Liên Xô và các nước Đông Âu 3 thập kỷ trước. Theo đó, mỗi khi có cơ hội, kiếm tìm được cái cớ về sự kiện, hiện tượng ở xã hội Việt Nam, chúng lại réo lên những thông tin phản nghịch, đậm chất ngụy biện, bịa đặt, hòng gây xáo trộn nhận thức, lung lay niềm tin về mục tiêu lý tưởng của Đảng. Và lần này, cũng không loại trừ những âm mưu bẩn thỉu ấy.

Chúng ta biết rằng, suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân tộc Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành, vững tin lựa chọn và quyết tâm đi lên theo con đường CNXH. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà còn là nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là con đường duy nhất đúng, hợp với quy luật cách mạng, được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn.

Lịch sử cho thấy: Từ những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, trong khi nhiều khuynh hướng cách mạng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, bế tắc thì chỉ có con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng lãnh đạo, đi theo CNXH là phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và đưa cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau, với những thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như thành công trong lãnh đạo đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, chính là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn đó.

Đặc biệt, trong hệ thống lý luận và nhận thức của Đảng ta, luôn nhất quán, khẳng định mục tiêu cách mạng của Đảng, là: Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không còn lợi ích gì khác! Minh chứng là, trong cuộc đối đầu với "giặc Covid-19" vừa qua, toàn Đảng và cả hệ thống chính trị đã chung sức đồng lòng, trực tiếp dấn thân vào nơi gian khó, hiểm nguy, khu tâm dịch... để linh hoạt, sáng tạo lãnh đạo, tổ chức phòng, chống dịch hiệu quả. Với tinh thần "chống dịch như chống giặc", “không bỏ ai lại phía sau”, “vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế”, "mỗi người dân là một chiến sĩ"... toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chủ động khắc phục khó khăn, từng bước đẩy lùi dịch bệnh, đưa đất nước phát triển trong điều kiện bình thường mới. Những thành quả tốt đẹp đó cũng chính cách thức hiện thực hóa mục tiêu, con đường cách mạng, hướng đến các đặc trưng của CNXH; khẳng định tính ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam.

 Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ta đã đạt được những kết quả toàn diện trên mọi mặt đời sống xã hội. Sau hơn 35 năm đổi mới, trải qua nhiều thời khắc khó khăn, kinh tế nước nhà đã có bước tiến rất dài, khác về chất. Đặc biệt, thời gian qua, khi bóng đêm kinh tế bao trùm nhân loại thì nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ vững ổn định, phục hồi nhanh và phát triển bền vững; tiềm lực kinh tế, sức mạnh tổng hợp được tăng cường; các chế độ chính sách, an sinh xã hội vì người dân được đảm bảo. Đại hội XIII của Đảng, đánh giá: "Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay".

Kế tục những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn, qua nội dung các bài viết trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, khẳng định: Xã hội XHCN với giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp mà nhân loại hướng tới là một xã hội ưu việt, “thực sự vì con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân”. 

Không chỉ nêu lên khái niệm về CNXH, Tổng Bí thư còn khái quát các đặc trưng của CNXH và khẳng định quyết tâm chính trị, cùng niềm tin vững chắc về tính tất thắng đi lên CNXH ở Việt Nam. Ở chế độ chúng ta đang hiện thực, con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, một xã hội thực sự vì con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Đây cũng là một xã hội toàn nhân loại hướng tới.

Việt Nam - điểm đến và điển hình chưa có trong tiền lệ

Có thể thấy, với những thành quả cách mạng to lớn và khẳng định rõ tính ưu việt của chế độ XHCN, Việt Nam luôn là “điểm đến của hòa bình”, là quốc gia tổ chức nhiều sự kiện quốc tế, khu vực nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề của toàn nhân loại, hoặc các mục tiêu thiên niên kỷ. Tiêu biểu như: Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) 2017; Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018 (WEF ASEAN 2018); Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên năm 2019... Điều đó cho thấy, Việt Nam không chỉ có đủ năng lực, điều kiện tổ chức các sự kiện quan trọng mang tầm quốc tế; mà quan trọng hơn là khẳng định được sự tin cậy cao của các nước dành cho Việt Nam.

Đặc biệt, từ năm 2014, việc Việt Nam chính thức tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta cả trong đối ngoại và hợp tác quốc tế, phù hợp với khát vọng và truyền thống ngàn đời của dân tộc ta, thể hiện trách nhiệm với thế giới trong giải quyết những vấn đề nóng bỏng, phức tạp, vì nền hòa bình của toàn nhân loại.

