Thứ Hai, 15 tháng 8, 2022

“Quản trị quốc gia” ở Việt Nam: Một số vấn đề từ hướng tiếp cận xã hội học

 Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đề ra chủ trương: Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Đây là lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “quản trị quốc gia” trong Văn kiện Đại hội của Đảng. Trên tinh thần đó, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021- 2030 cũng xác định: Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại. 

(Ảnh minh hoạ)

GÓC ĐỘ TIẾP CẬN TRI THỨC XÃ HỘI HỌC

Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả là một trong những mục tiêu trọng tâm mà Đại hội XIII của Đảng ta xác định. Để thực hiện thành công việc đổi mới quản trị quốc gia rất cần có đổi mới về nhận thức, tư duy lẫn hành động của toàn bộ hệ thống chính trị và hệ thống xã hội. 

Hiện nay, Việt Nam đã bước đầu tạo ra những tiền đề có tính chất tất yếu, khách quan và phổ biến để tiến hành các nghiên cứu khoa học, trong đó có nghiên cứu xã hội học liên quan đến hoạt động “quản trị quốc gia”. Trong khuôn khổ phân tích có thể xác lập một số vấn đề liên quan đến tri thức xã hội học. Cụ thể là:

Một là, dựa trên các đặc trưng của khoa học xã hội học để xác lập những yêu cầu liên quan đến nghiên cứu về chủ đề hoạt động “quản trị quốc gia”: (1) Tính khách quan, lôgíc đặt trong bối cảnh xã hội; (2) Tính thực chứng, có độ tin cậy cao khi đưa ra các kết luận nghiên cứu; (3) Tính duy vật biện chứng trong nhận định, đánh giá; (4) Tính lý giải thấu hiểu dựa trên các bối cảnh văn hóa để giải thích, tìm kiếm sự hiểu biết về bản chất của các hiện tượng xã hội; (5) Các phương pháp nghiên cứu hiện đại, liên ngành: quan sát tham dự; quan sát không tham dự; phiếu anket; phiếu phát vấn; thảo luận nhóm tập trung; phỏng vấn sâu; phân tích nội dung tài liệu; phân tích số liệu thống kê; nghiên cứu trường hợp...; (6) Khoa học đề cao tính chỉnh thể, hệ thống, toàn diện, thực chứng về hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội…

Hai là, nói đến tiếp cận xã hội học về “quản trị quốc gia”, trước hết cần nhấn mạnh sức mạnh tư duy “đa biến, đa chiều” của khoa học xã hội học. Tư duy xã hội học sẽ đi sâu tìm hiểu tất cả các góc cạnh thời cơ và thách thức của “quản trị quốc gia” ở Việt Nam trong bối cảnh mới. Từ góc độ tiếp cận tư duy xã hội học có thể nhận thấy, bên cạnh mặt tích cực, tư duy xã hội học sẽ luôn nhấn mạnh, quan tâm đến những hệ quả xã hội, những dự báo xu hướng và đề xuất giải pháp kiểm soát, hạn chế những tác động tiêu cực của “quản trị quốc gia” trong điều kiện và mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do đó, từ góc nhìn xã hội học, chúng ta phải có nhận thức đầy đủ, kịp thời để có hành động, giải pháp phù hợp nhằm chủ động giảm thiểu những hệ quả xã hội không mong muốn có thể xảy ra trong quá trình thực hiện mô hình “quản trị quốc gia” ở Việt Nam. 

Ba là, xã hội học là khoa học rất quan tâm đến việc phát triển lý thuyết và vận dụng lý thuyết để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội. Xã hội học hình thành và phát triển một hệ thống các lý thuyết để giải thích một cách khoa học và bản chất những hiện tượng xã hội, trong đó, có các lý thuyết giải thích mối quan hệ giữa tính chủ động và tích cực của con người với tính quy định chặt chẽ của cấu trúc xã hội. Song, con người có vai trò tích cực chủ động nhất định, họ tạo ra xã hội, và xã hội là do con người thiết kế nên, nhưng đồng thời họ cũng chịu sự ràng buộc bởi môi trường, cấu trúc xã hội. Do đó, để quá trình “quản trị quốc gia” đạt được những kết quả tích cực như mục tiêu đề ra luôn phải đồng thời nhấn mạnh tiếp cận và quan tâm xử lý các vấn đề liên quan đến hoạt động “quản trị quốc gia” ở cả hai chiều cạnh: yếu tố sáng tạo, năng lực và vai trò của cá nhân con người… cùng đồng thời với sự chi phối, ảnh hưởng bởi môi trường, cấu trúc xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật…

Bốn là, khoa học xã hội học vận dụng cách tiếp cận thiết chế xã hội để giải thích và quản lý các hiện tượng xã hội nảy sinh trong quá trình hiện đại hóa và phát triển của xã hội. Thiết chế xã hội là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực xã hội có chức năng khuyến khích và kiểm soát, giám sát, điều tiết và điều chỉnh các hành vi, quan hệ xã hội đối với các chủ thể tham gia nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay, hoạt động “quản trị quốc gia” đã, đang và sẽ bị chi phối đồng thời bởi hệ thống thiết chế xã hội: thiết chế pháp luật; thiết chế chính trị; thiết chế kinh tế; thiết chế khoa học; thiết chế giáo dục; thiết chế đạo đức; thiết chế văn hóa; thiết chế tôn giáo; thiết chế truyền thông đại chúng;... Do vậy, những kết quả hay bất cập, thuận lợi hay khó khăn, lực hút hay lực đẩy; đề xuất giải pháp liên quan đến “quản trị quốc gia” luôn cần được phân tích một cách tổng thể từ chính các thiết chế xã hội có liên quan. Chẳng hạn, phải truy tìm nguyên nhân sâu xa nhất làm cho tiến trình “quản trị quốc gia” còn gặp nhiều khó khăn, kém hiệu quả xuất phát từ những thiết chế xã hội nào; và từ đó đưa ra các giải pháp từ chính thiết chế xã hội đó.

