Thứ Ba, 16 tháng 8, 2022

NGHỊ QUYẾT VÀ CUỘC SỐNG

 

Hiện đại hóa nền hành chính từ thực tiễn TP. Vinh, tỉnh Nghệ An

CAO NGUYÊN HÙNGPhó Trưởng Phòng Tổng hợp, Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An

Hiện đại hóa nền hành chính là yếu tố tất yếu cho sự phát triển về mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, nhất là trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như thực tế thời gian qua, khi đại dịch COVID-19 xuất hiện, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, học tập, lao động… đã mang lại hiệu quả rõ nét, là công cụ, đòn bẩy thúc đẩy công tác cải cách hành chính (CCHC) của tỉnh Nghệ An nói chung và TP. Vinh nói riêng, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng chính quyền điện tử và thành phố thông minh.

Hiện đại hóa nền hành chính theo chủ trương của Đảng, Chính phủ và Tỉnh ủy Nghệ An

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, đó là “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”.

Chính phủ đã có Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15-7-2021 ban hành Chương trình tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2021-2030 và Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 2-9-2021 về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2021-2030. Chỉ thị số 23 nêu rõ: “CCHC là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong suốt công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, là một trong những giải pháp đột phá góp phần phát triển kinh tế - xã hội... xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân, dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển; lấy người dân làm trung tâm, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước... CCHC là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, do vậy cần tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và sự đồng thuận, thống nhất của người dân, tổ chức và xã hội trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ CCHC”.

Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, Tỉnh ủy Nghệ An đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 14-12-2021 về đẩy mạnh CCHC trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2030. Nghị quyết đánh giá: Cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện; thủ tục hành chính được đơn giản hóa, công khai, minh bạch, giảm thời gian và chi phí thực hiện, tạo thuận lợi hơn cho người dân, doanh nghiệp. Tổ chức bộ máy từng bước được sắp xếp tinh gọn, giảm đầu mối, nâng cao hiệu quả hoạt động; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CB, CC, VC) được bố trí, sắp xếp hợp lý hơn; tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ, kỷ cương, kỷ luật hành chính có chuyển biến tích cực. Mức độ ứng dụng CNTT trong quản lý, điều hành, cung cấp dịch vụ công ngày càng cao và phát huy hiệu quả... Bên cạnh đó còn có những hạn chế: Cơ chế, chính sách còn bất cập, chưa đồng bộ; thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực vẫn còn phức tạp; tổ chức bộ máy một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự tinh gọn; ý thức, trách nhiệm của một số CB, CC trong thực thi nhiệm vụ chưa cao; ứng dụng CNTT chưa đồng bộ…

Những kết quả bước đầu trong hiện đại hóa nền hành chính tại TP. Vinh

TP. Vinh là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Nghệ An, vì vậy CCHC là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong công tác chỉ đạo, điều hành. Trên thực tế, TP. Vinh luôn là đầu tàu về CCHC và hiện đại hóa nền hành chính trong số 21 đơn vị cấp huyện của Nghệ An. Giai đoạn 2015-2020, thành phố đã ban hành 197 văn bản chỉ đạo, điều hành về CCHC, 654 văn bản quy phạm pháp luật; đã tổ chức 2 đợt rà soát văn bản quy phạm pháp luật với 201 văn bản, bãi bỏ những văn bản không còn phù hợp; tổ chức 3609 đợt tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho 838.504 người tham gia.

Cải cách thủ tục hành chính (TTHC) và thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, đơn giản hóa TTHC nhưng vẫn bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức và công dân trong quá trình giao dịch. Đã có 287 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Thành phố và 162 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND các phường, xã được niêm yết công khai tại bộ phận “Một cửa”; đề nghị sửa đổi, bổ sung 14 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND các phường, xã; đề nghị bãi bỏ 3 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Thành phố và 27 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp xã.

Cải cách tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Đến nay, cơ quan UBND thành phố còn 12 phòng chuyên môn (giảm 7 phòng so với năm 2002). Năm 2019, UBND thành phố thực hiện nhất thể hóa 2 chức danh gồm: Chủ nhiệm UBKT Thành ủy kiêm Chánh Thanh tra và Trưởng Ban Tổ chức Thành ủy kiêm Trưởng Phòng Nội vụ; giải thể 2 ban quản lý dự án đầu tư và xây dựng để thành lập Ban quản lý Tiểu dự án phát triển đô thị Vinh. Bổ sung chức năng, nhiệm vụ, chuyển đổi mô hình hoạt động của một số tổ chức, đơn vị sự nghiệp trực thuộc, giảm từ 14 đơn vị còn 12 đơn vị; tinh giản biên chế 187 CB, CC, VC theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP. Sáp nhập 91 khối, xóm thành 46 khối, xóm; thành lập 2 khối mới, bố trí lực lượng Công an bán chuyên trách tại 9 xã trên địa bàn. Hoàn thành phê duyệt đề án vị trí việc làm cho 96 đơn vị trực thuộc; đã tuyển dụng, tiếp nhận 2.085 CC, VC, hợp đồng lao động về công tác tại các cơ quan, đơn vị trực thuộc; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cho 529 CC, VC lãnh đạo quản lý; cử 3.082 lượt CB, CC, VC tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức.

