Thứ Hai, 15 tháng 8, 2022

Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học đáp ứng mục tiêu xây dựng trường chính trị chuẩn

 Công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, gắn với giảng dạy sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Bài viết đánh giá thực trạng công tác nghiên cứu khoa học ở các trường chính trị, đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động này, hướng tới hoàn thiện, bảo đảm các tiêu chí, đáp ứng mục tiêu xây dựng trường chính trị chuẩn.

Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học đáp ứng mục tiêu xây dựng trường chính trị chuẩn

Trường Chính trị tỉnh Hà Giang 

1. Công tác nghiên cứu khoa học ở các trường chính trị hiện nay

Trường chính trị cấp tỉnh có chức năng, nhiệm vụ là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học... Quy định số 09-QĐi/TW ngày 13-11-2018 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ghi rõ: “trường chính trị cấp tỉnh có chức năng tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở địa phương”. Như vậy, Quy định số 09-QĐi/TW đã tiếp tục làm rõ và nâng cao chức trách, nhiệm vụ của các trường chính trị. Theo đó, nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học của các trường phải được coi trọng “ngang bằng” với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở địa phương.

Thực tiễn cho thấy, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của trường chính trị liên quan rất lớn tới công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn của nhà trường. Bởi lẽ, các khung chương trình, giáo trình, các quy chế, quy định của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Học viện) và các cơ quan có thẩm quyền ban hành chỉ định hướng, cung cấp cho đội ngũ cán bộ, giảng viên những thể chế, kiến thức cơ bản. Để làm sâu sắc nội dung bài giảng, làm cho bài giảng có sức thuyết phục và thiết thực thì nhà trường và giảng viên phải liên hệ với thực tiễn địa phương, bổ sung rất nhiều kiến thức thực tiễn, những vấn đề mới.

Đồng thời, làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học, trường chính trị cung cấp luận cứ khoa học cho công tác tham mưu, xây dựng thể chế, tư vấn, phản biện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội địa phương.

Trong những năm qua, đặc biệt từ khi có Quy định số 09-QĐi/TW đến nay, nhiều trường chính trị đã chủ động, tích cực hơn và dần đưa công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn của nhà trường thành nền nếp; chất lượng nghiên cứu khoa học của trường, của từng khoa, từng giảng viên được nâng lên.

Những kết quả đạt được của công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn

Công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn ở nhiều trường chính trị đã bám sát nhiệm vụ chính trị cũng như giải quyết những vấn đề thực tiễn ở địa phương. Nhiều trường đã coi trọng tính ứng dụng, xã hội hóa kết quả nghiên cứu, trên quan điểm lấy chất lượng, tính khả thi và hiệu quả thực tiễn làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá kết quả hoạt động khoa học.

Nhiều trường đã bám sát các nghị quyết của Đảng, đảng bộ, chương trình, giáo trình của Học viện để xác định các chủ đề nghiên cứu nhằm làm rõ, làm sâu sắc hơn các nội dung chương trình, phục vụ cho công tác giảng dạy của từng môn học, phần học.

Một số trường bước đầu đẩy mạnh hướng nghiên cứu phục vụ tư vấn chủ trương, cơ chế, kế hoạch của địa phương.

Chỉ tính riêng năm 2021, các trường chính trị đã triển khai nghiên cứu 247 đề tài khoa học cấp trường và đề tài khoa học cấp khoa, phòng; tổ chức 04 hội thảo cấp nhà nước, 44 hội thảo khoa học cấp cụm, 39 hội thảo cấp tỉnh, 185 hội thảo cấp khoa, cấp trường, 121 tọa đàm khoa học các cấp. Xuất bản định kỳ từ 2 đến 4 số bản tin, nội san Thông tin Lý luận và thực tiễn; 17 đầu sách chuyên khảo, tham khảo, có 26 bài đăng tạp chí nước ngoài, 377 bài đăng tạp chí có chỉ số ISSN.

Thực hiện hướng dẫn của Học viện về biên soạn tập bài giảng “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị, với sự nỗ lực, cố gắng rất lớn, hiện nay 63/63 trường đã hoàn thành biên soạn và được Học viện tổ chức thẩm định, nghiệm thu đạt yêu cầu; tính đến ngày 02-6-2022 có 49/63 trường chính trị đã xuất bản, còn lại đều đang trong giai đoạn xuất bản. Tập bài giảng gồm các chuyên đề bám sát thực tiễn xây dựng và phát triển của địa phương, được các giảng viên nghiên cứu và đưa vào giảng dạy trong chương trình trung cấp lý luận chính trị.

Một số trường đã đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chủ động đưa ra các nhiệm vụ khoa học cho giảng viên nghiên cứu để từ đó bổ sung cho bài giảng những kiến thức thực tiễn. Điển hình như Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa đã có 7 đề tài khoa học cấp tỉnh, nhiều đề tài khoa học cấp trường, in được nhiều sách chuyên khảo. Trong những năm qua, được Tỉnh ủy giao xây dựng và in tài liệu phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ xã, phường, thị trấn; Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh, Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh tỉnh Thừa Thiên Huế, Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc, Trường Chính trị tỉnh Hà Tĩnh, Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ tỉnh Quảng Ninh... là những điểm sáng trong hoạt động nghiên cứu khoa học và là những trường có nhiều đề tài cấp tỉnh, cấp bộ.

Nhiều trường đã xây dựng cơ chế tổ chức hội thảo liên trường, cụm thi đua với những chủ đề rất thiết thực đối với đội ngũ giảng viên.

Nhiều giảng viên đã chủ động tìm tòi và có những nghiên cứu chuyên sâu. Những nội dung nghiên cứu tập trung làm rõ hơn, sâu sắc hơn về phương pháp, nội dung khai thác, phát triển các phần học, các nội dung về lý luận ứng dụng vào thực tiễn công tác giảng dạy. Nhiều bài viết đã được đăng tải trên các bản tin, kỷ yếu hội thảo khoa học và trên tạp chí. Những bài viết có chất lượng này đã có sức lan tỏa, là cơ sở để cán bộ, giảng viên các trường tham khảo, nghiên cứu, học tập.

Trong những năm qua, đặc biệt từ khi có Quy định số 09-QĐi/TW đến nay, nhiều trường chính trị đã chủ động, tích cực hơn và dần đưa công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn của nhà trường thành nền nếp; chất lượng nghiên cứu khoa học của trường, của từng khoa, từng giảng viên được nâng lên. 








Thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, nhiều trường đã thành lập chuyên mục trên trang thông tin điện tử, đăng bài, dẫn tải các bài viết về chủ đề này như Trường Chính trị tỉnh An Giang, Bến Tre, Hậu Giang, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Nghệ An, Yên Bái... 

 

Trong năm 2021, 100% trường tham gia viết bài hưởng ứng cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới do Học viện phát động.Đã có 66/74 trường chính trị, trường bộ, ngành tham gia với 764 bài viết gửi về Ban Tổ chức. Trong đó, 2 tập thể (Trường Chính trị tỉnh Bến Tre và Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ tỉnh Bắc Ninh), 19 cá nhân là cán bộ trường chính trị đã đoạt giải.

Một số hạn chế trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường chính trị

Số đề tài khoa học (nhiệm vụ khoa học) cấp tỉnh, cấp bộ chưa nhiều. Công tác nghiên cứu tư vấn, cung cấp luận cứ cho hoạch định chủ trương, chính sách của địa phương chưa thực sự được chú trọng. Qua rà soát, đối chiếu các tiêu chí về hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường chính trị cấp tỉnh theo Quy định số 11-QĐ/TW của Ban Bí thư thì hiện nay có tới 56/63 trường chưa đạt tỷ lệ về đề tài khoa học; 53/63 trường chưa đạt tiêu chí về xuất bản sách; 45/63 trường chưa đạt tiêu chí về xuất bản bản tin; 39/63 trường chưa đạt tiêu chí về hội thảo, tọa đàm khoa học(1).