Năm là, xã hội học có thế mạnh là sử dụng kết hợp đồng thời cả hai phương pháp nghiên cứu: định lượng và định tính dựa trên bằng chứng và độ tin cậy cao. Khoa học xã hội học nhấn mạnh tính khách quan, trung tính trong việc đưa ra các nhận định luận điểm, luận cứ. Do đó, một trong những vấn đề có tính cốt lõi của nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” là phải đo lường, lượng hóa được chất lượng, hiệu lực và hiệu quả mang tính toàn diện và hệ thống những vấn đề liên quan đến “quản trị quốc gia”. Xã hội học nghiên cứu về “quản trị quốc gia” phải hướng đến khả năng nắm bắt kịp thời, chính xác cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc tham vấn, đề xuất chính sách nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra của từng nhóm xã hội, từng chủ thể quản trị, từng lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình tham gia vào các hoạt động “quản trị quốc gia”.

Sáu là, xã hội học có nguồn gốc hình thành và phát triển từ góc độ tiếp cận đa - liên- xuyên - ngành. Tiếp cận “quản trị quốc gia” trên nền tảng khoa học đa- liên- xuyên ngành trong các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng “quản trị quốc gia” chính làtiếp cận theo các lĩnh vực: khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Tiếp cận đa - liên - xuyên ngành khoa học trong “quản trị quốc gia” đòi hỏi phải đẩy mạnh việc thiết lập tư duy mới, cách làm mới và mục tiêu thích hợp trong bối cảnh mới. Trong “quản trị quốc gia” cần phải thực sự phát triển khoa học-công nghệ đi trước, thực sự coi khoa học-công nghệ là  “quốc sách hàng đầu” trong dẫn dắt và thúc đẩy “quản trị quốc gia”. Do đó, chỉ có thể mở rộng tối đa biên độ kết nối sự hiểu biết của các khoa học: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật- công nghệ, khoa học xã hội - nhân văn, khoa học lý luận chính trị để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạch định và thực hiện chính sách “quản trị quốc gia”.

Bảy là, khoa học xã hội học luôn nhấn mạnh chức năng dự báo xã hội. Do đó, nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” cần đặt trong mối quan hệ bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo chính xác về tất cả các mặt trong đời sống xã hội; từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến việc tổ chức, quản lý và điều hành xã hội…đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Do đó, trong nghiên cứu và đề ra chính sách “quản trị quốc gia” luôn phải tính đến vai trò tác động và mục tiêu của những thay đổi về cách tổ chức, điều hành xã hội, cách suy nghĩ, ứng xử, lối tư duy của con người...

Tám là, cách tiến cận xã hội học nhấn mạnh mục tiêu “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển”. Do đó, nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” có sức mạnh trong nhận diện, phân tíc, đánh giá làm rõ vấn đề và hướng đến mục tiêu: “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển” của các chủ thể, lĩnh vực có liên quan. 

Chín là, từ hướng tiếp cận xã hội học cho thấy, để tạo ra nền tảng thống nhất cho hoạt động “quản trị quốc gia” cần phải xây dựng và hiện thực hóa thành công Bộ chỉ số “quản trị quốc gia” định lượng, dựa trên bằng chứng. 

Bộ chỉ số “quản trị quốc gia”, phải thể hiện được các yếu tố cơ bản cấu thành:  (1) Vai trò và hiệu quả hoạt động của Chính phủ; (2) Mức độ tăng năng suất của quốc gia trong cách mạng 4.0 là động lực quan trọng cải thiện mức sống trong dài hạn như thể chế, cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ ICT hiện đại…(3) Quyền lực mềm của quốc gia khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế như hệ số tín nhiệm quốc gia, thương hiệu quốc gia…(4) Môi trường kinh doanh với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo như năng lực đổi mới sáng tạo, năng động trong kinh doanh; (5) Chất lượng cuộc sống của nhân dân như: thu nhập, y tế, giáo dục,…là kết quả và là mục tiêu cần đạt được của hoạt động “quản trị quốc gia”, trực tiếp thể hiện hiệu quả làm việc của Chính phủ với tư cách là chủ thể chính trong nền “quản trị quốc gia”(1). (Nguyễn Văn Thành, Đặng Thành Lê, 2022). 

“Quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả được hiểu là: Sự kết hợp hợp lý giữa các yếu tố của quản lý công truyền thống (mệnh lệnh- phục tùng), với quản lý công mới (phân cấp, phân quyền, cạnh tranh, tập trung kết quả đầu ra) và những trụ cột của “quản trị quốc gia” tốt (Nhà nước pháp quyền, mở rộng sự tham gia của các chủ thể bên ngoài nhà nước với ý nghĩa đối tác, đồng thuận trong xây dựng phát triển quốc gia) phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện thực tế của quốc gia. 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, hiệu quả là chủ trương lớn của Đảng, đặt ra những yêu cầu khách quan về đổi mới thể chế quản trị, tư duy, nhận thức, vị trí, vai trò của các chủ thể..., đồng thời, cần tham khảo, tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm tốt của thế giới trên cơ sở phù hợp với truyền thống, lịch sử, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa và đặc điểm kinh tế - xã hội của nước ta(2)(Nguyễn Văn Thôi, 2021).Sự xuất hiện của “quản trị quốc gia” là một xu thế tất yếu, đáp ứng nhu cầu phát triển khách quan của xã hội và thời đại. Đây là một phương thức mới về quản lý, điều hành xã hội. Song, sự tất yếu, khách quan này cần được nhận thức và hành động dựa trên nền tảng khoa học, trong đó có tri thức xã hội học.

Cho đến nay, tùy thuộc vào trình độ phát triển cũng như đặc thù bối cảnh, mỗi quốc gia có thể theo đuổi những triết lý và mô hình khác nhau trong việc xây dựng nền “quản trị quốc gia”, nhưng những triết lý và mô hình đó đều thống nhất việc xem xét người dân là trung tâm của nền quản trị quốc gia. Mục đích cuối cùng của “quản trị quốc gia” là đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển bền vững của quốc gia nhằm tạo lập, duy trì và củng cố những giá trị cần thiết cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, việc xác lập các nguyên tắc, mục tiêu: “nhà nước của dân, do dân và vì dân; dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng; sự hài lòng, hạnh phúc của nhân dân”, cũng như kết quả bước đầu của các tiến trình này chính là những bằng chứng sinh động chứng minh những điều kiện, tiền đề thuận lợi để Việt Nam xây dựng nền “quản trị quốc gia” phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay.