Từ thành quả cách mạng Việt Nam khi đi theo con đường CNXH, nhiều quốc gia trên thế giới đã chủ động bắt tay, hợp tác trên nhiều phương diện với Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ tốt đẹp với tất cả nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 17 quốc gia (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn diện. Đáng nói hơn là uy tín, vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được nâng cao trên trường quốc tế. Khi các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta thực hiện các chuyến công du, thăm ngoại giao đến các nước, kể cả những cường quốc trên thế giới, luôn nhận được sự tiếp đón trọng thị, nồng nhiệt, cởi mở của các nhà lãnh đạo cao nhất. Đặc biệt, lãnh đạo các đảng phái trên thế giới (dù khác nhau về chế độ, thể chế) nhưng đã chủ động bắt tay hợp tác, ký kết nhiều nội dung phối hợp trên nhiều lĩnh vực. Những năm gần đây, bạn bè quốc tế, các tổ chức lớn trên thế giới, cùng nhiều quốc gia phát triển mời Việt Nam tham dự nhiều Hội nghị Thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế phát triển trên thế giới; dự các hội nghị chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng cử đại biểu dự nhiều hội thảo khoa học, hội nghị trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo giữa các đảng cộng sản, hoặc giữa các chính đảng với nhau.

Dẫn chứng như vậy để thấy rằng, hầu hết các quốc gia, các đảng phái trên thế giới đều ghi nhận, tôn trọng sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH của Việt Nam; ghi nhận những nỗ lực xây dựng, phát triển chế độ, xem đó là điển hình chưa có trong tiền lệ, tạo niềm tin cho bạn bè quốc tế về sự lựa chọn mô hình XHCN về mục đích mà chúng ta đang tiến đến đó là nhân văn, nhân ái, hòa bình, về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hòa hiếu. Cho nên, mọi suy diễn, chủ ý phủ nhận bước phát triển lý luận trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ là những ý kiến của một bộ phận hiềm khích, đã và đang cố tình chống phá cách mạng Việt Nam, bôi nhọ các nhà lãnh đạo và dã tâm phủ nhận tính ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam.

Chính trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết, khái quát những thành quả cách mạng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đúc rút nên nhiều bài học quý báu dẫn đến thành công, trong đó bài học đầu tiên là việc xác định đúng con đường đi lên CNXH. CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu-con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Đó cũng chính là luận cứ sắc bén phủ định tất cả những mưu hèn, kế bẩn của những kẻ cố tình bôi nhọ, xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Những vấn đề lý luận mà Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói riêng đúc rút (cả trước đây và hiện nay), từng được các quốc gia, các chính đảng, tổ chức quốc tế tìm đến trao đổi, học tập kinh nghiệm, bày tỏ ấn tượng và sự ghi nhận đặc biệt. Thậm chí, nhiều chính đảng và nhiều tờ báo trên thế giới đã cho đăng tải các bài viết của Tổng Bí thư, phân tích các luận điểm của Tổng Bí thư và xem đây là tư liệu có giá trị tham khảo lớn, cung cấp câu trả lời cho nhiều nhà nghiên cứu thế giới đang trăn trở. Mặt khác, cũng từ đây, bạn bè quốc tế có thêm cơ sở củng cố niềm tin vào thành công của Việt Nam, tăng thêm sự ủng hộ công cuộc xây dựng đất nước của Việt Nam trên con đường đi lên CNXH.

Với cuốn sách xuất bản lần này, thêm một lần nữa minh chứng cho đánh giá của Đảng Cộng sản Liên bang Nga được ghi trong Nghị quyết (ngày 14-4-2020) về việc trao tặng Giải thưởng Lênin, một giải thưởng lớn tôn vinh những tập thể, cá nhân có công đóng góp xuất sắc trong hoạt động xã hội và có nhiều đóng góp làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin... Đối với Tổng Bí thư Đảng ta, nghị quyết ghi “đã có những đóng góp cá nhân to lớn vào thực tiễn xây dựng CNXH và phát triển phong trào cộng sản trong giai đoạn hiện nay...”.

 Vậy nên, không cần bàn cãi gì thêm: Đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Thực tế ở thời điểm hiện tại cho thấy: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vững tin đi theo con đường cách mạng. Sự thật ấy là gáo nước lạnh hắt thẳng vào mặt những kẻ hiềm khích, cố tình chống phá cách mạng Việt Nam.

Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh chiến lược mới

 

Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước và biến động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc liên tục được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia - dân tộc được coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất nước và hoạt động đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu lên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định: 1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích vị kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại. Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong nước và ở nước ngoài; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia nào tự mình đủ sức gánh vác.

Tuy nhiên, trong điều kiện không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia - dân tộc của nước khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi ích quốc gia - dân tộc phải phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào tự đặt ra lợi ích vượt ra ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác và ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, nhất là trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại, tranh thủ tốt các nguồn lực từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc để nâng cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm: việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán định của tình hình quốc tế, khu vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp, đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải và hàng không trong khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.

Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như: 1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...

Hai là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực; nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối diện với những thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm cho những thách thức này càng trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.

Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Do vậy, kể từ khi ra đời năm 1945, Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, và điều này cũng chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích của các đối tác, lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Năm là, tiếp tục tạo dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh luôn là quốc gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội nhập thành công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Sáu là, bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho người dân, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển toàn diện. Nhìn rộng ra trong khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy người dân làm trung tâm”.

Bảy là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, củng cố và phát triển lý luận, thông tin tuyên truyền, nhất là thông tin đối ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.

Tóm lại, trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất nước ngày nay là minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt; là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.

HAIVAN

Những yếu tố tác động đến nhận thức và quá trình thực thi, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong quan hệ quốc tế

 

Một là, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là cái gốc chi phối mọi quyết định của mỗi quốc gia trong những vấn đề đối nội, vừa chi phối cách hành xử của quốc gia đó trên trường quốc tế. Chính vì vậy, đối với các nước, trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc trong các trường hợp cụ thể là vấn đề không đơn giản, bắt nguồn từ các yếu tố: 1- Sự khác nhau về lợi ích của các chủ thể tham gia quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; 2- Sự khác nhau về nhận thức của các chủ thể tham gia quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; 3- Các quy định, cách tiếp cận của các cơ quan tham gia hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại không đồng nhất dẫn đến cách hiểu, diễn giải và quyết định khác nhau. Những yếu tố này khiến quá trình xác định và thực hiện bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động đối ngoại trở nên phức tạp, nhất là khi có sự vận động, tác động của các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích có thể dùng các kênh và phương thức khác nhau để tác động, điều chỉnh hoặc cung cấp thông tin đối với từng vấn đề trong quá trình xây dựng và thực hiện bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc theo hướng mang lại lợi ích cho họ. Do đó, giới phân tích cho rằng, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc nhấn mạnh tới vai trò của các chủ thể bên trong một nước với những dạng thức lợi ích khác nhau và thể chế chính trị của nước đó với những đặc thù, luật pháp quốc tế chi phối.

Hai là, mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích quốc tế. Theo học giả người Mỹ Thô-mát Rô-bin-xơn (Thomas W. Robinson), bên cạnh lợi ích quốc gia - dân tộc còn có các lợi ích quốc tế (lợi ích song trùng, lợi ích bổ sung, lợi ích xung đột). Lợi ích quốc tế có thể bao gồm lợi ích chung của tất cả các quốc gia (lợi ích quốc tế toàn cầu) hoặc chỉ một số quốc gia nhất định (lợi ích quốc tế tập thể). Năm 1950, Liên Xô coi lợi ích quốc tế giới hạn trong phạm vi là lợi ích chung của khối xã hội chủ nghĩa. Mỹ coi lợi ích quốc tế bao gồm lợi ích chung của các nước tư bản phương Tây. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn Chiến tranh lạnh, cả Liên Xô và Mỹ đều theo đuổi bảo vệ lợi ích tập thể hơn lợi ích quốc tế toàn cầu. Chiến tranh lạnh kết thúc, sự đối đầu quân sự giữa hai khối Đông - Tây chấm dứt. Ngày nay, tầm quan trọng của lợi ích quốc tế càng được nâng cao và thể hiện rõ nét trong những thách thức đa dạng mà thế giới nói chung đang phải đối mặt, như các quan hệ về kinh tế, thương mại, phát triển công nghệ, bảo vệ môi trường, kiểm soát dân số, thiên tai, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, vi phạm quyền con người, khủng hoảng di cư... Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc diễn ra ngày càng quyết liệt, các quốc gia vừa và nhỏ đều nhận thấy lợi ích quốc gia - dân tộc chỉ có thể được bảo đảm khi lợi ích chung của cộng đồng quốc tế được bảo đảm dựa trên luật lệ quốc tế. Bên cạnh đó, phải nhìn nhận rõ hơn về tầm quan trọng của lợi ích quốc tế, bởi khi các quốc gia có những lợi ích chung mới có thể cùng nhau hợp tác, xử lý và giải quyết những vấn đề xung đột lợi ích.