Chưa có sự đồng bộ trong hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn và đào tạo, bồi dưỡng. Nhiều trường chỉ tập trung vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, chưa thực sự chú trọng nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, hoặc chỉ dừng ở việc giao đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở (cấp trường, cấp khoa). Theo đó, các nhiệm vụ khoa học chỉ mang tính nghiên cứu nhỏ, đáp ứng nhu cầu giảng dạy trước mắt cho đội ngũ giảng viên, chưa thực sự nghiên cứu về các nhóm, các lĩnh vực, có khả năng ứng dụng rộng, hoặc có thể tổng hợp các kết quả nghiên cứu khoa học thành các đề xuất, kiến nghị tổng kết thực tiễn cho địa phương. Chính vì vậy, có tình trạng, nhiều trường trong nhiều năm không có đề tài, nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh hoặc có thì rất ít và không duy trì thường xuyên qua các năm.

Theo thống kê, trong giai đoạn 2015-2022, có 22/63 trường không được giao đề tài cấp tỉnh (chiếm 34,92%); 26/63 trường có 01 đề tài cấp tỉnh (41,27%); 11/63 trường có 02 đề tài cấp tỉnh (chiếm 17,46%); 01/63 trường có 03 đề tài cấp tỉnh (chiếm 1,59%); 02/63 trường có 4 đề tài cấp tỉnh, cấp bộ (chiếm 3,17%); 01/63 trường có 07 đề tài cấp tỉnh (chiếm 1,59%).

Giai đoạn 2020-2022, trong 63 trường chính trị chỉ có 23 trường có đề tài, nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh, cấp bộ được giao (đã hoàn thành) đạt 36,51%.

Việc xuất bản bản tin Thông tin Lý luận và thực tiễn của các trường chưa đều, có trường duy trì 2 số/năm, có trường chỉ 1 số/năm; trung bình là 3 số/năm. Chất lượng bản tin của nhiều trường chưa cao, nhiều nội dung chỉ dừng ở việc cung cấp thông tin, đưa các tin tư liệu hình ảnh, chưa phản ánh được chiều sâu các nội dung nghiên cứu. Nhiều trường trong nhiều năm không xuất bản được sách chuyên khảo, hoặc có rất ít. 

Nguyên nhân của những kết quả đạt được

Đảng, Nhà nước ngày càng quan tâm xây dựng hệ thống trường chính trị. Trung ương Đảng, Học viện đã quan tâm và ngày càng hoàn thiện các quy định, thể chế về công tác trường chính trị một cách chặt chẽ, khoa học hơn. Quy định số 11-QĐ/TW ngày 19-5-2021 của Ban Bí thư về trường chính trị chuẩn là căn cứ để đánh giá trường chính trị trong từng lĩnh vực và nội dung hoạt động, trong đó có hoạt động nghiên cứu khoa học. Mục đích nhằm chuẩn hóa, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn và các hoạt động khác của trường chính trị.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan quản lý về chuyên môn đối với các trường chính trị. Thời gian qua, Học viện đã ban hành bộ quy chế về quản lý đào tạo, quản lý hoạt động bồi dưỡng, ban hành khung chương trình mới về đào tạo trung cấp lý luận chính trị, các chương trình bồi dưỡng mới, là cơ sở cho các trường chính trị triển khai các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học sát với chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước và đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương.

Đồng thời, Học viện đã tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn đối với các trường, tăng cường quản lý kết nối hệ thống, có nhiều định hướng cho các trường để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, quan tâm lắng nghe ý kiến đề xuất, góp ý của các trường, do vậy đã kịp thời giúp các trường tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về hoạt động nghiên cứu khoa học.

Ban lãnh đạo nhiều trường chính trị đã nhận thức đúng và làm tốt việc định hướng, đặt ra những yêu cầu về nghiên cứu khoa học, thường xuyên đôn đốc và đưa vào các kế hoạch hoạt động cụ thể của trường về nghiên cứu khoa học, yêu cầu các khoa, các giảng viên phải có định hướng nghiên cứu cụ thể để đáp ứng chuẩn về thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.

Nguyên nhân của những hạn chế trong nghiên cứu khoa học

Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền đối với công tác trường chính trị có lúc, có nơi chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ của trường.

Công tác quản lý, điều hành của một số trường chính trị thiếu sự linh hoạt, chủ động, sáng tạo; chưa có sự phối hợp chủ động, chặt chẽ với các sở, ban, ngành, địa phương trong xây dựng và triển khai kế hoạch nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn.

Công tác nghiên cứu khoa học chưa được quan tâm, chú trọng đúng mức. Nhiều lãnh đạo trường chưa chủ động triển khai hoạt động này; chưa chủ động đề xuất các vấn đề mới, khó cần nghiên cứu, luận giải để từ đó tìm ra giải pháp, đề xuất kiến nghị, tham mưu chính sách cho địa phương. Chưa phát huy được năng lực nghiên cứu khoa học, tư vấn chính sách của đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường.

Nhiều trường thụ động, trông chờ tỉnh, sở khoa học công nghệ giao nhiệm vụ hoặc mới chỉ dừng ở việc giao một vài hoạt động nghiên cứu cấp cơ sở cho khoa, phòng, tập trung chủ yếu vào những nội dung mang tính chất gợi mở, làm rõ các vấn đề liên quan trực tiếp đến hoạt động giảng dạy trung cấp lý luận chính trị ở từng phần học, môn học. Có trường lại chỉ tập trung vào hoạt động nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, hội thảo cấp khu vực mà không chú trọng hoạt động nghiên cứu cấp cơ sở.

Trình độ nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên chưa đều: vẫn còn tình trạng giảng viên chưa nắm vững phương pháp nghiên cứu; chất lượng hoạt động khoa học chưa cao. Nhiều giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học mang tính đối phó, viết bài để bảo đảm quy định về định mức nghiên cứu khoa học, chất lượng bài viết nghiên cứu chưa sâu. Nhiều giảng viên chưa thực sự chủ động chú trọng hoạt động nghiên cứu khoa học, chủ yếu tập trung vào việc soạn bài, giảng dạy các lớp được giao, mà chưa nhận thức rõ nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn, làm tốt hơn công tác đào tạo, bồi dưỡng, làm tốt hơn chức trách nghề nghiệp nhà giáo.

2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường chính trị

Một là, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tiếp tục tăng cường hướng dẫn các trường chính trị đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn. Tiếp tục thực hiện có chất lượng, hiệu quả Đề án 587 về nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên Học viện và các trường chính trị. Trong đó, đặc biệt chú trọng đào tạo giảng viên lý luận chính trị; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và giảng viên các trường chính trị.

Học viện tiếp tục triển khai nhiều hoạt động nhằm định hướng nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của các trường như: Triển khai hoạt động tư vấn, hỗ trợ các trường tổ chức các hội thảo khoa học cấp bộ(2), xây dựng mẫu cụ thể để tổ chức hội thảo cấp bộ, xây dựng nhóm chuyên gia hỗ trợ các trường về định hướng nội dung nghiên cứu; triển khai hỗ trợ tư vấn cho các trường trong xây dựng đề cương và tổ chức nghiệm thu đề tài, nhiệm vụ khoa học cấp bộ.

Đây là những cách làm mới, có sức lan tỏa trong hoạt động nghiên cứu khoa học, làm cơ sở để các nhà khoa học của Học viện và nhà khoa học quốc tế tham gia đồng hành cùng với các trường, tạo động lực để các trường quyết tâm, nỗ lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học đạt chất lượng, hiệu quả.

Ban Chủ nhiệm Đề án 587 tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng viên, tập huấn quy trình triển khai đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Đổi mới, xây dựng lại chương trình, nội dung chuyên đề bài giảng theo hướng cụ thể các quy trình, cách làm, các bước xây dựng thuyết minh đề tài, đề dẫn, tổng quan, báo cáo kiến nghị...

Hai là, đối với các tỉnh ủy, thành ủy, trên cơ sở triển khai Quy định số 11-QĐ/TW về trường chính trị chuẩn, tiếp tục yêu cầu trường chính trị xây dựng, hoàn thiện đề án trường chính trị chuẩn, trong đó làm rõ các nội dung tiêu chí thiếu, nhất là tiêu chí về nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó, tỉnh ủy, thành ủy hỗ trợ các trường xây dựng và triển khai tốt các hoạt động nghiên cứu khoa học, cụ thể như: giao cho trường xây dựng đề án, đề tài nghiên cứu khoa học về các vấn đề xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, tổng kết mô hình kinh tế, xây dựng nông thôn mới... phù hợp với khả năng đội ngũ cán bộ, giảng viên của trường. Đồng thời, thường xuyên quan tâm việc thực hiện đề án trường chính trị chuẩn. Giao nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành có liên quan phối hợp với trường chính trị trong hoạt động nghiên cứu khoa học.