Xây dựng và hoàn thiện nền “quản trị quốc gia” hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần phải lượng hóa chính xác, kịp thời sự tác động, vai trò của các nhân tố chủ quan và khách quan. 

Về chủ quan, đó là hiện trạng năng lực, tính chuyên nghiệp, đồng bộ của bộ máy công quyền và sự ổn định của quá trình hoàn thiện bộ máy; chất lượng và hiệu quả của hệ thống luật pháp; ý thức “pháp quyền” của người dân; môi trường dân chủ, minh bạch trong xã hội; trình độ dân trí, kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ... 

Về khách quan, đó là đặc điểm văn hóa, tính ổn định chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc; tác động của các nhân tố bên ngoài...Thực tiễn lịch sử cho thấy, các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa thì việc xây dựng và hoàn thiện nền “quản trị quốc gia” hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả sẽ nhanh hơn. Tuy nhiên, do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình toàn cầu hóa, những nước đi sau vẫn có thể rút ngắn khoảng cách, thậm chí đi tắt, đón đầu quá trình này(3)(Nguyễn Đặng Phương Truyền, 2021). 

Trên cơ sở trình độ phát triển và đặc điểm của mục tiêu phát triển đất nước, Việt Nam cần tiến hành những biện pháp tổng thể, như đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới thể chế kinh tế, phát huy dân chủ, nâng cao năng lực quốc gia,... và cần thêm một khoảng thời gian nhất định mới có thể tiến gần các tiêu chí của quản trị quốc gia tốt. Hơn nữa, ngay tại nhiều quốc gia phát triển, việc tiếp cận với các tiêu chí của quản trị tốt vẫn còn là một vấn đề khó khăn. Trong bối cảnh Việt Nam mới chỉ bắt đầu tiến trình “quản trị quốc gia”  vì vậy việc nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế luôn phải gắn liền với quá trình kiểm soát kỳ vọng, tránh khuynh hướng nóng vội, chủ quan, áp dụng máy móc của các chủ thể “quản trị quốc gia”. Do đó, vấn đề đặt ra là cần tiếp cận một cách có hệ thống, dựa trên nền tảng sức mạnh khoa học, trong đó có tri thức xã hội học. Trên cơ đó, làm rõ bản chất và xu hướng khách quan của “quản trị quốc gia”, cũng như xác định những mục tiêu, nhiệm vụ khả thi trong đổi mới “quản trị quốc gia” phù hợp với lịch sử, truyền thống dân tộc, các đặc điểm của thể chế kinh tế, chính trị và xã hội ở nước ta hiện nay.

Bế mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV - Ảnh TTXVN

Bế mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV

Việc chuyển đổi nhận thức, tư duy và hành động từ “đối tượng quản lý sang đối tác quản trị” là một vấn đề mới, không dễ thực hiện bởi “tư duy quản lý cũ, tình trạng quan liêu, cửa quyền, lợi ích nhóm” đang tồn tại không ít ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có một nhận thức mới, tư duy mới và hành động phù hợp về vị trí, vai trò chủ thể, mối quan hệ đối tác giữa Nhà nước, người dân, doanh nghiệp và tổ chức xã hội trong nền “quản trị quốc gia”. Sự tham gia, phối hợp của “đa chủ thể”, bao gồm: nhà nước, người dân, tổ chức xã hội, doanh nghiệp trong nền “quản trị quốc gia” là cơ sở để củng cố, nâng cao niềm tin, sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy và bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của quốc gia. Từ chức năng, hoạt động, cũng như những đóng góp của doanh nghiệp, người dân và tổ chức xã hội, cần có sự nhận thức mới, tư duy mới, cách làm mới nhằm thúc đẩy vai trò, sức mạnh của các chủ thể này đối với xã hội và trong nền “quản trị quốc gia” của Việt Nam.

Cần tăng cường thực hiện các giải pháp dựa trên bằng chứng, đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, khả thi trong hoạt động “quản trị quốc gia”. Bao gồm: Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, trong đó ưu tiên xây dựng đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động và quản lý sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số. Thứ ba, đổi mới trong quản trị phát triển nguồn nhân lực, thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, trong đó ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ. Thứ tư,đẩy mạnh thực hiện chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho người dân trong giao dịch với cơ quan nhà nước và tiếp cận dịch vụ công. Thứ năm, xử lý hài hòa quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội trong “quản trị quốc gia”. Thứ sáu, cần có những đột phá về quản lý phát triển công nghệ và phát triển thị trường khoa học và công nghệ; đưa khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng(4)

Thực hiện “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, hiệu quả là một nhiệm vụ cấp thiết ở Việt Nam hiện nay. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong quá trình này. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, có trọng trách đưa ra định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước, đồng thời cũng là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định đường lối, chính sách trong “quản trị quốc gia”. Đây là hai chức năng, nhiệm vụ song trùng, được thực hiện bởi cùng một chủ thể. Với vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định trong “quản trị quốc gia”, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của quá trình đổi mới “quản trị quốc gia” ở nước ta. Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn dựa trên bằng chứng về vị trí, vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối và thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong mô hình “quản trị quốc gia” của Việt Nam.

Tóm lại, đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả là một trong những trọng tâm đột phá mà Đại hội XIII của Đảng ta đã xác định. Hoạt động “quản trị quốc gia” đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết kịp thời, hiệu quả. Để thực hiện thành công việc đổi mới “quản trị quốc gia” rất cần những đổi mới cả về tư duy lẫn hành động của cả hệ thống chính trị và hệ thống xã hội.  Có nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết, trong đó có vấn đề phát huy vai trò của tri thức xã hội học trong nghiên cứu và hoạch định, thực hiện chính sách “quản trị quốc gia”.

“Quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh, hiệu quả cần xem xét trên hai phương diện: quản trị nội bộ quốc gia với các yếu tố như (vai trò tối thượng của pháp luật, hệ thống thể chế có hiệu lực; coi trọng sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý công; tôn trọng quyền con người; thu hẹp khoảng cách công - tư; đề cao sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến lợi ích, cuộc sống của họ)...