Ba là, phương cách, biện pháp tạo dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia để tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có nhiều phương cách tạo dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia, tuy nhiên việc lựa chọn phương cách nào được cho là phụ thuộc nhiều vào bối cảnh cụ thể và chủ thuyết chính trị của giới hoạch định chiến lược, cũng như quyết định chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Ngày nay, “sức mạnh mềm” ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến lược của các quốc gia. Cách tiếp cận và biện pháp triển khai sức mạnh mềm hợp lý, đúng đối tượng, đúng thời điểm sẽ góp phần gia tăng sức nặng và tầm ảnh hưởng của các quốc gia trên “bàn cờ” chính trị quốc tế, cũng như tạo ra sức lôi cuốn và đồng thuận xã hội trong chính nội bộ quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều nhận thấy, việc sử dụng và lạm dụng “sức mạnh cứng” để giải quyết mâu thuẫn nhằm đạt được mục tiêu nhiều khi không phát huy được tác dụng, thậm chí còn thất bại, dễ vấp phải sự phản ứng của cộng đồng quốc tế và đứng trước rủi ro bị cô lập, làm suy giảm vị thế, uy tín, hình ảnh của quốc gia trong quan hệ quốc tế.

HAIVAN

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc


Lợi ích quốc gia - dân tộc là một phạm trù được đề cập rộng rãi trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia trên thế giới. Các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau về lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, hầu như các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng, lợi ích quốc gia - dân tộc là giá trị của một chủ thể có trách nhiệm tự xác định lợi ích của quốc gia, dân tộc mình. Vì vậy, có thể nói, đây là một khái niệm có tính khái quát hóa cao, bao gồm những nhu cầu sống còn của quốc gia đó; đó là tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân sự và thịnh vượng về kinh tế. Tháng 3-1848, Thủ tướng Anh Hen-ry Pan-mơ-xtơn (Henry Palmerston) từng có một phát biểu kinh điển về lợi ích quốc gia tại Hạ viện Anh: “Không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi những lợi ích đó”.

Ở Việt Nam, một số chuyên gia cho rằng, khái niệm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc mặc dù có những điểm khác nhau, song được xem là có chung nội hàm và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Lợi ích quốc gia là lợi ích chung của cộng đồng những người sống trên một đất nước, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục, tập quán và phần nhiều còn chung cả tiếng nói, chữ viết. Lợi ích quốc gia thiên về đại diện của giai cấp cầm quyền. Trong khi đó, lợi ích dân tộc bao hàm tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia - dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia - dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc. Lợi ích dân tộc là lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước. Do những điều kiện đặc thù nên khái niệm lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam có hướng tổng hợp cả hai khái niệm trên. Vì vậy, có thể xem lợi ích quốc gia - dân tộc là toàn bộ những nhu cầu sống còn, trường tồn và phát triển của một quốc gia đã được nhận thức và biến thành mục tiêu của chính sách đối ngoại trong quan hệ với thế giới còn lại ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, là công cụ hết sức quan trọng trong phân tích chính sách đối ngoại.

Việc xác định đúng và phù hợp mức độ, thứ tự ưu tiên lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng, việc sắp xếp mức độ ưu tiên trong các lợi ích quốc gia - dân tộc phụ thuộc rất lớn vào việc quyết định xem loại lợi ích nào quan trọng hơn, có tác động mạnh mẽ hơn tới sự tồn vong và phát triển của quốc gia đó. Một số quốc gia xác định lợi ích theo từng lĩnh vực (chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa...), thời gian đạt được lợi ích (vĩnh cửu, biến đổi); một số quốc gia khác xác định lợi ích theo tiêu chí tầm quan trọng (sống còn, cốt lõi, quan trọng, thứ yếu) hay phạm vi lợi ích (chung, bộ phận, cá nhân). Những nội hàm này cho phép các quốc gia có cơ sở để xác định những vấn đề nào là ưu tiên, cốt lõi phải bảo vệ, vấn đề nào có thể thỏa hiệp. Việc sắp xếp thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích cũng góp phần phác họa bức tranh chung về lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia để từ đó đưa ra những giải pháp, cách thức chính xác nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia khi thực hiện một chính sách hay một chiến lược nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt cần có sự bảo vệ “quyết liệt” những lợi ích đó tại thời điểm được cho là mang tính “sống còn”. Đơn cử như, Trung Quốc xác định lợi ích cốt lõi trong Sách Trắng về “Phát triển hòa bình của Trung Quốc” (năm 2011), bao gồm chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chế độ chính trị quốc gia mà Hiến pháp Trung Quốc xác lập và cục diện xã hội ổn định, sự bảo đảm cơ bản của kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Trong “Chiến lược An ninh quốc gia” (năm 2017), Mỹ xác định “nước Mỹ trên hết” với “bốn lợi ích quốc gia tối quan trọng”, đó là bảo vệ người dân Mỹ, nước Mỹ và lối sống Mỹ; thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ; bảo vệ hòa bình thông qua sức mạnh; gia tăng ảnh hưởng của Mỹ. Trong tài liệu “Các nguyên tắc cơ bản về chính sách Nhà nước Liên bang Nga đối với Bắc Cực đến năm 2035”, Nga đưa ra sáu lợi ích quốc gia - dân tộc của Nga, trong đó nhấn mạnh “bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” là mục tiêu cao nhất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để có thể tạo không gian mở, linh hoạt trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, không phải quốc gia nào cũng công khai các nội hàm lợi ích cụ thể.