Ba là, đối với từng trường chính trị, việc triển khai Quy định 11-QĐ/TW là “cú hích” rất quan trọng và thực sự cấp thiết, giúp nhà trường nhìn nhận lại, thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu, tiềm năng, hạn chế. Từ việc xây dựng đề án trường chính trị chuẩn, khẩn trường triển khai tới từng giảng viên, xác định lộ trình cụ thể để mỗi giảng viên, cán bộ nhà trường nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của trường, của từng vị trí việc làm để từ đó xây dựng lộ trình nghiên cứu khoa học, nâng cao năng lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, có thêm kiến thức thực tế để nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Từ đó, tạo nên uy tín khoa học, vị thế của nhà trường.

Chú trọng công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn theo yêu cầu xây dựng trường chính trị chuẩn sẽ phục vụ có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và đóng góp vào việc xây dựng hệ thống chính trị, hoạch định, xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Mỗi trường cần xác định rõ các tiêu chí thiếu trong nghiên cứu khoa học, tìm ra các giải pháp cụ thể để triển khai, đẩy mạnh thực hiện các tiêu chí thiếu này. Trường thiếu các tiêu chí nghiên cứu là đề tài cấp cơ sở, cần đẩy mạnh việc giao nhiệm vụ nghiên cứu cấp cơ sở cho các khoa, các giảng viên có năng lực; hay đối với những trường thiếu tiêu chí đề tài hoặc nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh cần có kế hoạch nắm bắt thông tin về nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh hằng năm để đáp ứng yêu cầu của tỉnh, từ đó đưa ra những chủ đề sát, trúng và có sức thuyết phục.

Các trường cần chủ động, tích cực, đa dạng hóa các hình thức triển khai Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch như: lồng ghép nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vào bài giảng, vào các chương trình bồi dưỡng; tổ chức nghiên cứu đề tài, hội thảo khoa học về công tác này; viết bài đăng bản tin Thông tin Lý luận và thực tiễn hoặc trang thông tin điện tử của trường, gửi website Việt Nam thịnh vượng; tham gia cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, mỗi giảng viên trường chính trị cần nhận thức đầy đủ hơn về nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, ý thức rõ việc nghiên cứu khoa học là trau dồi tri thức để nâng cao trình độ. Nâng cao chất lượng sáng kiến, kinh nghiệm, kiến nghị được đúc kết từ các kết quả nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn của cá nhân, tập thể nhà trường để tư vấn chính sách với địa phương. Mỗi giảng viên trường chính trị cần tiếp tục được bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu từ kỹ năng xây dựng thuyết minh đề tài, đấu thầu, mời chuyên gia nghiên cứu... Nỗ lực nghiên cứu lý luận kết hợp tổng kết thực tiễn của địa phương để làm rõ và giải quyết những vấn đề đang đặt ra.

__________________________________

(1) Theo: Dự thảo Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ Học viện về triển khai thực hiện Quy định số 11-QĐ/TW ngày 19-5-2021 của Ban Bí thư về trường chính trị chuẩn.

(2) Năm 2022, trong khuôn khổ Dự án “diễn đàn phát triển địa phương”, Học viện đang triển khai tổ chức Hội thảo khoa học cấp bộ cho 13 trường chính trị gồm các tỉnh: Lào Cai, Sơn La, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thừa Thiên Huế, An Giang, Đắc Lắc, Đồng Tháp.

Lợi dụng vấn đề ngôn ngữ để chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

 Gần đây tại các khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số, một số đối tượng xấu thường xuyên lợi dụng vấn đề ngôn ngữ các dân tộc thiểu số để tung tin giả, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kích động sắc tộc, chia rẽ vùng, miền, gây mất ổn định trật tự-an toàn xã hội... Vì vậy chúng ta cần hết sức cảnh giác, nhận diện rõ vấn đề này một cách kịp thời và đưa ra phương pháp đấu tranh, phòng chống hiệu quả.

Giờ thực hành môn Hóa học của học sinh Trường phổ thông Dân tộc nội trú huyện Krông Bông (Đắk Lắk).
Thời gian qua, bên cạnh việc bịa đặt, vu khống về tình hình tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam để chống phá Đảng, Nhà nước ta, một số cá nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí còn thường xuyên lợi dụng và đẩy mạnh việc chính trị hóa, quốc tế hóa các vấn đề dân tộc nhằm tạo cớ gây sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Trong đó chúng lợi dụng những bất cập trong vấn đề bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các tộc người ở một vài địa phương, kêu gọi việc cần phải tổ chức hội thảo quốc tế về người dân tộc thiểu số nhằm khơi gợi, kích động tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và ly khai tự trị ở một số tộc người. Nhiều nội dung xuyên tạc đã được chúng đăng tải trên một số tạp chí hải ngoại, mạng xã hội để kêu gọi dư luận quốc tế “lên tiếng” về vấn đề người dân tộc thiểu số tại Việt Nam.

Chẳng hạn, các đối tượng phản động đã đứng ra thành lập những hội nhóm trái pháp luật với khẩu hiệu “bảo tồn và phát triển lịch sử, tôn giáo và văn hóa người Khmer” nhưng thực chất hoạt động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ với người Kinh, bôi nhọ, hạ thấp uy tín những chức sắc, sư sãi yêu nước, tiến bộ, từ đó kích động ly khai, kêu gọi người dân tham gia đấu tranh thành lập cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm”...

Hay thông qua các chương trình về tiếng nói và chữ viết của người dân tộc thiểu số tại khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên, một số đối tượng chống đối đã thực hiện thủ đoạn “diễn biến hòa bình” bằng việc bóp méo, xuyên tạc tình hình bảo tồn văn hóa của người dân tộc; xuyên tạc những vấn đề lịch sử để chia rẽ người dân tộc với người Kinh. Thâm độc hơn, chúng còn thường xuyên dùng các thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo người có uy tín trong đồng bào dân tộc để qua đó tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng chính tiếng nói của họ.

Đặc biệt, một số đối tượng được hậu thuẫn bởi các tổ chức phản động ở nước ngoài đã sử dụng các đài phát thanh bằng tiếng dân tộc ở hải ngoại, in ấn phát hành các văn hóa phẩm bằng ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc nhằm truyền đạo và lan truyền thông tin chống đối Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng khai thác các hiện tượng riêng lẻ về vấn đề dân tộc như tiếng nói, chữ viết hay bảo tồn văn hóa của các tộc người thiểu số rồi thổi phồng lên thành mâu thuẫn dân tộc và kêu gọi cần phải có biện pháp “bảo vệ quyền con người”, “bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số”... để kích động, dẫn dắt một số người nhẹ dạ, cả tin hoặc thiếu hiểu biết.

Thực tế, từ khi thành lập nước đến nay, chính sách về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước luôn nhất quán trong công tác chỉ đạo và thực hiện. Tại Điều 15, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm 1946) nêu rõ: “Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp”.

Điều này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cũng như nhiều văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ. Tại khoản 3 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.

Năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng đưa ra chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số trong Quyết định số 53-CP ngày 22/2/1980, trong đó xác định: “Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hóa chung của cả nước. Ở các vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ thông”. Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 cũng quy định rõ các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học.

Trong Luật Giáo dục được ban hành sau đó vào các năm 1998 và 2019 đều khẳng định Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, qua đó phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc, góp phần tạo ra giá trị văn hóa đa màu sắc của dân tộc Việt Nam.

Hiệu quả của các chính sách trên đã phát huy trên thực tế. Nếu như trước đây, chỉ có một số dân tộc như Chăm, Khmer,... có sẵn tiếng nói và chữ viết riêng, còn lại hầu hết các dân tộc thiểu số khác chỉ có tiếng nói mà chưa có chữ viết riêng của mình thì đến nay việc La-tinh hóa cách phát âm ngôn ngữ của một số dân tộc chỉ có tiếng nói, không có chữ viết như H’Mông, Ê Đê, Jrai... và hệ thống hóa ký tự của người Tày, Dao, Thái... đã được triển khai. Qua đó, các tiếng nói của đồng bào dân tộc thiểu số được bảo tồn và truyền lại cho thế hệ mai sau.