Bốn mươi lăm năm quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN và định hướng phát triển trong thời gian tới

 Quan hệ đối thoại Mỹ - ASEAN chính thức được thiết lập vào năm 1977. Bốn mươi lăm năm qua, mối quan hệ giữa hai bên diễn ra với nhiều dấu mốc quan trọng: Thiết lập quan hệ đối tác tăng cường (năm 2005); Mỹ thành lập phái đoàn đại diện thường trực tại ASEAN (năm 2010); xây dựng quan hệ đối tác chiến lược (năm 2015) và dự kiến sẽ nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện từ tháng 11-2022.

Nền móng hợp tác

Sự quan tâm ngày càng gia tăng của Mỹ trong mối quan hệ với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được cho là bắt nguồn từ ba vấn đề: Một là, vị trí chiến lược ngày càng quan trọng của khu vực Đông Nam Á. Nằm ở phía nam của Trung Quốc và phía đông của Ấn Độ, khu vực Đông Nam Á là cầu nối quan trọng, giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; trở thành “vùng đệm” giữa hai cường quốc “khổng lồ” của khu vực. Việc các quốc gia thuộc khu vực này nghiêng hoặc không nghiêng về phía Mỹ sẽ quyết định đến chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc và Ấn Độ. Mặc dù hiện nay có một số ý kiến hoài nghi về khả năng duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ khi nền kinh tế của quốc gia này có dấu hiệu suy giảm, song vai trò của Mỹ trong việc xử lý các cuộc khủng hoảng trên thế giới thời gian qua cho thấy, trên thực tế Mỹ vẫn là cường quốc số 1 thế giới cả về kinh tế lẫn quân sự. Hai là, sự ra đời của Cộng đồng ASEAN (AC) vào ngày 31-12-2015 với ba trụ cột, bao gồm Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC), có triển vọng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề an ninh cũng như kinh tế toàn cầu; đồng thời, khiến khu vực này ngày càng trở nên “hấp dẫn” đối với Mỹ, và lẽ tất nhiên, với cả các đối thủ cạnh tranh của Mỹ. Ba là, chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chiến lược này thể hiện ý chí và sức mạnh của Mỹ muốn kiềm chế, ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực. Đặc biệt, trước các hoạt động của Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông khiến các quốc gia ASEAN là đồng minh cũng như các đối tác quan trọng của Mỹ quan ngại, Mỹ cho rằng, Mỹ và ASEAN cần cùng phát đi một thông điệp rõ ràng về tầm quan trọng toàn cầu của vấn đề tự do hàng hải ở Biển Đông.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch ASEAN 2020 chủ trì Hội nghị Cấp cao ASEAN - Mỹ lần thứ 8 theo hình thức trực tuyến, tháng 11-2020

Việc Mỹ nâng cấp mối quan hệ Mỹ - ASEAN lên khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện trong thời gian tới nhằm ba mục tiêu: 1- Mỹ muốn gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và ASEAN cả về kinh tế lẫn an ninh khu vực, vì những lợi ích chung của Mỹ và các nước ASEAN trong việc bảo đảm duy trì hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực có vị trí địa - chính trị chiến lược này; 2- Mỹ muốn thể hiện rõ rằng, mặc dù Mỹ không phải là một trong những nước có tranh chấp với Trung Quốc tại Biển Đông, song không thể giải quyết vấn đề này cũng như các vấn đề an ninh khác của khu vực mà không tính đến các phản ứng từ phía Mỹ; 3- Mỹ muốn tạo dựng và đưa ASEAN trở thành một trung tâm kinh tế ngày càng gắn kết với Mỹ, qua đó giành lại ưu thế đã thuộc về Trung Quốc trong nhiều năm qua.

Về phía ASEAN, Hiệp hội cũng có những lợi ích cơ bản trong việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ: 1- Hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ giúp duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như hỗ trợ các nước ASEAN nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường biển, tránh để khu vực này bùng phát xung đột hay “quân sự hóa”; 2- Giữa bối cảnh cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc ở khu vực diễn ra ngày càng gay gắt, ASEAN cần có mối quan hệ chặt chẽ, đồng thời với cả Mỹ và Trung Quốc(1), để duy trì được vị trí trung tâm và vai trò tiên phong trong cơ cấu an ninh khu vực; 3- Thắt chặt hơn quan hệ với Mỹ giúp ASEAN có thêm cơ hội thể hiện vai trò của mình trong giải quyết các thách thức khu vực và toàn cầu, từ đối phó với biến đổi khí hậu cho tới an ninh năng lượng, an ninh biển…

Tuy nhiên, hiện vẫn còn không ít quan ngại đối với triển vọng hợp tác của mối quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN. Thứ nhất, các nhà lãnh đạo của Mỹ sẽ tiếp tục tập trung vào những vấn đề trong nước cũng như tình hình ở khu vực châu Âu, Trung Đông hoặc những diễn biến mới sẽ buộc Mỹ phải quan tâm hơn tới Đông Bắc Á, không thực sự mặn mà và quan tâm sâu đến khu vực Đông Nam Á/ASEAN. Thứ hai, chính sách không nhất quán của Mỹ hoặc cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc trở nên ngày càng gay gắt, có thể khiến đoàn kết nội bộ ASEAN bị lung lay trong bối cảnh các nước thành viên không muốn bị kẹt giữa Mỹ và Trung Quốc. Thứ ba, sự đa dạng của các hệ thống chính trị và thái độ khác nhau đối với các “giá trị”, “dân chủ” của Mỹ trong các nước ASEAN cũng là một trở ngại. Thứ tư, cùng với sự ra đời của Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trong khi Mỹ đang thúc đẩy Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF, bao gồm một số quốc gia Đông Nam Á) làm phân tán tiềm lực của các nước ASEAN, trước sự cạnh tranh của các khối thương mại này.