Cải cách tài chính công, thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính cho cơ quan UBND thành phố và 25/25 phường, xã và 97/97 đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, đạt tỷ lệ 100%. 88 đơn vị sự nghiệp tự chủ tự bảo đảm 1 phần chi phí hoạt động, 6 đơn vị đơn vị sự nghiệp tự chủ do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động, 3 đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên, 96/97 đơn vị sự nghiệp tiết kiệm được kinh phí chi thường xuyên, đạt tỷ lệ 98,9%. 

Hiện đại hóa nền hành chính, thành phố đã ban hành và tổ chức thực hiện kịp thời các chương trình, kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước (hệ thống mạng WAN, LAN nội bộ, phầm mềm quản lý văn bản và điều hành VNPT-Ioffice,…) nhằm tạo ra một phương thức vận hành thông suốt, hiệu quả của bộ máy công quyền, giải quyết các nhiệm vụ, hoạt động hành chính, chuyển từ cơ chế hành chính “xin - cho” sang cơ chế hành chính “phục vụ, dịch vụ” và làm cho nền hành chính có khả năng kiểm soát lãng phí, thất thoát và tham nhũng, khai thác có hiệu quả trong công tác điều hành, quản lý, nâng cao chất lượng giải quyết công việc, góp phần tiết kiệm thời gian, giảm chi phí hành chính cho các cơ quan, đơn vị. Hiện đã cấp cho CB, CC 151 chữ ký số và 1.297 tài khoản người dùng trên hệ thống VNPT-Ioffice, xử lý hồ sơ công việc qua môi trường mạng đạt tỷ lệ 100%.

Cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp, tiếp nhận và trả kết quả dịch vụ công mức độ 1, 2 đối với 286 thủ tục hành chính, mức độ 3 với 237 (đạt 85%) thủ tục hành chính, mức độ 4 với 49 (đạt 17,6%).

Triển khai áp dụng, duy trì, chuyển đổi phiên bản hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia tại cơ quan, đơn vị, theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 và ISO 9001:2015. Đến nay, thành phố đã rà soát, cập nhật, xây dựng mới, cải tiến theo quy định mới với 287 thủ tục đưa ra bộ phận “một cửa” để triển khai thực hiện theo đúng quy định.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác CCHC và hiện đại hóa nền hành chính giai đoạn 2016-2020 vẫn còn một số tồn tại như: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ về CCHC và HĐH nền hành chính chưa thực sự quyết liệt; thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực vẫn còn rườm rà, phức tạp; cơ sở vật chất tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa hành chính; nhận thức của một bộ phận CB, CC, VC chưa đầy đủ, chất lượng tham mưu, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ, ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế...

Giải pháp tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính tại TP. Vinh

Để tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được trong thời gian qua, khắc phục những hạn chế cũng như cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước, của chính quyền địa phương về hiện đại hóa nền hành chính, ngoài nhiệm vụ cải cách thể chế, thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy, chế độ công vụ, tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính thì TP. Vinh cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Một là, nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC tại UBND TP. Vinh, đặc biệt là năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý; bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp với nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và hướng dẫn thực hiện để đảm bảo sự thống nhất; xây dựng quy chế hoạt động, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền giải quyết công việc; quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ, chuyên môn; thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các quy định về tuyển chọn lãnh đạo, quản lý.

Hai là, tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho CB, CC, VC làm việc, nhất là đầu tư cho các hạng mục trang thiết bị hiện đại như: Máy tính, máy fax, máy scan; nâng cấp các phần mềm ứng dụng trong quản lý hành chính công về TTHC, địa chính, sản xuất - kinh doanh… góp phần nâng cao hiệu quả xử lý công vụ, giải quyết TTHC, nâng cao mức độ hài lòng của người dân đối với cơ quan hành chính nhà nước và chất lượng dịch vụ công của thành phố.