Số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2020, tại Việt Nam, hơn 90% hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe các chương trình Đài Tiếng nói Việt Nam và trên 80% số hộ được xem truyền hình. Các chương trình phát thanh và kênh truyền hình từ trung ương đến địa phương được phát sóng với 26 thứ tiếng dân tộc đã đến được với bản làng xa xôi.

Chỉ tính riêng Đài Tiếng nói Việt Nam đã có 6 chương trình tiếng Việt chuyên sâu về đề tài dân tộc thiểu số; 13 chương trình phát thanh bằng tiếng dân tộc thiểu số phủ sóng tại các vùng tập trung đông đồng bào dân tộc ít người tại Tây Bắc, Đông Bắc, miền trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ; hơn 400 chương trình phát thanh (giai đoạn từ 2011-2021) để tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số về Chương trình 135, cải thiện sinh kế, nâng cao nhận thức của đồng bào về vấn đề quyền con người...

Hiện nay, cả nước đã có 30 tỉnh triển khai với 700 trường học tiếng dân tộc thiểu số; phát hành 8 chương trình tiếng dân tộc (Chăm, Khmer, Jrai, Bahnar, Ê Đê, H’Mông, M’Nông, Thái); và 6 bộ sách giáo khoa tiếng dân tộc (Chăm, Khmer, Jrai, Bahnar, H’Mông, Ê Đê); 23 tỉnh, thành phố thực hiện dạy học tiếng dân tộc trong trường phổ thông... Trong đó, nổi bật là việc dạy tiếng Khmer (có khoảng 1,3 triệu người Khmer, chiếm 7% dân số). Việc truyền bá thông tin bằng tiếng dân tộc, đưa tiếng dân tộc vào chương trình giáo dục vừa giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số duy trì nét văn hóa của mình, vừa bảo đảm sự bình đẳng trong việc hưởng thụ các giá trị văn hóa và giáo dục.

Bên cạnh đó, phong trào “cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc, cùng nói tiếng dân tộc” được triển khai rộng rãi. Điều 21 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ban hành năm 2009 đề ra yêu cầu: “Dạy tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo yêu cầu công việc”.

Thực tế cho thấy việc hiểu được ngôn ngữ, tiếng nói của người dân tộc thiểu số vừa giúp cho công tác phát hiện, nắm tình hình địa bàn, kịp thời đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội; vừa hỗ trợ công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động để đồng bào dân tộc thiểu số hiểu đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới.

Ngoài ra, để bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số được sử dụng tiếng nói của mình khi tham gia tố tụng, pháp luật Việt Nam quy định về việc cho phép người tham gia tố tụng dân sự, hình sự và hành chính có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Theo đó trong các trường hợp cần thiết, Tòa án sẽ mời người phiên dịch đến để hỗ trợ. Quy định này vừa mang ý nghĩa chính trị-xã hội, thể hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc, vừa bảo đảm công tác xét xử được chính xác, minh bạch.

Thời gian tới, để tiếp tục phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với việc lợi dụng vấn đề dân tộc thực hiện âm mưu chống phá của các tổ chức, đối tượng phản động, thù địch, mỗi người dân chúng ta cần không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

Bên cạnh việc chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, các cấp ủy đảng và chính quyền cần tập trung xây dựng và bảo đảm đội ngũ cán bộ công tác tại các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số am hiểu ngôn ngữ, tiếng nói và văn hóa của đồng bào, từ đó góp phần tạo sự đồng thuận, niềm tin của người dân.

Chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền đường đối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc, không để đồng bào bị các đối tượng xấu lôi kéo, lợi dụng và kích động. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện chính sách dân tộc, từng bước nâng cao đời sống kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển vùng, miền; đồng thời thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo tồn, phát triển văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.

“Quản trị quốc gia” ở Việt Nam: Một số vấn đề từ hướng tiếp cận xã hội học

 Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đề ra chủ trương: Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Đây là lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “quản trị quốc gia” trong Văn kiện Đại hội của Đảng. Trên tinh thần đó, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021- 2030 cũng xác định: Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại. 

(Ảnh minh hoạ)

GÓC ĐỘ TIẾP CẬN TRI THỨC XÃ HỘI HỌC

Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả là một trong những mục tiêu trọng tâm mà Đại hội XIII của Đảng ta xác định. Để thực hiện thành công việc đổi mới quản trị quốc gia rất cần có đổi mới về nhận thức, tư duy lẫn hành động của toàn bộ hệ thống chính trị và hệ thống xã hội. 

Hiện nay, Việt Nam đã bước đầu tạo ra những tiền đề có tính chất tất yếu, khách quan và phổ biến để tiến hành các nghiên cứu khoa học, trong đó có nghiên cứu xã hội học liên quan đến hoạt động “quản trị quốc gia”. Trong khuôn khổ phân tích có thể xác lập một số vấn đề liên quan đến tri thức xã hội học. Cụ thể là:

Một là, dựa trên các đặc trưng của khoa học xã hội học để xác lập những yêu cầu liên quan đến nghiên cứu về chủ đề hoạt động “quản trị quốc gia”: (1) Tính khách quan, lôgíc đặt trong bối cảnh xã hội; (2) Tính thực chứng, có độ tin cậy cao khi đưa ra các kết luận nghiên cứu; (3) Tính duy vật biện chứng trong nhận định, đánh giá; (4) Tính lý giải thấu hiểu dựa trên các bối cảnh văn hóa để giải thích, tìm kiếm sự hiểu biết về bản chất của các hiện tượng xã hội; (5) Các phương pháp nghiên cứu hiện đại, liên ngành: quan sát tham dự; quan sát không tham dự; phiếu anket; phiếu phát vấn; thảo luận nhóm tập trung; phỏng vấn sâu; phân tích nội dung tài liệu; phân tích số liệu thống kê; nghiên cứu trường hợp...; (6) Khoa học đề cao tính chỉnh thể, hệ thống, toàn diện, thực chứng về hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội…

Hai là, nói đến tiếp cận xã hội học về “quản trị quốc gia”, trước hết cần nhấn mạnh sức mạnh tư duy “đa biến, đa chiều” của khoa học xã hội học. Tư duy xã hội học sẽ đi sâu tìm hiểu tất cả các góc cạnh thời cơ và thách thức của “quản trị quốc gia” ở Việt Nam trong bối cảnh mới. Từ góc độ tiếp cận tư duy xã hội học có thể nhận thấy, bên cạnh mặt tích cực, tư duy xã hội học sẽ luôn nhấn mạnh, quan tâm đến những hệ quả xã hội, những dự báo xu hướng và đề xuất giải pháp kiểm soát, hạn chế những tác động tiêu cực của “quản trị quốc gia” trong điều kiện và mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do đó, từ góc nhìn xã hội học, chúng ta phải có nhận thức đầy đủ, kịp thời để có hành động, giải pháp phù hợp nhằm chủ động giảm thiểu những hệ quả xã hội không mong muốn có thể xảy ra trong quá trình thực hiện mô hình “quản trị quốc gia” ở Việt Nam. 