Song, cũng có những cơ sở lạc quan về mối quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN. Một là, hai bên thực sự cần nhau trong vai trò duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy thịnh vượng ở khu vực Đông Nam Á. Hai là, trong “trò chơi quyền lực” giữa các nước lớn, những nghi ngại về sự trỗi dậy khó đoán định của Trung Quốc khiến một số nước ASEAN có xu hướng xích lại gần Mỹ để cân bằng mối quan hệ với Trung Quốc. Ba là, cả Mỹ và ASEAN đều mong muốn chia sẻ cách tiếp cận đa phương, thúc đẩy các cơ chế đa phương trong giải quyết các vấn đề toàn cầu cũng như khu vực. Bốn là, cả Mỹ và ASEAN đều coi trọng vai trò của nhau trong việc xây dựng các luật lệ hoặc quy tắc ứng xử theo hướng có lợi cho cả ASEAN và Mỹ thông qua các diễn đàn đa phương của ASEAN.

Định hướng phát triển

Việc Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN lần đầu tiên được tổ chức tại Thủ đô Washington (Mỹ) vào tháng 5-2022 nhân dịp hai bên kỷ niệm 45 năm quan hệ đối tác chiến lược, cũng là lần đầu tiên diễn ra các cuộc trao đổi, gặp gỡ giữa lãnh đạo các nước ASEAN với các quan chức chính quyền và Quốc hội Mỹ, đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Mỹ, cho thấy thông điệp từ Mỹ muốn thể hiện một sự bình đẳng trong những ưu tiên của mình, cam kết mạnh mẽ và ủng hộ việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN.

Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng lãnh đạo các nước thành viên ASEAN tham dự Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN lần đầu tiên được tổ chức tại Thủ đô Washington (Mỹ), tháng 5-2022

Để hướng tới nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện, mở ra một giai đoạn mới trong hợp tác giữa Mỹ và ASEAN, tại Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN năm 2022, hai bên đã thông qua Tuyên bố tầm nhìn Mỹ - ASEAN, trong đó nêu bật các định hướng lớn: 1- Cam kết thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Mỹ - ASEAN có ý nghĩa thực chất, hiệu quả và cùng có lợi, mở ra một kỷ nguyên mới trong hợp tác Mỹ - ASEAN; 2- Ưu tiên ổn định chuỗi cung ứng, hợp tác biển, an ninh y tế, giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, phát triển tiểu vùng, khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số, ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng, phát triển xanh và bền vững…; 3- Khẳng định coi trọng vị trí, vai trò của ASEAN và Mỹ. Theo đó, về phía Mỹ, Tổng thống Mỹ J. Biden khẳng định lại cam kết ủng hộ, tôn trọng vai trò trung tâm của ASEAN, mong muốn cùng ASEAN nâng quan hệ đối tác lên bước phát triển mới, chung tay giải quyết hiệu quả các thách thức nảy sinh tại khu vực. Mỹ cũng nhiều lần nhấn mạnh sẽ “ở lại” Đông Nam Á, đồng thời có những động thái chứng minh cam kết đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đơn cử như, Tổng thống Mỹ J. Biden đã đề cử ông Yohannes Abraham - một trong những cố vấn chính trị và an ninh quốc gia hàng đầu của tổng thống, làm Đại sứ tại ASEAN - một vị trí còn khuyết kể từ khi chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump lên nắm quyền vào năm 2017. Với việc đề cử này, Tổng thống Mỹ J. Biden một lần nữa muốn gửi thông điệp về sự coi trọng trong điều chỉnh lại mối quan hệ của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung, ASEAN nói riêng. Về phía ASEAN, các nhà lãnh đạo ASEAN nhấn mạnh tiếp tục coi Mỹ là đối tác quan trọng hàng đầu, mong muốn Mỹ tiếp tục can dự tích cực, đóng góp hiệu quả vào hợp tác khu vực, góp phần duy trì hòa bình, an ninh và thịnh vượng chung trong khu vực, cũng như đối với việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, bao gồm tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Với những cam kết trên, giới truyền thông đặc biệt chú ý đến tuyên bố của Mỹ về các sáng kiến trị giá 150 triệu USD mà Tổng thống Mỹ J. Biden cam kết hỗ trợ cho các nước ASEAN, giúp các nước ASEAN phát triển kết cấu hạ tầng, an ninh, nâng cao khả năng ứng phó với đại dịch COVID-19 và những vấn đề khác liên quan, qua đó, góp phần củng cố vai trò trung tâm của ASEAN tại khu vực, tăng cường khả năng chung của hai bên nhằm đạt được các mục tiêu chung.

Theo Tổng thống Mỹ J. Biden, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - ASEAN năm 2022 đánh dấu sự khởi động của một kỷ nguyên mới trong mối quan hệ giữa Mỹ và các nước ASEAN. Trong khi đó, giới chuyên gia cho rằng, với việc thông qua Tuyên bố tầm nhìn chung Mỹ - ASEAN bao gồm 28 nội dung, thể hiện một bước tiến mới mang tính biểu tượng của hai bên, góp phần khẳng định cam kết nâng tầm quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, dự kiến diễn ra vào tháng 11-2022.

Mở rộng sự gắn kết

Tuy nhiên, để hợp tác Mỹ - ASEAN thực sự có hiệu quả, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển ở mỗi bên, tại khu vực và trên thế giới, hợp tác Mỹ - ASEAN cần được xây dựng trên một nền tảng rộng hơn. Cụ thể:

Thứ nhất, việc bảo đảm hòa bình, duy trì ổn định phải được coi là mối quan tâm hàng đầu. Mỹ và ASEAN cần thống nhất giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở tôn trọng đầy đủ những quy trình pháp lý và ngoại giao, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, dựa trên những nguyên tắc được thừa nhận của luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Theo đó, các bên cần cam kết duy trì hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực, bảo đảm an ninh và an toàn hàng hải, tự do hàng hải, tự do bay và những hình thức sử dụng vùng biển một cách hợp pháp khác và thương mại hàng hải hợp pháp không bị cản trở, cũng như phi quân sự hóa hay kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động.

Đơn cử như, trong vấn đề Biển Đông, ngoài việc ủng hộ các nỗ lực của ASEAN trong đẩy nhanh đàm phán để đạt được Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS năm 1982, Mỹ cần rõ ràng hơn trong chính sách và thống nhất về quan điểm cũng như hành động, qua đó giúp ASEAN có được quan điểm chung trước mọi tranh chấp trong khu vực trên cơ sở luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc và Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC).