Ba là, hoàn thiện và nâng cấp đồng bộ hệ thống “một cửa”, “một cửa liên thông hiện đại”, “một cửa điện tử”; Tăng cường ứng dụng CNTT tại các phòng, ban của UBND thành phố và bộ phận “một cửa”. Cập nhật thường xuyên, kịp thời các thông tin chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của thành phố cũng như các thông tin liên quan đến TTHC và quá trình giải quyết các hồ sơ hành chính đến công tác quản lý lên Cổng giao tiếp điện tử thành phố. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan với UBND thành phố.

Bốn là, áp dụng tiêu chuẩn ISO phù hợp với điều kiện làm việc tại UBND thành phố trong quản lý hành chính công, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND thành phố nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật.

Năm là, tuyên truyền sâu, rộng nội dung CCHC và nội dung hiện đại hóa hành chính tại UBND thành phố nhằm giúp CB, CC hiểu rõ các nội dung chương trình, kế hoạch thực hiện CCHC Nhà nước nói chung  các mục tiêu giải pháp thực hiện hiện đại hóa hành chính giai đoạn từ nay đến năm 2025, có tính đến 2030.
Nguồn: Xây dựng Đảng

 

Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế số

 Kinh tế số - xu thế phát triển tất yếu

Hòa cùng xu thế phát triển của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển kinh tế số, xem đây là bước “bứt phá” trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thực tiễn cho thấy, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mở ra nhiều cơ hội, song cũng đặt ra không ít thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ, xem đây là tiền đề, động lực quan trọng để chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã xác định: Phát triển kinh tế số là trụ cột, nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo và đề ra mục tiêu vào năm 2025 kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng sản phẩm quốc nội và tăng lên 30% vào năm 2030.

Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là dựa trên cách mạng kỹ thuật số. Vì vậy, kinh tế số vừa là đặc trưng, vừa là xu thế phát triển tất yếu của các quốc gia. Về khái niệm, tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, song đa số đều thống nhất rằng, kinh tế số là nền kinh tế tiến bộ, trong đó các mối quan hệ, hoạt động kinh tế, tài chính… trong hệ thống mạng lưới sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường toàn cầu được thực hiện trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại. Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 14-1-2020, của Thủ tướng Chính phủ “Về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam” đã khẳng định: Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet vạn vật...), chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát triển mới - kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển đang bắt đầu quá trình chuyển đổi số.

Từ kinh nghiệm của một số quốc gia có nền kinh tế số phát triển, để đáp ứng nhu cầu xây dựng kinh tế số, chuyển đổi số quốc gia, dự báo đến năm 2030, Việt Nam sẽ cần ít nhất 100.000 doanh nghiệp công nghệ số để tiên phong, tạo đột phá trong thực hiện chiến lược “Make in Viet Nam” (sản xuất tại Việt Nam) với hàm ý “doanh nghiệp Việt Nam phấn đấu từng bước làm chủ về công nghệ, chủ động thiết kế, chế tạo các sản phẩm, chủ động trong sáng tạo các dịch vụ, giải pháp, mô hình kinh doanh mới"(2). Những doanh nghiệp công nghệ số của Việt Nam sẽ góp phần thực hiện sứ mệnh đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển có nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, với mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Những kết quả tích cực trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Năm 2021, theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á - Tiếng gầm thập kỷ XX: Thập kỷ kỹ thuật số Đông Nam Á”, nền kinh tế số Việt Nam có trị giá khoảng 21 tỷ USD, cao gấp 7 lần so với năm 2015 và dự đoán đạt 220 tỷ USD tổng giá trị hàng hóa (GMV) vào năm 2030, đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Indonesia. Trước ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn là trung tâm đổi mới hấp dẫn trong khu vực và trên thế giới với hoạt động thương mại, đầu tư tăng vọt, đạt mức cao kỷ lục với 1,37 tỷ USD, tập trung vào các lĩnh vực thương mại điện tử, tài chính, sức khỏe và giáo dục…

Hiện nay, trên 50% các bộ, ngành, địa phương trong cả nước đã xây dựng và triển khai các chương trình, đề án, kế hoạch về chuyển đổi số. Nhiều doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đã làm chủ các công nghệ “lõi”, phát triển khoảng 40 nền tảng “Make in Viet Nam”. Những kế hoạch, chiến lược truyền thông, xúc tiến thương mại trên không gian số đã hỗ trợ việc tiêu thụ hàng hóa nông sản của người dân, địa phương, doanh nghiệp; thu hút nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường; củng cố mối quan hệ hợp tác với những đối tác trên toàn thế giới, giảm thiểu chi phí xúc tiến thương mại. Năm 2020, Bộ Công Thương và chính quyền các cấp đã tổ chức trên 500 hội nghị xúc tiến thương mại quốc tế đa quốc gia, trên 1 triệu phiên giao dịch với những đối tác quốc tế bằng cả hai hình thức trực tiếp và trực tuyến.

Áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại đã giúp cho lĩnh vực thương mại điện tử có nhiều chuyển biến tích cực. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Việt Nam có thêm 8 triệu người tiêu dùng mới trên nền tảng kỹ thuật số; nhiều cá nhân và doanh nghiệp áp dụng các dịch vụ internet, công nghệ để mua bán sản phẩm, dịch vụ. Trong đó, có trên 95% doanh nghiệp kỹ thuật số chấp nhận thanh toán qua internet, 79% sử dụng hình thức chuyển tiền kỹ thuật số và 67% chấp nhận cho vay trên internet… Mỗi doanh nghiệp sử dụng trung bình 2 nền tảng số để đáp ứng nhu cầu khách hàng(3). Ngoài ra, trong lĩnh vực y tế, mạng lưới khám, chữa bệnh trực tuyến đã kết nối thêm 1.000 cơ sở y tế khám chữa bệnh từ xa, góp phần thu hẹp khoảng cách y tế giữa các vùng, miền, giữa tuyến Trung ương và địa phương; nhờ vậy, tỷ lệ chuyển tuyến giảm xuống dưới 10%, giúp tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng và giảm tải cho hệ thống y tế(4).

Việc áp dụng khoa học - công nghệ vào quản lý giảng dạy và học tập đã giúp lĩnh vực giáo dục - đào tạo có nhiều khởi sắc, chất lượng đào tạo được nâng cao, đặc biệt là quy mô giáo dục được mở rộng đến những khu vực khó khăn, vùng sâu vùng xa. Một trong những kết quả đáng tự hào và cần được ghi nhận chính là tỷ lệ học sinh trung học phổ thông được học trực tuyến chiếm 79,7%, cao hơn 67,5% so với mức trung bình chung của các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Giảng dạy và trao đổi bằng hình thức trực tuyến đã nâng cao sự tương tác giữa người dạy và người học, trở thành hoạt động cần thiết, mang lại nhiều sự thuận tiện, như giảm thời gian đi lại, tra cứu tài liệu, tăng khả năng tự học, tự đọc... Cũng qua việc áp dụng công nghệ số vào giảng dạy, trình độ sử dụng công nghệ thông tin của người dạy và người học đều được nâng cao - đây là tín hiệu tốt, bảo đảm nguồn nhân lực tương lai sẽ nắm được công nghệ hiện đại, từ nền tảng này, nền kinh tế số quốc gia sẽ càng được phát triển và hội nhập nhanh hơn với thế giới.

Những khó khăn, thách thức trong quá trình triển khai, thực hiện

Thứ nhất, nhận thức của người dân và một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước về lợi ích cũng như thời cơ và thách thức của kinh tế số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội còn chưa đồng đều ở các cấp, các ngành. Vì vậy, việc đồng bộ cơ sở dữ liệu về kinh tế số còn manh mún và phân tán, chưa có sự kết nối, liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương.

Thứ hai, môi trường pháp lý và thể chế phát triển kinh tế số còn yếu, chưa đồng bộ, nên chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế số. Điển hình, mặc dù khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng, nhưng với sự bùng phát dịch bệnh COVID-19, sự phát triển của kinh tế số đã tạo ra những lúng túng nhất định cho các cơ quan quản lý nhà nước trong một số vấn đề, như: Quản lý và thu thuế đối với các hoạt động thương mại trực tuyến; bảo đảm quyền lợi cho người lao động và người tiêu dùng qua thương mại điện tử; xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt động, lợi ích của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh, thương mại và dân sự trên môi trường số…

Thứ ba, sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp công nghệ số nước ngoài với tiềm lực mạnh, tạo ra những sản phẩm sáng tạo và hàm lượng công nghệ cao đang là thách thức lớn với các doanh nghiệp trong nước. Trong khi khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp trong nước còn hạn chế do quy mô của đa số doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ, thiếu vốn và trình độ công nghệ thấp.

Thứ tư, thói quen mua sắm truyền thống, tâm lý, thị hiếu tiêu dùng tiền mặt của đại đa số người tiêu dùng ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp. Đặc biệt, hành vi kinh doanh và thói quen tiêu dùng giữa người dân thành thị và khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khoảng cách lớn, gây ra những khó khăn nhất định để các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số đồng bộ.