Ba là, xã hội học là khoa học rất quan tâm đến việc phát triển lý thuyết và vận dụng lý thuyết để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội. Xã hội học hình thành và phát triển một hệ thống các lý thuyết để giải thích một cách khoa học và bản chất những hiện tượng xã hội, trong đó, có các lý thuyết giải thích mối quan hệ giữa tính chủ động và tích cực của con người với tính quy định chặt chẽ của cấu trúc xã hội. Song, con người có vai trò tích cực chủ động nhất định, họ tạo ra xã hội, và xã hội là do con người thiết kế nên, nhưng đồng thời họ cũng chịu sự ràng buộc bởi môi trường, cấu trúc xã hội. Do đó, để quá trình “quản trị quốc gia” đạt được những kết quả tích cực như mục tiêu đề ra luôn phải đồng thời nhấn mạnh tiếp cận và quan tâm xử lý các vấn đề liên quan đến hoạt động “quản trị quốc gia” ở cả hai chiều cạnh: yếu tố sáng tạo, năng lực và vai trò của cá nhân con người… cùng đồng thời với sự chi phối, ảnh hưởng bởi môi trường, cấu trúc xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật…

Bốn là, khoa học xã hội học vận dụng cách tiếp cận thiết chế xã hội để giải thích và quản lý các hiện tượng xã hội nảy sinh trong quá trình hiện đại hóa và phát triển của xã hội. Thiết chế xã hội là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực xã hội có chức năng khuyến khích và kiểm soát, giám sát, điều tiết và điều chỉnh các hành vi, quan hệ xã hội đối với các chủ thể tham gia nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay, hoạt động “quản trị quốc gia” đã, đang và sẽ bị chi phối đồng thời bởi hệ thống thiết chế xã hội: thiết chế pháp luật; thiết chế chính trị; thiết chế kinh tế; thiết chế khoa học; thiết chế giáo dục; thiết chế đạo đức; thiết chế văn hóa; thiết chế tôn giáo; thiết chế truyền thông đại chúng;... Do vậy, những kết quả hay bất cập, thuận lợi hay khó khăn, lực hút hay lực đẩy; đề xuất giải pháp liên quan đến “quản trị quốc gia” luôn cần được phân tích một cách tổng thể từ chính các thiết chế xã hội có liên quan. Chẳng hạn, phải truy tìm nguyên nhân sâu xa nhất làm cho tiến trình “quản trị quốc gia” còn gặp nhiều khó khăn, kém hiệu quả xuất phát từ những thiết chế xã hội nào; và từ đó đưa ra các giải pháp từ chính thiết chế xã hội đó.

Năm là, xã hội học có thế mạnh là sử dụng kết hợp đồng thời cả hai phương pháp nghiên cứu: định lượng và định tính dựa trên bằng chứng và độ tin cậy cao. Khoa học xã hội học nhấn mạnh tính khách quan, trung tính trong việc đưa ra các nhận định luận điểm, luận cứ. Do đó, một trong những vấn đề có tính cốt lõi của nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” là phải đo lường, lượng hóa được chất lượng, hiệu lực và hiệu quả mang tính toàn diện và hệ thống những vấn đề liên quan đến “quản trị quốc gia”. Xã hội học nghiên cứu về “quản trị quốc gia” phải hướng đến khả năng nắm bắt kịp thời, chính xác cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc tham vấn, đề xuất chính sách nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra của từng nhóm xã hội, từng chủ thể quản trị, từng lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình tham gia vào các hoạt động “quản trị quốc gia”.

Sáu là, xã hội học có nguồn gốc hình thành và phát triển từ góc độ tiếp cận đa - liên- xuyên - ngành. Tiếp cận “quản trị quốc gia” trên nền tảng khoa học đa- liên- xuyên ngành trong các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng “quản trị quốc gia” chính làtiếp cận theo các lĩnh vực: khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Tiếp cận đa - liên - xuyên ngành khoa học trong “quản trị quốc gia” đòi hỏi phải đẩy mạnh việc thiết lập tư duy mới, cách làm mới và mục tiêu thích hợp trong bối cảnh mới. Trong “quản trị quốc gia” cần phải thực sự phát triển khoa học-công nghệ đi trước, thực sự coi khoa học-công nghệ là  “quốc sách hàng đầu” trong dẫn dắt và thúc đẩy “quản trị quốc gia”. Do đó, chỉ có thể mở rộng tối đa biên độ kết nối sự hiểu biết của các khoa học: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật- công nghệ, khoa học xã hội - nhân văn, khoa học lý luận chính trị để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạch định và thực hiện chính sách “quản trị quốc gia”.

Bảy là, khoa học xã hội học luôn nhấn mạnh chức năng dự báo xã hội. Do đó, nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” cần đặt trong mối quan hệ bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo chính xác về tất cả các mặt trong đời sống xã hội; từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến việc tổ chức, quản lý và điều hành xã hội…đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Do đó, trong nghiên cứu và đề ra chính sách “quản trị quốc gia” luôn phải tính đến vai trò tác động và mục tiêu của những thay đổi về cách tổ chức, điều hành xã hội, cách suy nghĩ, ứng xử, lối tư duy của con người...

Tám là, cách tiến cận xã hội học nhấn mạnh mục tiêu “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển”. Do đó, nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” có sức mạnh trong nhận diện, phân tíc, đánh giá làm rõ vấn đề và hướng đến mục tiêu: “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển” của các chủ thể, lĩnh vực có liên quan. 

Chín là, từ hướng tiếp cận xã hội học cho thấy, để tạo ra nền tảng thống nhất cho hoạt động “quản trị quốc gia” cần phải xây dựng và hiện thực hóa thành công Bộ chỉ số “quản trị quốc gia” định lượng, dựa trên bằng chứng. 

Bộ chỉ số “quản trị quốc gia”, phải thể hiện được các yếu tố cơ bản cấu thành:  (1) Vai trò và hiệu quả hoạt động của Chính phủ; (2) Mức độ tăng năng suất của quốc gia trong cách mạng 4.0 là động lực quan trọng cải thiện mức sống trong dài hạn như thể chế, cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ ICT hiện đại…(3) Quyền lực mềm của quốc gia khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế như hệ số tín nhiệm quốc gia, thương hiệu quốc gia…(4) Môi trường kinh doanh với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo như năng lực đổi mới sáng tạo, năng động trong kinh doanh; (5) Chất lượng cuộc sống của nhân dân như: thu nhập, y tế, giáo dục,…là kết quả và là mục tiêu cần đạt được của hoạt động “quản trị quốc gia”, trực tiếp thể hiện hiệu quả làm việc của Chính phủ với tư cách là chủ thể chính trong nền “quản trị quốc gia”(1). (Nguyễn Văn Thành, Đặng Thành Lê, 2022). 

“Quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả được hiểu là: Sự kết hợp hợp lý giữa các yếu tố của quản lý công truyền thống (mệnh lệnh- phục tùng), với quản lý công mới (phân cấp, phân quyền, cạnh tranh, tập trung kết quả đầu ra) và những trụ cột của “quản trị quốc gia” tốt (Nhà nước pháp quyền, mở rộng sự tham gia của các chủ thể bên ngoài nhà nước với ý nghĩa đối tác, đồng thuận trong xây dựng phát triển quốc gia) phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện thực tế của quốc gia. 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, hiệu quả là chủ trương lớn của Đảng, đặt ra những yêu cầu khách quan về đổi mới thể chế quản trị, tư duy, nhận thức, vị trí, vai trò của các chủ thể..., đồng thời, cần tham khảo, tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm tốt của thế giới trên cơ sở phù hợp với truyền thống, lịch sử, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa và đặc điểm kinh tế - xã hội của nước ta(2)(Nguyễn Văn Thôi, 2021).Sự xuất hiện của “quản trị quốc gia” là một xu thế tất yếu, đáp ứng nhu cầu phát triển khách quan của xã hội và thời đại. Đây là một phương thức mới về quản lý, điều hành xã hội. Song, sự tất yếu, khách quan này cần được nhận thức và hành động dựa trên nền tảng khoa học, trong đó có tri thức xã hội học.

Cho đến nay, tùy thuộc vào trình độ phát triển cũng như đặc thù bối cảnh, mỗi quốc gia có thể theo đuổi những triết lý và mô hình khác nhau trong việc xây dựng nền “quản trị quốc gia”, nhưng những triết lý và mô hình đó đều thống nhất việc xem xét người dân là trung tâm của nền quản trị quốc gia. Mục đích cuối cùng của “quản trị quốc gia” là đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển bền vững của quốc gia nhằm tạo lập, duy trì và củng cố những giá trị cần thiết cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, việc xác lập các nguyên tắc, mục tiêu: “nhà nước của dân, do dân và vì dân; dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng; sự hài lòng, hạnh phúc của nhân dân”, cũng như kết quả bước đầu của các tiến trình này chính là những bằng chứng sinh động chứng minh những điều kiện, tiền đề thuận lợi để Việt Nam xây dựng nền “quản trị quốc gia” phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay.

Xây dựng và hoàn thiện nền “quản trị quốc gia” hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần phải lượng hóa chính xác, kịp thời sự tác động, vai trò của các nhân tố chủ quan và khách quan. 