Việc Mỹ thúc đẩy chia sẻ thông tin tình báo trong khu vực ASEAN nhằm nâng cao hơn nữa khả năng giám sát biển và hợp tác an ninh hàng hải trong khu vực cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Mỹ đã ủng hộ các nỗ lực của ASEAN nhằm duy trì khu vực Đông Nam Á là một khu vực phi vũ khí hạt nhân được khẳng định trong Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) và Hiến chương ASEAN, nhằm tăng cường cơ chế không phổ biến vũ khí hạt nhân và giải trừ vũ khí hạt nhân, theo quy định tại Điều 6 của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình như quy định tại Điều 4 của NPT. 

Mặc dù Mỹ luôn khẳng định sự cần thiết đối với chủ nghĩa đa phương của ASEAN, song trên thực tế, chính quyền Mỹ vẫn cho thấy xu hướng nghiêng nhiều về các quan hệ song phương hoặc đa phương quy mô nhỏ, như quan hệ đối tác có chọn lọc của Nhóm QUAD (Mỹ, Australia, Nhật Bản và Ấn Độ) hay Cơ chế hợp tác an ninh ba bên giữa Mỹ, Australia và Anh (AUKUS). Do vậy, để hỗ trợ ASEAN duy trì chủ nghĩa đa phương và giữ được vai trò trung tâm của mình, việc Mỹ ủng hộ ASEAN đẩy mạnh các cơ chế đa phương, nhất là cơ chế ASEAN+1, không phải 1+ASEAN trong chủ nghĩa đa phương ở khu vực, cũng cần được quan tâm đặc biệt.

Thứ hai, ưu tiên khôi phục dòng chảy thương mại, đầu tư. Là đối tác thương mại lớn thứ hai và là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất của ASEAN, Mỹ cần tích cực hỗ trợ AEC cũng như mở rộng hơn nữa thị trường của Mỹ cho các nước ASEAN. Đồng thời, đẩy mạnh mở rộng kết nối với thị trường ASEAN đầy tiềm năng; hỗ trợ ASEAN phát triển xanh và bền vững, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi số, phát triển năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường, đẩy nhanh phục hồi toàn diện và bền vững.

Hai bên đã cam kết tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn, công bằng hơn, bao trùm hơn và phát triển bền vững thông qua triển khai Thỏa thuận khung Mỹ - ASEAN về thương mại và đầu tư, Chương trình làm việc về các sáng kiến hợp tác kinh tế mở rộng… Hiện Mỹ đang khuyến khích các thành viên ASEAN tham gia IPEF. Mỹ cũng đang tìm kiếm những sáng kiến hợp tác kinh tế khu vực đáp ứng được sự đa dạng của các nền kinh tế ASEAN, như cam kết kinh tế mở rộng Mỹ - ASEAN, kết nối ASEAN thông qua thương mại và đầu tư… Tuy nhiên, kết nối hạ tầng, công nghệ sáng tạo, quản lý cấp khu vực… cũng là những vấn đề quan trọng cần được hai bên lưu tâm.

Ba là, có cách tiếp cận bao trùm trong giải quyết các vấn đề toàn cầu. ASEAN mong muốn Mỹ tiếp tục hợp tác, hỗ trợ các nước ASEAN trong bảo đảm an ninh y tế, nâng cao năng lực y tế, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine, ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế xanh và bền vững...

Phó Tổng thống Mỹ Kamala Haris và Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh tại Lễ khai trương Văn phòng Đông Nam Á của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Mỹ  tại Hà Nội

Các diễn biến địa - chính trị toàn cầu ngày càng phức tạp, khó lường, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực trên thế giới, đã làm nội bộ Mỹ khó dành sự quan tâm cao tới khu vực Đông Nam Á. Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN năm 2022 được coi là một nỗ lực của chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden cho thấy, bất chấp các thách thức toàn cầu, Mỹ vẫn tập trung và giữ cam kết với Đông Nam Á trong chiến lược toàn cầu của mình. 

Nhiều năm qua, Mỹ vẫn tham gia và đóng góp tích cực trong các cơ chế, khuôn khổ do ASEAN chủ trì, cam kết ủng hộ sự đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN. Hai bên cũng đẩy mạnh hợp tác ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, như hợp tác an ninh biển, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh mạng…

IPEF mà chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden đưa ra với mục tiêu sẵn sàng thay thế Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, nay là CPTPP), nhằm tạo thuận lợi thương mại, tập trung vào các tiêu chuẩn cho nền kinh tế kỹ thuật số và công nghệ, khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng, không phát thải carbon và năng lượng sạch, kết cấu hạ tầng... ở cấp độ toàn cầu. Tuy nhiên, các chi tiết đầy đủ về IPEF và những lợi ích mà IPEF đem lại cho các bên vẫn đang chờ được cụ thể hóa. IEPF không bao hàm mọi quốc gia ASEAN, do vậy, sẽ là nhân tố không mang tính hỗ trợ tích cực cho quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN. Đồng thời, việc Mỹ vắng mặt trong các cơ chế hợp tác đa phương quan trọng của khu vực, như CPTPP, RCEP, cũng là một rào cản để hai bên siết chặt hơn hợp tác về kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác.

Trên thực tế, Mỹ và ASEAN không tránh được việc chưa có sự đồng thuận liên quan đến một số vấn đề khu vực và quốc tế, nhưng chính thực tế đó càng đòi hỏi Mỹ và ASEAN cần có sự bổ sung, tăng cường lòng tin chiến lược. Tại Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN năm 2022, Tổng thống Mỹ J. Biden nhấn mạnh: “Mỹ ủng hộ mạnh mẽ Tầm nhìn về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của ASEAN và trật tự khu vực dựa trên luật lệ. Chúng ta sẽ tiếp tục hợp tác sâu sắc hơn, quan trọng hơn là chúng ta cùng nhau nỗ lực để đáp ứng những thách thức đang định hình thế kỷ XXI”.