Thứ năm, nguồn nhân lực, nhất là nhân lực công nghệ thông tin còn thiếu, yếu cả về lượng và chất. Việt Nam hiện đang thiếu các kỹ sư công nghệ có trình độ cao và năng lực quản lý có thể đáp ứng nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp công nghệ hiện nay và trong tương lai(5). Theo Công ty dịch vụ việc làm trực tuyến VietnamWorks, ước tính hằng năm, Việt Nam thiếu khoảng 78.000 nhân viên công nghệ thông tin và tính đến năm 2020 thiếu khoảng 500.000 nhân viên công nghệ thông tin, nghĩa là chỉ đáp ứng được 22% nhu cầu thị trường(6).

Thứ sáu, an ninh mạng, bảo mật, an toàn thông tin ngày càng gặp khó khăn. Kinh tế số dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, internet chứa đựng nguy cơ lớn về bảo mật, an toàn thông tin, tài chính và tính riêng tư của dữ liệu, của các chủ thể kinh tế số. Trong quý I-2021, Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ghi nhận 1.271 cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào các hệ thống thông tin, trong đó có 623 cuộc tấn công Malware (phát tán các chương trình hoặc mã độc có khả năng cản trở hoạt động bình thường của hệ thống), 449 cuộc tấn công Phishing (giả mạo các tổ chức uy tín như ngân hàng, trang web giao dịch trực tuyến hay công ty thẻ tín dụng) và 199 cuộc tấn công Deface (bẻ khóa hệ thống và truy cập máy chủ web nhằm thay đổi giao diện và nội dung web)(7).

Đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong thời gian tới

Quán triệt quan điểm “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”(8)  và để thực hiện có kết quả các chủ trương, nhiệm vụ về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số. Cần có sự quan tâm sâu sắc của chính quyền các cấp trong vấn đề nâng cao trình độ nhận thức của xã hội về chuyển đổi số. Tăng cường, đổi mới phương thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng, các phương tiện truyền thông xã hội. Xây dựng các kế hoạch cụ thể, quy mô lớn để phổ cập kiến thức về chuyển đổi số đến mọi người dân.

Hai là, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp luật về chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế số. Các cơ quan quản lý của Nhà nước cần thường xuyên cập nhật, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy chế, văn bản pháp luật về khoa học -công nghệ số. Đồng thời, cần có những chính sách hỗ trợ những mô hình kinh doanh, chiến dịch quảng bá, khuyến khích phát triển dịch vụ, dòng sản phẩm, công nghệ số mang tính sáng tạo, đổi mới… Về phía doanh nghiệp, cần tập trung xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của công nghệ số, thúc đẩy phát triển sáng tạo những dòng sản phẩm, dịch vụ mới…

Ba là, cần chú trọng hơn nữa công tác an ninh mạng, tăng cường bảo mật, an toàn thông tin. Vấn đề bảo mật thông tin cá nhân cần được pháp luật quy định rõ ràng với những chính sách, hành động cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích, quyền lợi của người tham gia, bảo đảm môi trường không gian mạng an toàn và an ninh. Xây dựng và củng cố hệ thống pháp luật quốc gia về khung danh tính số, định danh số và xác thực điện tử. Xây dựng, củng cố pháp luật về những chính sách tiền tệ, chính sách tài chính liên quan đến áp dụng công nghệ số vào những dịch vụ mang tính quốc tế, quản lý thuế điện tử, thanh toán điện tử, quản lý sản xuất, điện tử hóa mô hình kinh doanh.

Bốn là, phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng số. Đẩy mạnh nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, quản lý chặt chẽ và kiểm soát những hình thức thanh toán trực tuyến, nhất là những giao dịch xuyên quốc gia. Chủ động hoàn thiện hệ thống hạ tầng thanh toán số song song với việc thống nhất, đồng bộ phương thức thanh toán không dùng tiền mặt để giao dịch trên toàn quốc. Chú trọng chuyển đổi giao thức internet sang những thế hệ mới, mở rộng kết nối internet trong phạm vi khu vực và trên toàn thế giới, nâng cấp mạng 4G, đẩy nhanh tiến độ phát triển mạng 5G.

Năm là, đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực. Phát huy tính tiên phong của doanh nghiệp công nghệ thông tin trong nghiên cứu, phát triển, làm chủ kỹ thuật số; từ đó, quảng bá thương hiệu khắp quốc gia, khu vực và mở rộng ra thị trường thế giới. Cần chú trọng đẩy mạnh phát triển những lĩnh vực theo xu hướng số hóa, như: Năng lượng tự động, hệ thống giao thông vận tải; đào tạo từ xa, quản lý giảng dạy và học tập trực tuyến; quản lý hồ sơ bệnh án, điều trị bệnh trực tuyến; hệ thống quản lý nông - lâm - ngư nghiệp từ xa, thương mại điện tử được chuyển đổi số… Nghiên cứu, cải tiến, phát triển kỹ thuật số các thiết bị, máy móc, đáp ứng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của cộng đồng xã hội, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp triển khai việc chế tạo, thiết kế, cải tiến dịch vụ, hàng hóa thay cho việc lắp ráp, gia công.

