Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

KỶ NIỆM 134 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ( 19/5/1890 - 19/5/2024 )

 


          Trong không khí những ngày tháng 5 lịch sử, cả nước  đang ra sức thi đua lập nhiều thành tích chào mừng kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - vị Cha già, Người lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới. Người cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mang lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Hàng năm, vào ngày 19 tháng 5 cùng với cả nước, lòng chúng ta lại bâng khuâng tưởng nhớ đến Bác Hồ kính yêu. Ngày 19/5/1946, lần đầu tiên nhân dân ta kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta. Từ đó trở đi, cứ đến dịp 19/5, toàn dân ta cùng sống những giờ phút đặc biệt, niềm vui dâng trào, kính yêu Bác vô hạn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.

 Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.

Trong bối cảnh đó, ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc với khát vọng cháy bỏng tìm đường cứu nước để đem lại: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.  Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản và nhiều nước thuộc địa. Sớm nhận thức được xu hướng phát triển của thời đại, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.

Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng của những người cộng sản Việt Nam, năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức Cộng sản Đoàn làm nòng cốt, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Năm 1929, nhiều tổ chức cộng sản đã ra đời ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930 được sự phân công của Quốc tế Cộng sản lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Mùa Xuân năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, cùng với sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Người, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đồng lòng, chung sức làm nên những chiến thắng vang dội trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, kết thúc bằng cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi hoàn toàn đưa Tổ quốc ta về một mối; mở ra một kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, từ đây toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cùng nhau đoàn kết trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Ngày 02 tháng 9 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, để lại muôn vàn tiếc nuối cho toàn Đảng, dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng vĩ đại, có những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho nhân loại tiến bộ.

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo. Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta. Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện qua những nội dung như: Một là, trung với nước, hiếu với dân: đây là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Hai là, yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình. Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bốn là, có tinh thần quốc tế trong sáng.

Phong cách Hồ Chí Minh, gắn liền với nhân cách trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh, với tư cách là một vĩ nhân, một nhà văn hóa kiệt xuất. Đó là một phong cách vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực. Những nội dung chủ yếu của phong cách Hồ Chí Minh bao gồm:  Phong cách tư duy, Phong cách làm việc, Phong cách lãnh đạo, Phong cách diễn đạt, Phong cách ứng xử, Phong cách sinh hoạt.

Để tưởng nhớ công ơn của Bác, tháng 5 lịch sử, cả nước ta đang ra sức thi đua lập nhiều thành tích chào mừng kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - vị Cha già, Người lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới. Người cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mang lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thiết thực chào mừng kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân xã Hải Tân ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc…phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và những năm tiếp theo, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, văn minh./.

 

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ- SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI

 


Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

Nguyên nhân thắng lợi

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ - chiến thắng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử; là chiến thắng của đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.

Nhân dân ta từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già theo lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của, bảo đảm cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng ngoài mặt trận.

Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần tiếp ứng cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có; cán bộ, chiến sĩ mưu trí, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã xuất hiện nhiều tấm gương kiên cường, anh dũng, mưu trí và sáng tạo tiêu biểu như: Tô Vĩnh Diện và Nguyễn Văn Chức đã hy sinh thân mình để bảo vệ pháo, Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai và còn biết bao tấm gương chiến đấu, anh dũng hy sinh khác đã làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, sự giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhận được sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La tinh, đặc biệt là liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương và phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp.

Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ

Thứ nhất, là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo cơ sở căn bản và quyết định cho việc đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh dấu chấm hết cho sự ngoan cố, hiếu chiến của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên bàn Hội nghị, buộc Chính phủ Pháp cùng các bên tham dự phải ngồi vào bàn nghị sự, ký Hiệp định Giơnevơ (trừ Mỹ) đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 21/7/1954. Đây cũng là chiến thắng quyết định thắng lợi của ta trên mặt trận ngoại giao, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Thứ hai, mở ra giai đoạn cách mạng mới, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,