Về chủ quan, đó là hiện trạng năng lực, tính chuyên nghiệp, đồng bộ của bộ máy công quyền và sự ổn định của quá trình hoàn thiện bộ máy; chất lượng và hiệu quả của hệ thống luật pháp; ý thức “pháp quyền” của người dân; môi trường dân chủ, minh bạch trong xã hội; trình độ dân trí, kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ... 

Về khách quan, đó là đặc điểm văn hóa, tính ổn định chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc; tác động của các nhân tố bên ngoài...Thực tiễn lịch sử cho thấy, các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa thì việc xây dựng và hoàn thiện nền “quản trị quốc gia” hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả sẽ nhanh hơn. Tuy nhiên, do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình toàn cầu hóa, những nước đi sau vẫn có thể rút ngắn khoảng cách, thậm chí đi tắt, đón đầu quá trình này(3)(Nguyễn Đặng Phương Truyền, 2021). 

Trên cơ sở trình độ phát triển và đặc điểm của mục tiêu phát triển đất nước, Việt Nam cần tiến hành những biện pháp tổng thể, như đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới thể chế kinh tế, phát huy dân chủ, nâng cao năng lực quốc gia,... và cần thêm một khoảng thời gian nhất định mới có thể tiến gần các tiêu chí của quản trị quốc gia tốt. Hơn nữa, ngay tại nhiều quốc gia phát triển, việc tiếp cận với các tiêu chí của quản trị tốt vẫn còn là một vấn đề khó khăn. Trong bối cảnh Việt Nam mới chỉ bắt đầu tiến trình “quản trị quốc gia”  vì vậy việc nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế luôn phải gắn liền với quá trình kiểm soát kỳ vọng, tránh khuynh hướng nóng vội, chủ quan, áp dụng máy móc của các chủ thể “quản trị quốc gia”. Do đó, vấn đề đặt ra là cần tiếp cận một cách có hệ thống, dựa trên nền tảng sức mạnh khoa học, trong đó có tri thức xã hội học. Trên cơ đó, làm rõ bản chất và xu hướng khách quan của “quản trị quốc gia”, cũng như xác định những mục tiêu, nhiệm vụ khả thi trong đổi mới “quản trị quốc gia” phù hợp với lịch sử, truyền thống dân tộc, các đặc điểm của thể chế kinh tế, chính trị và xã hội ở nước ta hiện nay.

Bế mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV - Ảnh TTXVN

Bế mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV

Việc chuyển đổi nhận thức, tư duy và hành động từ “đối tượng quản lý sang đối tác quản trị” là một vấn đề mới, không dễ thực hiện bởi “tư duy quản lý cũ, tình trạng quan liêu, cửa quyền, lợi ích nhóm” đang tồn tại không ít ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có một nhận thức mới, tư duy mới và hành động phù hợp về vị trí, vai trò chủ thể, mối quan hệ đối tác giữa Nhà nước, người dân, doanh nghiệp và tổ chức xã hội trong nền “quản trị quốc gia”. Sự tham gia, phối hợp của “đa chủ thể”, bao gồm: nhà nước, người dân, tổ chức xã hội, doanh nghiệp trong nền “quản trị quốc gia” là cơ sở để củng cố, nâng cao niềm tin, sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy và bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của quốc gia. Từ chức năng, hoạt động, cũng như những đóng góp của doanh nghiệp, người dân và tổ chức xã hội, cần có sự nhận thức mới, tư duy mới, cách làm mới nhằm thúc đẩy vai trò, sức mạnh của các chủ thể này đối với xã hội và trong nền “quản trị quốc gia” của Việt Nam.

Cần tăng cường thực hiện các giải pháp dựa trên bằng chứng, đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, khả thi trong hoạt động “quản trị quốc gia”. Bao gồm: Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, trong đó ưu tiên xây dựng đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động và quản lý sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số. Thứ ba, đổi mới trong quản trị phát triển nguồn nhân lực, thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, trong đó ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ. Thứ tư,đẩy mạnh thực hiện chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho người dân trong giao dịch với cơ quan nhà nước và tiếp cận dịch vụ công. Thứ năm, xử lý hài hòa quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội trong “quản trị quốc gia”. Thứ sáu, cần có những đột phá về quản lý phát triển công nghệ và phát triển thị trường khoa học và công nghệ; đưa khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng(4)

Thực hiện “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, hiệu quả là một nhiệm vụ cấp thiết ở Việt Nam hiện nay. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong quá trình này. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, có trọng trách đưa ra định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước, đồng thời cũng là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định đường lối, chính sách trong “quản trị quốc gia”. Đây là hai chức năng, nhiệm vụ song trùng, được thực hiện bởi cùng một chủ thể. Với vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định trong “quản trị quốc gia”, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của quá trình đổi mới “quản trị quốc gia” ở nước ta. Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn dựa trên bằng chứng về vị trí, vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối và thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong mô hình “quản trị quốc gia” của Việt Nam.

Tóm lại, đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả là một trong những trọng tâm đột phá mà Đại hội XIII của Đảng ta đã xác định. Hoạt động “quản trị quốc gia” đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết kịp thời, hiệu quả. Để thực hiện thành công việc đổi mới “quản trị quốc gia” rất cần những đổi mới cả về tư duy lẫn hành động của cả hệ thống chính trị và hệ thống xã hội.  Có nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết, trong đó có vấn đề phát huy vai trò của tri thức xã hội học trong nghiên cứu và hoạch định, thực hiện chính sách “quản trị quốc gia”.

“Quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh, hiệu quả cần xem xét trên hai phương diện: quản trị nội bộ quốc gia với các yếu tố như (vai trò tối thượng của pháp luật, hệ thống thể chế có hiệu lực; coi trọng sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý công; tôn trọng quyền con người; thu hẹp khoảng cách công - tư; đề cao sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến lợi ích, cuộc sống của họ)...

Bốn mươi lăm năm quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN và định hướng phát triển trong thời gian tới

 Quan hệ đối thoại Mỹ - ASEAN chính thức được thiết lập vào năm 1977. Bốn mươi lăm năm qua, mối quan hệ giữa hai bên diễn ra với nhiều dấu mốc quan trọng: Thiết lập quan hệ đối tác tăng cường (năm 2005); Mỹ thành lập phái đoàn đại diện thường trực tại ASEAN (năm 2010); xây dựng quan hệ đối tác chiến lược (năm 2015) và dự kiến sẽ nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện từ tháng 11-2022.

Nền móng hợp tác

Sự quan tâm ngày càng gia tăng của Mỹ trong mối quan hệ với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được cho là bắt nguồn từ ba vấn đề: Một là, vị trí chiến lược ngày càng quan trọng của khu vực Đông Nam Á. Nằm ở phía nam của Trung Quốc và phía đông của Ấn Độ, khu vực Đông Nam Á là cầu nối quan trọng, giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; trở thành “vùng đệm” giữa hai cường quốc “khổng lồ” của khu vực. Việc các quốc gia thuộc khu vực này nghiêng hoặc không nghiêng về phía Mỹ sẽ quyết định đến chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc và Ấn Độ. Mặc dù hiện nay có một số ý kiến hoài nghi về khả năng duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ khi nền kinh tế của quốc gia này có dấu hiệu suy giảm, song vai trò của Mỹ trong việc xử lý các cuộc khủng hoảng trên thế giới thời gian qua cho thấy, trên thực tế Mỹ vẫn là cường quốc số 1 thế giới cả về kinh tế lẫn quân sự. Hai là, sự ra đời của Cộng đồng ASEAN (AC) vào ngày 31-12-2015 với ba trụ cột, bao gồm Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC), có triển vọng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề an ninh cũng như kinh tế toàn cầu; đồng thời, khiến khu vực này ngày càng trở nên “hấp dẫn” đối với Mỹ, và lẽ tất nhiên, với cả các đối thủ cạnh tranh của Mỹ. Ba là, chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chiến lược này thể hiện ý chí và sức mạnh của Mỹ muốn kiềm chế, ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực. Đặc biệt, trước các hoạt động của Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông khiến các quốc gia ASEAN là đồng minh cũng như các đối tác quan trọng của Mỹ quan ngại, Mỹ cho rằng, Mỹ và ASEAN cần cùng phát đi một thông điệp rõ ràng về tầm quan trọng toàn cầu của vấn đề tự do hàng hải ở Biển Đông.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch ASEAN 2020 chủ trì Hội nghị Cấp cao ASEAN - Mỹ lần thứ 8 theo hình thức trực tuyến, tháng 11-2020

Việc Mỹ nâng cấp mối quan hệ Mỹ - ASEAN lên khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện trong thời gian tới nhằm ba mục tiêu: 1- Mỹ muốn gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và ASEAN cả về kinh tế lẫn an ninh khu vực, vì những lợi ích chung của Mỹ và các nước ASEAN trong việc bảo đảm duy trì hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực có vị trí địa - chính trị chiến lược này; 2- Mỹ muốn thể hiện rõ rằng, mặc dù Mỹ không phải là một trong những nước có tranh chấp với Trung Quốc tại Biển Đông, song không thể giải quyết vấn đề này cũng như các vấn đề an ninh khác của khu vực mà không tính đến các phản ứng từ phía Mỹ; 3- Mỹ muốn tạo dựng và đưa ASEAN trở thành một trung tâm kinh tế ngày càng gắn kết với Mỹ, qua đó giành lại ưu thế đã thuộc về Trung Quốc trong nhiều năm qua.