Sáu là, khuyến khích phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ “lõi”, nhất là công nghệ số theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, các trường đại học, viện nghiên cứu là các chủ thể nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Cơ cấu lại toàn diện hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ công lập. Tăng mức đầu tư của nhà nước và nâng cao hiệu quả đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ trên cơ sở áp dụng mô hình quản trị mới. Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học - công nghệ, khuyến khích, huy động mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ./.

(PGS, TS. TRƯƠNG THỊ HIỀN Chủ tịch Hội Nữ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh)

 Phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới

Toàn cảnh Hội thảo

Toàn cảnh Hội thảo.

Đồng chí Đại tướng, GS, TS. Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an; GS, TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Thượng tướng, PGS, TS. Trần Quốc Tỏ, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an; PGS, TS. Phạm Minh Tuấn, Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đồng chủ trì và tham gia điều hành Hội thảo.

Mục đích của Hội thảo làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và khẳng định vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia. Trên cơ sở đó, đề ra nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới. Kết quả của Hội thảo là cơ sở để kiến nghị với lãnh đạo Đảng, Nhà nước có chủ trương, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần chủ động bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại của đất nước.

Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định, bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội thảo

Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội thảo.

Nhấn mạnh ý nghĩa, yêu cầu đặc biệt quan trọng của vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng cho biết, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 5-9-2019 về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. Theo đó, phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động, phát huy sức mạnh tổng hợp, toàn diện, quy tụ mọi nhân tố. Đây là bước phát triển mới trong lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, được thể hiện nhất quán và nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng trên 3 phương diện: Chủ động, kiên quyết, kiên trì về phương châm, kế sách; Vững chắc về nền tảng, cội nguồn sức mạnh; Toàn diện về phương thức, biện pháp huy động nguồn lực,

Hơn 35 năm qua, triển khai những chủ trương, chính sách đúng đắn trên cơ sở đổi mới nhận thức, tư duy và hành động, kế thừa những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới. Thực tiễn là minh chứng sinh động, rõ ràng nhất cho thấy, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia; sự trưởng thành, chiến thắng, luôn hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang trong mọi hoàn cảnh; bảo đảm cho Quân đội, Công an luôn giữ vững bản chất cách mạng, tính đảng, tính nhân dân và dân tộc.

Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh, trong thời gian tới, tình hình quốc tế sẽ tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, tác động sâu sắc đến môi trường và nguồn lực để bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Do đó, bối cảnh đã đặt ra những vấn đề hệ trọng và cấp thiết bao gồm việc thống nhất về nhận thức "bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân"; phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp là phương thức quan trọng hàng đầu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới; việc giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia; không ngừng nâng cao tiềm lực, xây dựng lực lượng, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh vững mạnh; chủ động nắm bắt, nghiên cứu, phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước, không để bị động, bất ngờ.

Các đại biểu tham quan gian trưng bày sách bên thềm Hội thảo

Các đại biểu tham quan gian trưng bày sách bên thềm Hội thảo

Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm mà các đại biểu cần tập trung phát biểu làm rõ tại Hội thảo bao gồm: Sự cần thiết và những yêu cầu phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh mới; Phân tích làm rõ sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đặc biệt là những nhận thức mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia; Làm rõ thực trạng và đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới một cách hiệu quả và thiết thực.

Phát biểu kết luận tại Hội thảo, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh, các ý kiến tham luận tại Hội thảo đã khẳng định rõ vai trò của nhân dân tham gia xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân”; khẳng định rõ vai trò nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia là Công an nhân dân và Quân đội nhân dân. Các tham luận cũng đã đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay như: Coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; Đổi mới, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng; Hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp; Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp; Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia; Đề xuất giải pháp tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của thế lực thù địch…

Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm phát biểu kết luận tại Hội thảo

Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm phát biểu kết luận tại Hội thảo.

Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định, 4 cơ quan phối hợp tổ chức Hội thảo sẽ căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để tổ chức nghiên cứu nghiêm túc, thấu đáo, tiếp tục tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Đảng, Nhà nước các chủ trương, giải pháp phù hợp về chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.