Như vậy, quan hệ Mỹ - ASEAN đã chuyển sang giai đoạn mới, thực chất hơn, hiệu quả hơn, tăng cường tính đối tác chiến lược, vì lợi ích đôi bên, vì hòa bình, ổn định trên thế giới. Điều này đang tạo ra những chuyển biến có lợi cho cả Mỹ và ASEAN. Mỹ có thêm yếu tố thuận lợi và tác nhân quan trọng để triển khai chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. ASEAN có thêm vị thế thuận lợi hơn trong cân bằng các mối quan hệ đối ngoại, hướng tới một Cộng đồng đoàn kết, ổn định và phát triển thịnh vượng, từ đó có thể nâng cao và thể hiện mạnh mẽ hơn vai trò trung tâm trong các vấn đề và các cấu trúc khu vực ở Đông Nam Á cũng như ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng lớn hơn./.

------------------

(1)  ASEAN và Trung Quốc đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2021

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

 Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó các lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin cho rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” (1). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” (2). Đây là triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển đất nước theo tinh thần “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” chính là quy luật của cách mạng Việt Nam. Nội dung của quy luật này gồm học thuyết giải phóng và học thuyết phát triển, trong đó chứa đựng cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đoàn đại biểu anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc (năm 1965)

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính quyền, trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (3). Khi kẻ thù trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Người kêu gọi: “Tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ Tổ quốc” (4).

Hai tháng sau khi đồng bào miền Nam bước vào cuộc kháng chiến, ngày 25-11-1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”. Thực dân Pháp và các thế lực phản động đang âm mưu thôn tính nước ta, “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng… Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” (5).

Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” đã thể hiện rõ tư tưởng trong khi đặt nhiệm vụ kháng chiến lên hàng đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời coi trọng nhiệm vụ xây dựng đất nước về mọi mặt; xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới; phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kháng chiến để đánh bại thế lực đế quốc xâm lược, kiến quốc để xóa bỏ tàn dư chế độ cũ, phát triển đất nước, củng cố hậu phương vững chắc. Hai nhiệm vụ chiến lược này được kết hợp chặt chẽ trong suốt quá trình chiến tranh cách mạng. Bên cạnh đó, Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cụ thể về nội chính, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, chỉ rõ những nội dung về xây dựng Đảng, cải tổ Chính phủ, về kháng chiến ở miền Nam và đoàn kết với nhân dân các nước…

Để đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào tăng gia sản xuất, “thực túc, binh cường”. Người nhấn mạnh: “Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh hùng”(6).

Thực hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, quân và dân ta đã giải quyết cả ba nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm; không ngừng củng cố và tăng cường hệ thống chính trị nhằm thúc đẩy cả hai mặt xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, vùng tự do được bảo vệ, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng; từng bước xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ mới trong vùng ta kiểm soát, thực hiện được “thực túc, binh cường” và giải quyết vấn đề vũ khí, trang bị, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Bên cạnh việc đánh và cướp vũ khí của địch, Chính phủ đã phát động nhân dân tự tạo, sắm sửa vũ khí, đồng thời xây dựng các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa, cải tạo vũ khí. Đại hội II của Đảng (2-1951), với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương: Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hóa đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi, đồng thời đấu tranh quân sự phải kết hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế.

Với tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dựng nước và giữ nước trong từng thời điểm lịch sử cụ thể, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới thắng lợi.

Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, Mỹ - Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp dã man những người cộng sản và đồng bào yêu nước. Trong báo cáo “Tình hình mới, nhiệm vụ mới” tại Hội nghị Trung ương 6, ngày 17-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”(7) và “chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”(8). Đồng thời, Người chỉ rõ vai trò của miền Bắc trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà: “Nền có vững, nhà mới chắc; gốc có mạnh, cây mới tốt. Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm cho nó thật vững, thật mạnh”(9).

Khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”(10). Đại hội xác định những nhiệm vụ của cách mạng ở hai miền Nam - Bắc. Nhiệm vụ của miền Bắc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, thuộc chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của miền Nam là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thuộc chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Song cách mạng hai miền đều có mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước. Hai nhiệm vụ chiến lược nói trên có quan hệ mật thiết, thúc đẩy lẫn nhau. Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đến đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng đã phát triển lên một trình độ mới, trở thành đường lối cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã vận dụng và xử lý hài hòa quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện lịch sử cụ thể.

Thực hiện đường lối trên, miền Bắc thể hiện xuất sắc vai trò của mình, đó “vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu ác liệt với máy bay và tàu chiến Mỹ” (11). Chỉ có lập trường kiên định chống xâm lược, có chế độ chính trị ưu việt, có cách tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống xã hội tốt, miền Bắc mới có thể làm tròn nghĩa vụ với tiền tuyến lớn, làm tròn vai trò lịch sử của mình.

Đặc biệt, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là việc giải quyết nhuần nhuyễn, sáng tạo quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ và kẻ thù đã đứng chân ngay trên đất nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta có miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn trong sự thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Như vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước có khác nhau.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, trong 30 năm kháng chiến, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có mối quan hệ mật thiết, bền vững, thúc đẩy lẫn nhau. Có xây dựng được vùng tự do, cụ thể là xây dựng được miền Bắc vững mạnh mới có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Ngược lại, có đánh bại được mọi âm mưu chiến lược của địch mới có thể bảo vệ vững chắc vùng tự do và hậu phương chiến lược, tiến tới giải phóng hoàn toàn Tổ quốc. Đây cũng là bài học quý báu trong thời bình. Chỉ có xây dựng đất nước giàu mạnh với chế độ tốt đẹp, chế độ xã hội chủ nghĩa, mới tạo ra được nguồn lực dồi dào cho sự nghiệp giữ nước. Và, chỉ có xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù thì mới giữ được hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng đất nước.

Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam đoàn kết giữ vững chủ quyền (ảnh: Nguyễn Á)

Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là tổng thể các công việc không tách rời nhau, rất khó khăn, phức tạp, hết sức to lớn, nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Tư tưởng khoa học, cách mạng và nhân văn này của Người đã được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo trong tình hình mới.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được xác định là mối quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ. Xây dựng “nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện cả trên phương diện lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất, “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (13). Bảo đảm quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân.

Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Về lĩnh vực chính trị, là xây dựng, bảo vệ đường lối chính trị, hệ tư tưởng của Đảng ta, bảo vệ Cương lĩnh, xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa…

Về lĩnh vực kinh tế, là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế trọng yếu của đất nước, đấu tranh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

Về lĩnh vực văn hóa, là xây dựng, bảo vệ nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng giá trị chuẩn mực của văn hóa xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống lại tư tưởng, quan điểm phản giá trị văn hóa, nhất là những tàn dư của văn hóa phong kiến lạc hậu, sự thâm nhập của cái gọi là “giá trị văn hóa phương Tây”.

Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, là xây dựng, bảo vệ tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng và bảo vệ các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân và công an nhân dân, xây dựng và bảo vệ nền ngoại giao Việt Nam...

Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thể hiện ở tất cả các cấp, các ngành, trên quy mô toàn quốc cũng như trên từng địa phương, cơ sở, đơn vị, doanh nghiệp, trong nhận thức cũng như trong tổ chức hoạt động thực tiễn. Đảng, Nhà nước, nhân dân và cả hệ thống chính trị là chủ thể nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn, thể hiện ở việc đề xuất giải pháp, biện pháp, phương thức xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhận thức rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; đi đôi với đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thành tựu to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là chúng ta giữ vững và kiên trì, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và kiên định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ; tạo lập và củng cố môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập sâu rộng quốc tế; củng cố và tăng cường nội lực, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Nhận thức về quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội có bước tiến mới; trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, luôn quan tâm và chú trọng đến nhiệm vụ quốc phòng; nâng cao khả năng huy động các nguồn lực kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân từng bước chính quy, hiện đại, nâng cao khả năng dự báo chiến lược, ngăn chặn, loại trừ nguy cơ chiến tranh và chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống; hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn, củng cố được “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc… Những thành tựu cơ bản đó đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối cách mạng của Đảng ta, đồng thời khẳng định tiềm năng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, quá trình giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữa bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lúc, có nơi vẫn còn có biểu hiện tách rời hai mặt hoặc tuyệt đối hóa chỉ một mặt của nhiệm vụ này hoặc coi bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của riêng lực lượng vũ trang, của quân đội và công an. Ý thức về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của một số cơ quan, đơn vị, địa phương, của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa cao. Thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế có lúc, có nơi còn làm ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, nhất là đối với yêu cầu xây dựng cơ sở xã hội và thế bố trí chiến lược quốc phòng, xây dựng thế trận của nền quốc phòng toàn dân. Việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, còn nhiều bất cập và hạn chế. Sự phối hợp hoạt động giữa quốc phòng và an ninh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xử lý các tình huống cụ thể có lúc, có nơi thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ; chưa gắn chặt giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược quốc phòng, an ninh, chưa tạo nên sức mạnh tổng hợp cao...

Tình quân dân (ảnh: Trương Mạnh Hùng)

Quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đặt ra nhiều vấn đề cần phải tổng kết, phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Cần tăng cường quán triệt, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết, phát triển lý luận, đúc kết và vận dụng các bài học kinh nghiệm giải quyết nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nhận thức và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, bất cập, khó khăn cản trở việc tăng cường mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; giáo dục lòng yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức và giải quyết mối quan hệ này không chỉ thể hiện trong quan điểm, chủ trương, chính sách ở tầm vĩ mô, mà còn phải trở thành nhận thức thường trực trong mỗi tổ chức, mỗi người dân, với niềm tin, trách nhiệm, ý chí quyết tâm hành động, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến động lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột về lợi ích dẫn đến bất ổn về an ninh đối với nhiều quốc gia. Ở trong nước, mặc dù “thế và lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(14), song vẫn còn nhiều “khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(15). Các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Trước tình hình đó, càng cần kết hợp tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:

Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải đặt ra trong tổng thể và không thể tách rời các mối quan hệ lớn khác. Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (16). Đây là vấn đề rất quan trọng, vừa là kết quả kinh nghiệm của hơn 35 năm đổi mới, vừa là phương hướng cơ bản cần thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển bền vững trong xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, một trong những vấn đề đặt ra là xây dựng cơ chế phù hợp để các ngành, các cấp, mọi tổ chức và lực lượng thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại để sự phát triển bền vững đáp ứng được nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường… Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác nhằm bảo vệ đất nước; chủ động nhận diện các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến; giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Xác định rõ một số tình huống quân sự, quốc phòng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, phù hợp với thực tiễn, đủ cơ sở để xác định quyết tâm, chủ động phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ về chiến lược và sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân là đường lối đúng đắn và khoa học trong thời bình, sẵn sàng chuyển hóa thành lực lượng, thế trận chiến tranh nhân dân, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, kể cả chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.

Giữ vững độc lập, chủ quyền về quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh là khả năng tự quyết định những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh; là năng lực tự bảo vệ của đất nước trước các hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, các quyền, lợi ích quốc gia, khả năng chống lại sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc nội bộ của đất nước. Quá trình hội nhập quốc tế là quá trình tham gia và mở rộng các mối liên kết quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, có nhiều cơ hội và thách thức đối với độc lập, tự chủ của đất nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh có mối quan hệ biện chứng; là tiền đề cơ sở của nhau, tác động thúc đẩy nhau phát triển. Trong đó, hội nhập quốc tế tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề vật chất cho tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh sẽ thúc đẩy hội nhập quốc tế đi đúng hướng, sâu rộng và đạt hiệu quả cao. Do đó, cần tỉnh táo, kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, nhưng khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia - dân tộc. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế.

Chủ động phòng, chống một cách hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chống phá ta của các thế lực thù địch; nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa hợp tác và đấu tranh trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, góp phần triển khai hiệu quả nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối ngoại quân sự, quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

----------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t. 37, tr. 29
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 59
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 587
(4), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 537, 134
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 26
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 555
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 533
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 144
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 673
(11) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 215
(12) Văn kiện Ðảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 113 
(13), (14), (15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 156, 107, 109, 91