Về phía ASEAN, Hiệp hội cũng có những lợi ích cơ bản trong việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ: 1- Hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ giúp duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như hỗ trợ các nước ASEAN nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường biển, tránh để khu vực này bùng phát xung đột hay “quân sự hóa”; 2- Giữa bối cảnh cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc ở khu vực diễn ra ngày càng gay gắt, ASEAN cần có mối quan hệ chặt chẽ, đồng thời với cả Mỹ và Trung Quốc(1), để duy trì được vị trí trung tâm và vai trò tiên phong trong cơ cấu an ninh khu vực; 3- Thắt chặt hơn quan hệ với Mỹ giúp ASEAN có thêm cơ hội thể hiện vai trò của mình trong giải quyết các thách thức khu vực và toàn cầu, từ đối phó với biến đổi khí hậu cho tới an ninh năng lượng, an ninh biển…

Tuy nhiên, hiện vẫn còn không ít quan ngại đối với triển vọng hợp tác của mối quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN. Thứ nhất, các nhà lãnh đạo của Mỹ sẽ tiếp tục tập trung vào những vấn đề trong nước cũng như tình hình ở khu vực châu Âu, Trung Đông hoặc những diễn biến mới sẽ buộc Mỹ phải quan tâm hơn tới Đông Bắc Á, không thực sự mặn mà và quan tâm sâu đến khu vực Đông Nam Á/ASEAN. Thứ hai, chính sách không nhất quán của Mỹ hoặc cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc trở nên ngày càng gay gắt, có thể khiến đoàn kết nội bộ ASEAN bị lung lay trong bối cảnh các nước thành viên không muốn bị kẹt giữa Mỹ và Trung Quốc. Thứ ba, sự đa dạng của các hệ thống chính trị và thái độ khác nhau đối với các “giá trị”, “dân chủ” của Mỹ trong các nước ASEAN cũng là một trở ngại. Thứ tư, cùng với sự ra đời của Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trong khi Mỹ đang thúc đẩy Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF, bao gồm một số quốc gia Đông Nam Á) làm phân tán tiềm lực của các nước ASEAN, trước sự cạnh tranh của các khối thương mại này.

Song, cũng có những cơ sở lạc quan về mối quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN. Một là, hai bên thực sự cần nhau trong vai trò duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy thịnh vượng ở khu vực Đông Nam Á. Hai là, trong “trò chơi quyền lực” giữa các nước lớn, những nghi ngại về sự trỗi dậy khó đoán định của Trung Quốc khiến một số nước ASEAN có xu hướng xích lại gần Mỹ để cân bằng mối quan hệ với Trung Quốc. Ba là, cả Mỹ và ASEAN đều mong muốn chia sẻ cách tiếp cận đa phương, thúc đẩy các cơ chế đa phương trong giải quyết các vấn đề toàn cầu cũng như khu vực. Bốn là, cả Mỹ và ASEAN đều coi trọng vai trò của nhau trong việc xây dựng các luật lệ hoặc quy tắc ứng xử theo hướng có lợi cho cả ASEAN và Mỹ thông qua các diễn đàn đa phương của ASEAN.

Định hướng phát triển

Việc Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN lần đầu tiên được tổ chức tại Thủ đô Washington (Mỹ) vào tháng 5-2022 nhân dịp hai bên kỷ niệm 45 năm quan hệ đối tác chiến lược, cũng là lần đầu tiên diễn ra các cuộc trao đổi, gặp gỡ giữa lãnh đạo các nước ASEAN với các quan chức chính quyền và Quốc hội Mỹ, đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Mỹ, cho thấy thông điệp từ Mỹ muốn thể hiện một sự bình đẳng trong những ưu tiên của mình, cam kết mạnh mẽ và ủng hộ việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN.

Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng lãnh đạo các nước thành viên ASEAN tham dự Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN lần đầu tiên được tổ chức tại Thủ đô Washington (Mỹ), tháng 5-2022

Để hướng tới nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện, mở ra một giai đoạn mới trong hợp tác giữa Mỹ và ASEAN, tại Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN năm 2022, hai bên đã thông qua Tuyên bố tầm nhìn Mỹ - ASEAN, trong đó nêu bật các định hướng lớn: 1- Cam kết thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Mỹ - ASEAN có ý nghĩa thực chất, hiệu quả và cùng có lợi, mở ra một kỷ nguyên mới trong hợp tác Mỹ - ASEAN; 2- Ưu tiên ổn định chuỗi cung ứng, hợp tác biển, an ninh y tế, giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, phát triển tiểu vùng, khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số, ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng, phát triển xanh và bền vững…; 3- Khẳng định coi trọng vị trí, vai trò của ASEAN và Mỹ. Theo đó, về phía Mỹ, Tổng thống Mỹ J. Biden khẳng định lại cam kết ủng hộ, tôn trọng vai trò trung tâm của ASEAN, mong muốn cùng ASEAN nâng quan hệ đối tác lên bước phát triển mới, chung tay giải quyết hiệu quả các thách thức nảy sinh tại khu vực. Mỹ cũng nhiều lần nhấn mạnh sẽ “ở lại” Đông Nam Á, đồng thời có những động thái chứng minh cam kết đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đơn cử như, Tổng thống Mỹ J. Biden đã đề cử ông Yohannes Abraham - một trong những cố vấn chính trị và an ninh quốc gia hàng đầu của tổng thống, làm Đại sứ tại ASEAN - một vị trí còn khuyết kể từ khi chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump lên nắm quyền vào năm 2017. Với việc đề cử này, Tổng thống Mỹ J. Biden một lần nữa muốn gửi thông điệp về sự coi trọng trong điều chỉnh lại mối quan hệ của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung, ASEAN nói riêng. Về phía ASEAN, các nhà lãnh đạo ASEAN nhấn mạnh tiếp tục coi Mỹ là đối tác quan trọng hàng đầu, mong muốn Mỹ tiếp tục can dự tích cực, đóng góp hiệu quả vào hợp tác khu vực, góp phần duy trì hòa bình, an ninh và thịnh vượng chung trong khu vực, cũng như đối với việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, bao gồm tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Với những cam kết trên, giới truyền thông đặc biệt chú ý đến tuyên bố của Mỹ về các sáng kiến trị giá 150 triệu USD mà Tổng thống Mỹ J. Biden cam kết hỗ trợ cho các nước ASEAN, giúp các nước ASEAN phát triển kết cấu hạ tầng, an ninh, nâng cao khả năng ứng phó với đại dịch COVID-19 và những vấn đề khác liên quan, qua đó, góp phần củng cố vai trò trung tâm của ASEAN tại khu vực, tăng cường khả năng chung của hai bên nhằm đạt được các mục tiêu chung.

Theo Tổng thống Mỹ J. Biden, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - ASEAN năm 2022 đánh dấu sự khởi động của một kỷ nguyên mới trong mối quan hệ giữa Mỹ và các nước ASEAN. Trong khi đó, giới chuyên gia cho rằng, với việc thông qua Tuyên bố tầm nhìn chung Mỹ - ASEAN bao gồm 28 nội dung, thể hiện một bước tiến mới mang tính biểu tượng của hai bên, góp phần khẳng định cam kết nâng tầm quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, dự kiến diễn ra vào tháng 11-2022.