Nhìn chung, lợi ích quốc gia - dân tộc được xem là “hòn đá tảng” hay “kim chỉ nam” của chính sách đối ngoại. Nội hàm của lợi ích quốc gia - dân tộc đôi khi cũng bao gồm cả những công cụ được lựa chọn để thực hiện mục tiêu chiến lược và ngoại giao chính là một trong những công cụ quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Để có thể thoát khỏi những “cạm bẫy” trong quá trình xác định và tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ, khi thực tế đã và đang cho thấy, thành công rất nhiều nhưng thất bại cũng không phải không có.

HAIVAN    

Ngoại giao đa phương của Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

 

Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được một số kết quả quan trọng về đối ngoại. Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu rộng trên nhiều cấp độ từ khu vực đến toàn cầu, đa dạng về hình thức, với việc tham gia chủ động tích cực ở các tổ chức, diễn đàn, hội nghị đa phương quốc tế, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ mới, nổi bật là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu”.

Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã đưa ra quan điểm phát triển đất nước nói chung, quan điểm đối ngoại nói riêng, đó là: 1- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; 2- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; 3- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất. Mặc dù quan điểm về ngoại giao đa phương chưa được Đảng ta đưa vào văn kiện một cách chính thức và độc lập, nhưng những quan điểm trên được xem là tiền đề cơ bản (nguyên tắc, phương châm) cho chính sách và hành vi (hoạt động) về ngoại giao đa phương.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định mục tiêu đối ngoại: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”; tuy nhiên, Đảng ta vẫn chưa đề cập đến ngoại giao đa phương, chỉ hàm ý trong cụm từ “đa phương hóa, đa dạng hóa”. Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể...; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng đoàn kết... Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 10 năm được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng, mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm mặc dù không đề cập đến đối ngoại đa phương mà chỉ đề cập đến công tác đối ngoại nói chung: “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế”, song, trong phần phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, Đảng ta lại đề cập một cách cụ thể, đó là: “Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”. Đặc biệt trong phương hướng đối ngoại, Đảng ta tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm đã nêu trong Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, về “Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, đó là: Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song phương, thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương.

Nhìn chung, Việt Nam đã xác định ngoại giao đa phương là một nội dung quan trọng trong quan điểm về đối ngoại với việc sử dụng nhiều lần cụm từ “nâng tầm đối ngoại đa phương” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Thêm vào đó, quan điểm về ngoại giao đa phương được xác định khá cụ thể, như: đối tác trọng tâm là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công...; lĩnh vực được ưu tiên là kinh tế, quốc phòng, an ninh...; quan điểm về thái độ tham gia ngoại giao đa phương là chủ động, tích cực. Trong thời gian tới, ngoại giao đa phương của Việt Nam được Đảng ta xác định: “Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”. Theo đó, Việt Nam sẽ tích cực, chủ động tham gia đóng góp, định hình “luật chơi” trong các hoạt động ngoại giao đa phương.

Đặc biệt, Việt Nam đã thể hiện sự nâng tầm về tư duy, quan điểm về ngoại giao đa phương khi khẳng định: “Tiếp tục đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, nhằm tạo ra sự thay đổi về chất trong công tác hợp tác quốc tế về pháp luật”. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam chủ trương tham gia ngoại giao đa phương trên cơ sở phối hợp ba hành vi: người thực hiện “luật chơi”, người tận dụng và người tham gia tạo dựng “luật chơi” (rule taker, rule manipulator và rule shaper). Việt Nam kỳ vọng chủ động thực hiện ngoại giao đa phương theo hướng góp phần hình thành các nguyên tắc, “luật chơi” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, mức độ hành vi còn tùy thuộc vào mô thức ngoại giao đa phương mà Việt Nam tham gia.

Từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến khó lường, các hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam vẫn diễn ra linh hoạt, năng động và là minh chứng cho một Việt Nam đang tích cực, chủ động tham gia định hình “luật chơi” và nguyên tắc của thể chế đa phương. Việt Nam vẫn đảm nhiệm tốt vai trò, vị trí của mình trong các “sân chơi” đa phương khu vực và thế giới. Cụ thể, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, với việc tham gia hàng trăm cuộc họp và bỏ phiếu các nghị quyết, đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng về các vấn đề liên quan đến thượng tôn pháp luật trong bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới; thúc đẩy bảo vệ người dân, nhất là phụ nữ và trẻ em; ứng phó với những thách thức an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, nước biển dâng...); thúc đẩy hợp tác chặt chẽ hơn và nâng cao vai trò của các tổ chức, khu vực và tiểu khu vực, hợp tác giữa các tổ chức, khu vực và tiểu khu vực với Liên hợp quốc trong bảo vệ hòa bình và an ninh ở các khu vực và quốc tế. Đặc biệt, tháng 12-2021, Việt Nam đã tổ chức thành công Phiên họp theo thể thức Arria đầu tiên về vấn đề trẻ em không có sự chăm sóc của cha mẹ trong xung đột. Trên cương vị Chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong tháng 4-2021, Việt Nam đã tổ chức, chủ trì, điều hành khoảng 30 cuộc họp theo phương châm tích cực, chủ động, có trách nhiệm, vừa bảo đảm sự khách quan, minh bạch, vừa linh hoạt, xử lý hài hòa, cân bằng mối quan tâm của các nước đối với các vấn đề được thảo luận và thúc đẩy hợp tác, đồng thuận tại Hội đồng Bảo an; thúc đẩy thông qua Tuyên bố Chủ tịch của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong đó nhấn mạnh nhu cầu tăng cường hợp tác quốc tế để chung tay giải quyết những hệ lụy của bom mìn sau chiến tranh đối với an toàn và sinh kế bền vững của người dân, cộng đồng.

Việc tham gia tích cực, chủ động các hoạt động của ASEAN trong năm 2021 đã và đang khẳng định vai trò dẫn dắt, định hình “luật chơi” của Việt Nam tại diễn đàn đa phương lớn nhất của khu vực này. Việt Nam tham gia chuỗi các hội nghị cấp cao và quan trọng của ASEAN, như Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN với các đối tác, Hội nghị cấp cao Mê Kông - Hàn Quốc lần thứ ba, theo hình thức trực tiếp và trực tuyến... Cùng với đó, Việt Nam chủ động tham gia, tích cực phối hợp một cách có trách nhiệm với nước Chủ tịch Bru-nây thúc đẩy các ưu tiên của năm 2021, nhất là chủ động và hiện thực hóa các chương trình kế hoạch theo sáng kiến của Việt Nam từ năm 2020, như: Quỹ ASEAN về ứng phó dịch bệnh COVID-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp ASEAN, Khung phục hồi tổng thể ASEAN và Khung thỏa thuận hành lang đi lại ASEAN (ATCAF)...

Tham gia ngoại giao đa phương trong khuôn khổ APEC cũng là một hoạt động đáng chú ý trong năm 2021 của Việt Nam. Bên cạnh việc Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tham dự và phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 28 (tháng 11-2021) được tổ chức tại Niu Di-lân, Việt Nam cũng tham gia nhiều sự kiện và hoạt động quan trọng của tuần lễ APEC, như Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 28 (APEC 28), phiên Đối thoại giữa lãnh đạo các nền kinh tế APEC với Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (ABAC), Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp APEC. Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Công Thương của Việt Nam cũng tham dự các phiên họp Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế của APEC. Đặc biệt, tại APEC 28, Việt Nam đã đề xuất một số ý kiến được các nền kinh tế thành viên ghi nhận, bao gồm: chia sẻ và tiếp cận công bằng vắc-xin phòng ngừa dịch bệnh COVID-19, vật tư y tế và nguồn lực, đề nghị APEC có tầm nhìn, cách tiếp cận mới trong việc phục hồi kinh tế, như thúc đẩy nền kinh tế số, thúc đẩy thương mại điện tử, thúc đẩy tự do thương mại, dỡ bỏ các rào cản thương mại để khôi phục sản xuất, kinh doanh, tránh bị đứt gãy các chuỗi sản xuất, đề nghị các nền kinh tế thành viên hỗ trợ, quan tâm các đối tượng yếu thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những biện pháp, đề xuất về thúc đẩy tăng trưởng xanh, tăng trưởng bao trùm... Tất cả các sáng kiến, đề xuất của Việt Nam đã được ghi nhận đầy đủ vào các văn kiện của APEC, trong đó có Tuyên bố cấp cao APEC, Tuyên bố cấp Bộ trưởng APEC cũng như Kế hoạch hành động triển khai Tầm nhìn APEC đến năm 2040; qua đó, thể hiện sự đóng góp hết sức trách nhiệm, tích cực, chủ động của Việt Nam, là thành viên chủ động, đi đầu trong APEC về xây dựng, củng cố đoàn kết trong APEC để tiếp tục tăng cường hợp tác vì một khu vực châu Á - Thái Bình Dương hòa bình và ổn định”.

Mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức nhưng với những hoạt động sôi động và hiệu quả của hoạt động ngoại giao nói chung và ngoại giao đa phương nói riêng, Việt Nam đã khẳng định vị thế của một quốc gia đang trên đà phát triển. Với vị thế và thực lực cũng như định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đẩy mạnh và nâng tầm ngoại giao đa phương trên thực tế sẽ là đường lối quan trọng để Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược của đất nước.

 HAIVAN

Ngoại giao đa phương

 

Ngoại giao đa phương là một hình thức hoạt động ngoại giao, trong đó có sự tham gia của ba chủ thể trở lên trong quan hệ quốc tế (chủ yếu là quốc gia - dân tộc) vào quá trình đàm phán, thương lượng, ra quyết sách trong cùng một thời điểm và đáp ứng nhiều đòi hỏi khác nhau trước một vấn đề cụ thể. Các mô thức ngoại giao đa phương chủ yếu và mang tính phổ quát hiện nay là tổ chức quốc tế (với các tính chất khác nhau từ những tổ chức mang tính cộng đồng chung, liên minh đến những tổ chức mang tính hợp tác với những cam kết đơn giản; ở các cấp độ khác nhau, như khu vực, liên khu vực, toàn cầu; với các lĩnh vực đa dạng: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...); các diễn đàn, hiệp hội (tính chất và quy mô đa dạng nhưng ràng buộc lỏng lẻo hơn); các phong trào, các hội nghị, cuộc họp, hội thảo... (quy mô đa dạng, ít ràng buộc nhằm giải quyết một hoặc một vài vấn đề, mang tính ngẫu hứng hoặc thường niên).

Trong ngoại giao đa phương, lợi ích luôn là yếu tố quy định hành vi của chủ thể. Với mỗi thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, các quốc gia có lợi ích khác nhau, dẫn tới hình thành động cơ thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể, thời điểm sử dụng mô thức ngoại giao đa phương khác nhau trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, chủ thể quan hệ quốc tế (cơ bản nhất là quốc gia - dân tộc độc lập có chủ quyền) tham gia ngoại giao đa phương khá sôi động, cho thấy ngoại giao đa phương đang đáp ứng được những lợi ích của các chủ thể. Một điểm đáng chú ý trong ngoại giao đa phương là tương quan lực lượng và thực lực quốc gia. Đây là nền tảng quan trọng của trật tự thế giới và là cơ sở để định hình “sân chơi” và nguyên tắc ứng xử (“luật chơi”) trong quan hệ quốc tế nói chung và ngoại giao đa phương nói riêng; đóng vai trò không nhỏ trong việc quyết định hành vi và tầm ảnh hưởng trong quá trình đàm phán. Thêm vào đó, thực lực quốc gia - nhân tố được coi là cơ sở của việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại - cũng quyết định hành vi của quốc gia trong ngoại giao đa phương. Vì vậy, các nước lớn có hành vi theo hướng chi phối và “bao cấp” cho thể chế đa phương, còn các nước nhỏ thì hành động theo hướng chấp nhận, tuân thủ và “ăn theo”.

Bên cạnh đó, hành vi của quốc gia cũng phụ thuộc vào mức độ thể chế hóa của các tổ chức đa phương. Tổ chức đa phương có mức độ thể chế hóa cao sẽ có khả năng cao hơn trong việc buộc các nước phải tuân thủ luật lệ và ngược lại, mức độ thể chế hóa thấp sẽ làm xu hướng không tuân thủ luật lệ xảy ra cao hơn.

“Luật chơi” (nguyên tắc, quy định) của các thể chế đa phương quốc tế cũng thúc đẩy hoặc tác động đến hành vi của các quốc gia. Các mô thức ngoại giao đa phương khác nhau sẽ có “luật chơi” khác nhau. Nhưng điểm chung của các mô thức ngoại giao đa phương là sản phẩm hay kết quả chính là các thỏa thuận quốc tế đa phương. Các thỏa thuận này là “luật chơi” ràng buộc hành vi tiếp theo của chủ thể trong ngoại giao đa phương. Vì vậy, trong quá trình hình thành “luật chơi”, quốc gia nào được tham gia đàm phán và đưa ra ý tưởng được chấp nhận và ghi nhận ý tưởng trong sản phẩm cuối cùng của ngoại giao đa phương, quốc gia đó sẽ khẳng định được lợi ích và vị thế của mình trong “sân chơi” đa phương này. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để quốc gia thuận lợi hóa môi trường cho hành vi tương lai. Song, do chủ quyền của quốc gia, sự chưa hoàn thiện của thể chế và khả năng đáp ứng nhu cầu của các bên trong các thỏa thuận quốc tế đa phương nên “luật chơi” của các thể chế đa phương chỉ ràng buộc một phần hành vi của quốc gia, bởi khi cần thiết chủ thể (quốc gia) sẽ viện dẫn lý do chủ quyền và lợi ích quốc gia để có thể bỏ qua những “luật chơi” này.