Để thực hiện tốt vai trò nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia góp phần phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại của đất nước, Bộ trưởng Tô Lâm yêu cầu thời gian tới, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần phát huy truyền thống tốt đẹp của Công an nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân”. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện theo Sáu điều Bác Hồ dạy, thực hiện “gần dân, trọng dân, hiểu dân, có trách nhiệm với dân”, nêu cao tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, “khi dân cần, khi dân khó, có Công an”. Quán triệt nghiêm túc lời căn dặn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Danh dự là điều thiêng liêng cao quý nhất” để lực lượng Công an nhân dân là “thanh bảo kiếm” sắc bén bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ Nhân dân; sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của Nhân dân.
Nguồn: Ngọc Anh

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay

 

TCCS - Trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc phát huy vai trò của nhân dân. Đến nay, những quan điểm này của Người vẫn còn nguyên giá trị, góp phần định hướng việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta trong tình hình mới. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước 

Với cương vị là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, mà còn là người thầy vĩ đại trong việc phát huy vai trò của nhân dân - chủ thể cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi theo đúng tính chất quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Đến nay, việc phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, người dân về kiểm soát quyền lực nhà nước, cũng như cơ chế phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước có lúc, có nơi vẫn còn bất cập. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề cấp thiết, nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 

Kiểm soát quyền lực nhà nước được bàn đến với nhiều định nghĩa khác nhau, song theo nghĩa chung nhất, đó là một hệ thống cơ chế, thể chế được thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm xem xét, giám sát, phát hiện, bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả.

Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân như chính cội nguồn ban đầu của nó, nhân dân là gốc, là chủ thể của quyền lực. Kế thừa và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định, kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những chức năng lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, V.I. Lê-nin cho rằng, nhân dân là chủ thể kiểm soát nên cần phải hết sức coi trọng và phát huy vai trò nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Người yêu cầu tổ chức cho toàn dân tham gia kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nhà nước, “tổ chức việc kiểm tra và kiểm soát từ dưới lên, một cách dân chủ, do chính nhân dân, các hội liên hiệp của nhân viên, của công nhân và của những người tiêu dùng, v.v., thi hành”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Những quan điểm về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua vai trò nhân dân được Người vận dụng, phát triển, gồm một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách giám sát, phê  bình, giúp đỡ Chính phủ. 

Đề cao vai trò của nhân dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp  cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Người quan niệm, phải tổ chức sự kiểm soát quyền lực của nhà nước, mà muốn kiểm soát tốt thì phải có quần chúng giúp mới được. Người cho rằng, những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi theo cách từ trên xuống, nên bị hạn chế. Dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, trông thấy vấn đề theo cách từ dưới lên và cũng có hạn chế. Cho nên, Người lưu ý, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, thì tất yếu phải hợp kinh nghiệm cả hai bên lại. Tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Người đã nêu lên thực trạng tại một số nơi, ở cấp cơ sở, có những cán bộ phụ trách, do rơi vào chủ nghĩa cá nhân, thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, đã làm những điều đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Do vậy, Người luôn nhất quán khẳng định, chúng ta phải tin ở sự phê bình, kiểm soát của nhân dân. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết: “Để cho dân chúng phê bình cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng. Đồng thời, do sự dùi mài của dân chúng, cán bộ và dân chúng đều tiến bộ, lại do đó, cán bộ và dân chúng đoàn kết chặt chẽ thêm”(2). Người luôn mong muốn nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc việc kiểm tra, kiểm soát nhà nước: “Chính phủ ta là Chính  phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”(3).  

Thứ hai, nhân dân kiểm soát quyền lực bằng quyền bầu cử, bất tín nhiệm và quyền khiếu tố với đại biểu do mình cử ra. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ở quần chúng, khai hội, phê bình và bày tỏ ý kiến, bầu cử các ủy ban, các hội đồng, v.v.; đó là những cách quần chúng kiểm soát những người lãnh đạo”(4). Vậy nên, sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã chủ động đề xuất với Chính phủ tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước. Theo Người, tổ chức Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có đức, có tài, để gánh vác công việc nước nhà... Cũng từ Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội - cơ quan  đại biểu cao nhất của nhân dân. Khi Quốc hội ra đời, sẽ cử ra Chính phủ và Chính phủ do nhân dân cử ra chính là Chính phủ của toàn dân.  