Mở rộng sự gắn kết

Tuy nhiên, để hợp tác Mỹ - ASEAN thực sự có hiệu quả, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển ở mỗi bên, tại khu vực và trên thế giới, hợp tác Mỹ - ASEAN cần được xây dựng trên một nền tảng rộng hơn. Cụ thể:

Thứ nhất, việc bảo đảm hòa bình, duy trì ổn định phải được coi là mối quan tâm hàng đầu. Mỹ và ASEAN cần thống nhất giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở tôn trọng đầy đủ những quy trình pháp lý và ngoại giao, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, dựa trên những nguyên tắc được thừa nhận của luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Theo đó, các bên cần cam kết duy trì hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực, bảo đảm an ninh và an toàn hàng hải, tự do hàng hải, tự do bay và những hình thức sử dụng vùng biển một cách hợp pháp khác và thương mại hàng hải hợp pháp không bị cản trở, cũng như phi quân sự hóa hay kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động.

Đơn cử như, trong vấn đề Biển Đông, ngoài việc ủng hộ các nỗ lực của ASEAN trong đẩy nhanh đàm phán để đạt được Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS năm 1982, Mỹ cần rõ ràng hơn trong chính sách và thống nhất về quan điểm cũng như hành động, qua đó giúp ASEAN có được quan điểm chung trước mọi tranh chấp trong khu vực trên cơ sở luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc và Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC).

Việc Mỹ thúc đẩy chia sẻ thông tin tình báo trong khu vực ASEAN nhằm nâng cao hơn nữa khả năng giám sát biển và hợp tác an ninh hàng hải trong khu vực cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Mỹ đã ủng hộ các nỗ lực của ASEAN nhằm duy trì khu vực Đông Nam Á là một khu vực phi vũ khí hạt nhân được khẳng định trong Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) và Hiến chương ASEAN, nhằm tăng cường cơ chế không phổ biến vũ khí hạt nhân và giải trừ vũ khí hạt nhân, theo quy định tại Điều 6 của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình như quy định tại Điều 4 của NPT. 

Mặc dù Mỹ luôn khẳng định sự cần thiết đối với chủ nghĩa đa phương của ASEAN, song trên thực tế, chính quyền Mỹ vẫn cho thấy xu hướng nghiêng nhiều về các quan hệ song phương hoặc đa phương quy mô nhỏ, như quan hệ đối tác có chọn lọc của Nhóm QUAD (Mỹ, Australia, Nhật Bản và Ấn Độ) hay Cơ chế hợp tác an ninh ba bên giữa Mỹ, Australia và Anh (AUKUS). Do vậy, để hỗ trợ ASEAN duy trì chủ nghĩa đa phương và giữ được vai trò trung tâm của mình, việc Mỹ ủng hộ ASEAN đẩy mạnh các cơ chế đa phương, nhất là cơ chế ASEAN+1, không phải 1+ASEAN trong chủ nghĩa đa phương ở khu vực, cũng cần được quan tâm đặc biệt.

Thứ hai, ưu tiên khôi phục dòng chảy thương mại, đầu tư. Là đối tác thương mại lớn thứ hai và là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất của ASEAN, Mỹ cần tích cực hỗ trợ AEC cũng như mở rộng hơn nữa thị trường của Mỹ cho các nước ASEAN. Đồng thời, đẩy mạnh mở rộng kết nối với thị trường ASEAN đầy tiềm năng; hỗ trợ ASEAN phát triển xanh và bền vững, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi số, phát triển năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường, đẩy nhanh phục hồi toàn diện và bền vững.

Hai bên đã cam kết tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn, công bằng hơn, bao trùm hơn và phát triển bền vững thông qua triển khai Thỏa thuận khung Mỹ - ASEAN về thương mại và đầu tư, Chương trình làm việc về các sáng kiến hợp tác kinh tế mở rộng… Hiện Mỹ đang khuyến khích các thành viên ASEAN tham gia IPEF. Mỹ cũng đang tìm kiếm những sáng kiến hợp tác kinh tế khu vực đáp ứng được sự đa dạng của các nền kinh tế ASEAN, như cam kết kinh tế mở rộng Mỹ - ASEAN, kết nối ASEAN thông qua thương mại và đầu tư… Tuy nhiên, kết nối hạ tầng, công nghệ sáng tạo, quản lý cấp khu vực… cũng là những vấn đề quan trọng cần được hai bên lưu tâm.

Ba là, có cách tiếp cận bao trùm trong giải quyết các vấn đề toàn cầu. ASEAN mong muốn Mỹ tiếp tục hợp tác, hỗ trợ các nước ASEAN trong bảo đảm an ninh y tế, nâng cao năng lực y tế, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine, ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế xanh và bền vững...

Phó Tổng thống Mỹ Kamala Haris và Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh tại Lễ khai trương Văn phòng Đông Nam Á của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Mỹ  tại Hà Nội

Các diễn biến địa - chính trị toàn cầu ngày càng phức tạp, khó lường, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực trên thế giới, đã làm nội bộ Mỹ khó dành sự quan tâm cao tới khu vực Đông Nam Á. Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN năm 2022 được coi là một nỗ lực của chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden cho thấy, bất chấp các thách thức toàn cầu, Mỹ vẫn tập trung và giữ cam kết với Đông Nam Á trong chiến lược toàn cầu của mình. 

Nhiều năm qua, Mỹ vẫn tham gia và đóng góp tích cực trong các cơ chế, khuôn khổ do ASEAN chủ trì, cam kết ủng hộ sự đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN. Hai bên cũng đẩy mạnh hợp tác ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, như hợp tác an ninh biển, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh mạng…

IPEF mà chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden đưa ra với mục tiêu sẵn sàng thay thế Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, nay là CPTPP), nhằm tạo thuận lợi thương mại, tập trung vào các tiêu chuẩn cho nền kinh tế kỹ thuật số và công nghệ, khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng, không phát thải carbon và năng lượng sạch, kết cấu hạ tầng... ở cấp độ toàn cầu. Tuy nhiên, các chi tiết đầy đủ về IPEF và những lợi ích mà IPEF đem lại cho các bên vẫn đang chờ được cụ thể hóa. IEPF không bao hàm mọi quốc gia ASEAN, do vậy, sẽ là nhân tố không mang tính hỗ trợ tích cực cho quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN. Đồng thời, việc Mỹ vắng mặt trong các cơ chế hợp tác đa phương quan trọng của khu vực, như CPTPP, RCEP, cũng là một rào cản để hai bên siết chặt hơn hợp tác về kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác.

Trên thực tế, Mỹ và ASEAN không tránh được việc chưa có sự đồng thuận liên quan đến một số vấn đề khu vực và quốc tế, nhưng chính thực tế đó càng đòi hỏi Mỹ và ASEAN cần có sự bổ sung, tăng cường lòng tin chiến lược. Tại Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Mỹ - ASEAN năm 2022, Tổng thống Mỹ J. Biden nhấn mạnh: “Mỹ ủng hộ mạnh mẽ Tầm nhìn về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của ASEAN và trật tự khu vực dựa trên luật lệ. Chúng ta sẽ tiếp tục hợp tác sâu sắc hơn, quan trọng hơn là chúng ta cùng nhau nỗ lực để đáp ứng những thách thức đang định hình thế kỷ XXI”.

Như vậy, quan hệ Mỹ - ASEAN đã chuyển sang giai đoạn mới, thực chất hơn, hiệu quả hơn, tăng cường tính đối tác chiến lược, vì lợi ích đôi bên, vì hòa bình, ổn định trên thế giới. Điều này đang tạo ra những chuyển biến có lợi cho cả Mỹ và ASEAN. Mỹ có thêm yếu tố thuận lợi và tác nhân quan trọng để triển khai chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. ASEAN có thêm vị thế thuận lợi hơn trong cân bằng các mối quan hệ đối ngoại, hướng tới một Cộng đồng đoàn kết, ổn định và phát triển thịnh vượng, từ đó có thể nâng cao và thể hiện mạnh mẽ hơn vai trò trung tâm trong các vấn đề và các cấu trúc khu vực ở Đông Nam Á cũng như ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng lớn hơn./.

------------------

(1)  ASEAN và Trung Quốc đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2021