Trên thực tế, hành vi của các chủ thể khá đa dạng. Song, tựu chung chủ thể tham gia ngoại giao đa phương theo ba dạng hành vi cơ bản sau: 1- Các chủ thể thành viên phải chấp nhận và tuân thủ theo “luật chơi” chung (rule taker); 2- Vận dụng “luật chơi” hoặc kẽ hở luật pháp để tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc mình (rule manipulator); 3- Thay đổi, điều chỉnh hoặc xây dựng “luật chơi” mới để thích ứng với vị thế và thực lực mới (rule maker hoặc shaper). Các chủ thể có thể thay đổi hành vi của mình tùy theo lợi ích, tương quan lực lượng, “luật chơi” và “sân chơi” đa phương trong những thời điểm và vấn đề khác nhau. Ngoài ra, một chủ thể trong một thời điểm có thể có một hoặc hai, thậm chí có đủ cả ba hành vi ở những hoạt động ngoại giao đa phương khác nhau.

Trong thế kỷ XXI, quan điểm và hoạt động ngoại giao đa phương của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phong phú, rõ nét và mang tính đặc thù. Chẳng hạn, Mỹ theo đuổi chủ nghĩa đa phương có lựa chọn và chủ nghĩa đa phương hiệu quả với quan điểm xây dựng một hệ thống đa phương do Mỹ và các nước phương Tây dẫn dắt để có thể gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác. Ngoại giao đa phương của Mỹ tồn tại cùng ngoại giao song phương và mang tính thực dụng. Mỹ lựa chọn phát triển hay cầm chừng hoặc từ bỏ hoạt động ngoại giao đa phương theo sự tính toán về lợi ích của họ với các thời điểm khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong hành vi ngoại giao đa phương của Mỹ trên thực tế có xu hướng áp đặt “luật chơi” để bảo đảm lợi ích quốc gia, song Mỹ cũng sẵn sàng rời bỏ tổ chức đa phương cũ, khởi xướng thể chế đa phương mới cũng vì lợi ích quốc gia.

Nga luôn chủ trương gắn bó sâu sắc với các nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương. Nga chú trọng các cơ chế đa phương như một dạng tập hợp lực lượng để nhằm phục hưng đất nước và ngăn chặn ảnh hưởng của phương Tây. Ngoại giao đa phương của Nga phân tán về chiều rộng từ cấp độ toàn cầu, khu vực tới tiểu khu vực, mang tính lựa chọn với các quan điểm: 1- “Lãnh đạo tập thể của những quốc gia hàng đầu” cùng có trách nhiệm giải quyết các vấn đề toàn cầu, khác với quan điểm lãnh đạo của một siêu cường; 2- Trong ngoại giao đa phương, chính sách đa phương cần được đàm phán giữa các bên liên quan và Nga không chấp nhận một quyết định nào mà chưa được thông qua (chẳng hạn những quyết định của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương hoặc Liên minh châu Âu mà Nga không tham gia sẽ không có giá trị); 3- Ngoại giao đa phương cần trở thành nền tảng, phản ánh sự phân chia quyền lực trong một thế giới đa cực đang nổi lên, bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin, mà Nga hết sức chú trọng.

Trung Quốc hiện đang thể hiện cách tiếp cận mạnh mẽ và phổ biến về ngoại giao đa phương, nhất là với các tiểu vùng, khu vực và các tổ chức lớn, đa dạng trong nhiều lĩnh vực. Trung Quốc bắt đầu khẳng định vị thế, sức mạnh và sự dẫn dắt của mình trong nhiều thể chế đa phương qua sự tham gia tích cực vào các cơ chế bằng các sáng kiến đa phương, sự đầu tư và đóng góp, thể hiện sự gánh vác trách nhiệm, tham gia quản trị toàn cầu, phát huy “sức mạnh mềm” của Trung Quốc. Trung Quốc đưa ra chủ thuyết về một thế giới hài hòa, trong đó vai trò của các tổ chức đa phương được đề cao - cùng hợp tác để cùng thịnh vượng, cần tôn trọng sự đa dạng về văn hóa và hệ thống chính trị, các quốc gia đang phát triển có nhiều quyền quyết định hơn. Trung Quốc tích cực triển khai các hoạt động đa phương, truyền bá những tư tưởng mới, đưa ra thông điệp mới về xây dựng một thế giới hài hòa, dân chủ, kiến tạo một trật tự kinh tế thế giới mới, đặc biệt Trung Quốc nêu quan điểm không tham gia liên minh.

HAIVAN