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bầu cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân trong chế độ mới. Điều này được Người khẳng định ở Đại hội nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội, ra mắt cử tri ngày 24-4-1960. Trong lời phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, việc lựa chọn những đại biểu như vậy là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của cử tri. Người đề cao giá trị mà lá phiếu cử tri mang lại, bởi nó là một dấu hiệu để khẳng định một sự thật rằng nhân dân đã thật sự làm chủ nước nhà. Trong tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), Người nhấn mạnh: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình”(5)

Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, với những đại biểu không xứng  đáng, nhân dân có quyền bất tín nhiệm. Trong bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa vào đầu năm 1947, Người nêu lên tinh thần xây dựng Chính phủ vì nhân dân phục vụ, rằng nếu Chính phủ đó làm hại dân, thì nhân dân có quyền đuổi Chính phủ. Quan điểm của Người về quyền bất tín nhiệm đã được cụ thể hóa tại Điều thứ 20, Hiến pháp năm 1946: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”. Điều này cũng được Người đề cập trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín  nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”(6)

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến quyền khiếu tố của nhân  dân, coi đây cũng là cách thức để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong Thư gửi đồng bào Liên khu IV (năm 1950), Người viết: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp  nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v.. Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ. Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền  ấy”(7).

Thứ ba, nhân dân kiểm soát quyền lực thông qua xây dựng thể chế dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ của ta là chế độ dân chủ, vì nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ, còn Chính phủ là đày tớ của nhân dân... Theo đó, mọi công việc của Chính phủ từ việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Người đề xuất “xây dựng hiến pháp dân chủ” để thể chế hóa quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc - được Quốc hội khóa I thông qua ngày 9-11-1946, là thành quả kết tinh trí tuệ của Ban dự thảo do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban, đã nêu rõ, nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ. Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946 còn ghi nhận quyền lực nhà nước cao nhất thuộc về nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. 

Đánh giá về vai trò của Hiến pháp năm 1946 trong thể chế hóa chế độ dân chủ ở Việt Nam, Người khẳng định: “Chế độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã đảm bảo độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân”(8). Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng thể chế dân chủ nhằm huy động vai trò của nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I, ngày 18-12-1959, Người nêu rõ: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”(9)

Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay 

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế bầu cử phù hợp với sự phát  triển của thực tiễn. 

Hoàn thiện quy định và lộ trình, bảo đảm tốt nhất điều kiện về nắm bắt  thông tin, nâng cao ý thức trách nhiệm về quyền làm chủ của nhân dân; lấy ý kiến cử tri về các ứng viên tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp trong quá trình bầu cử. 

Kết hợp chặt chẽ giữa định hướng chính trị, cơ cấu về tỷ lệ đại biểu với  quyền tự ứng cử, quyền đề cử của công dân; nâng cao số lượng cử tri tự ứng cử để phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. 

Tiếp tục nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong quá trình tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên và giám sát hoạt động bầu cử, bảo  đảm dân chủ và đúng luật định; khắc phục mọi biểu hiện hình thức, xem xét tiêu chuẩn, lai lịch chính trị, uy tín của ứng viên chưa chặt chẽ; bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lựa chọn, giới thiệu được những đại biểu thật sự ưu tú tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. 

Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các ứng viên tham gia vận động, tiếp xúc cử tri, trình bày kế hoạch hành động sau khi trúng cử; phát huy vai trò của phương tiện thông tin, truyền thông về nhiệm vụ bầu cử, qua đó, cử tri ở từng địa bàn sẽ trực tiếp nắm được thông tin về năng lực, trình độ, phẩm chất, uy tín của các ứng viên, từ đó lựa chọn được những đại biểu ưu tú. 

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền bất tín nhiệm đại biểu của nhân dân.

Vấn đề bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân được quy định ở Điều 7 của Hiến pháp năm 2013, Điều 40 của Luật Tổ chức Quốc hội 2014 và Điều 41 của Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13, ngày 24-11-2015, theo đó, việc bảo đảm quyền bãi miễn của nhân dân đã được thực thi gián tiếp thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội, trong thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia có hiệu quả hơn vào việc bãi miễn đại biểu không xứng đáng. 

Thứ ba, bổ sung các chế định pháp lý để phát huy quyền làm chủ của nhân  dân trong tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. 

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý Nhà nước và xã hội là cách thức kiểm soát quyền lực nhà nước hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện nay. Thông qua việc góp ý, phê bình, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ ngăn ngừa được tình trạng lạm dụng quyền lực mưu lợi cá nhân của một bộ phận cán bộ, công chức. Các quyền này đã được chế định ở quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã  hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng”(10). /.


CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 THÀNH CÔNG - BƯỚC NGOẶT VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.


1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.

Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.

Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

2. Nguyên nhân thắng lợi

- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

- Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.

- Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.

3. Ý nghĩa lịch sử

- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền.

- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.

4. Một số bài học kinh nghiệm

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:

Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

Nguồn tin: Ban Tuyên giáo Trung ương