Chiến thắng Điện Biên Phủ đưa đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã tạo ra những thay đổi căn bản trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao… cho cách mạng Việt Nam và mở đầu một giai đoạn mới: miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như những đóng góp của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam đã củng cố niềm tin của Nhân dân hai miền vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Phát huy tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ - “độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng”, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và đội quân chư hầu, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sự lớn mạnh, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh chân lý: Trong thời đại ngày nay, một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển nếu có một đảng mác xít chân chính lãnh đạo với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ thì nhất định đánh thắng mọi kẻ thù, dù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn gấp nhiều lần.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ 34 chiến sỹ với vũ khí thô sơ năm 1944, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, càng đánh càng trưởng thành. Đây là cơ sở để sau này toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vững tin, dám đánh, biết đánh, quyết đánh và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thứ tư, chấm dứt sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới

Chiến thắng Điện Biên Phủ thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do; buộc chính quyền Pháp phải chấm dứt chính sách cai trị thực dân, tiến hành trao trả độc lập cho nhiều nước ở châu Á và châu Phi, đồng thời xem xét lại vị thế và các chính sách của mình đối với các nước vốn là thuộc địa cũ. Việt Nam là nước tiên phong, là biểu tượng sáng ngời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ, mở ra trang sử mới cho nhân loại, góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Giuyn Roa, ký giả kiêm sử gia, nguyên Đại tá quân đội viễn chinh Pháp khẳng định: “Trên toàn thế giới, Oatéclô trước đây không gây tiếng vang bằng, Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa”.

Bài học kinh nghiệm

“Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, anh dũng của quân và dân cả nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp Mỹ. Đây là chiến thắng vĩ đại của Nhân dân ta và cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay; chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng dân tộc nhất định thành công”. Từ thắng lợi vĩ đại này, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu:

- Một là, xác định đường lối kháng chiến đúng đắn, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến vừa kiến quốc vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

- Hai là, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

- Ba là, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, sáng tạo, tìm tòi, xác định đúng đường lối cách mạng và nghệ thuật quân sự Việt Nam.

- Bốn là, xây dựng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Năm là, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sự ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn quốc tế./.

 

VAI TRÒ CỦA CHÍNH ỦY, CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI

 

                                                     

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười không tách rời cuộc đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, trong đó có đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, đủ mọi kẻ thù lớn tiếng vu cáo Đảng Bôn-sê-vich Nga là “đảo chính”, “tiếm quyền”, là “từ bỏ chủ nghĩa Mác”, “đi chệch” khỏi con đường phát triển chung của thế giới, thậm chí là phản bội chủ nghĩa Mác… Sau sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch càng trở nên quyết liệt hơn và trong suốt quá trình từ đó đến nay, các thế lực thù địch luôn công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách làm nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản.

Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp ủy cấp mình về toàn bộ các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và tiến hành đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa; trong đó có đấu tranh bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười, phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, chính ủy, chính trị viên cần thực hiện tốt một số nội dung biện pháp sau:

Một là, tích cực giáo dục, nâng cao trình độ lý luận và ý thức trách nhiệm cao trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.

 Đấu tranh bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười là một nội dung đấu tranh trên lĩnh vự tư tưởng - văn hóa, đầy  khó khăn và quyết liệt. Bởi lẽ, nội dung vấn đề đấu tranh có nhiều gai góc về lý luận và cả thực tiễn. Nhiều luận điệu sai trái, phản khoa học của các thế lực thù địch có thể thực hiện trắng trợn hoặc có thể được che dấu kín đáo, được ngụy trang dưới những cái vỏ có vẻ “khoa học”, “khách quan”, làm cho mọi người khó nhận biết thực chất và rất khó đấu tranh. Vì thế, phải bằng cơ sở lý luận, thực tiễn đủ sức thuyết phục mới làm rõ mức độ sai lầm về khoa học và phản động về chính trị, phản cách mạng hại dân, hại nước của các quan điểm thù địch, sai trái đó. Mặt khác, do sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông, nên đấu tranh bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười đã trở nên hết sức khó khăn và phức tạp, nhất là khi sự công kích của các thế lực thù địch không chỉ diễn ra trên diện rộng mà ngày càng đi vào chiều sâu. Chúng lớn tiếng công kích cho rằng Cách mạng Tháng Mười là một sai lầm của lịch sử, là “quái thai đẻ non, nên dẫn đến chết yểu”; “là sự kết thúc của lịch sử”; “đã chấm dứt một thế kỷ thể nghiệm cộng sản thất bại”…; ra sức khuếch trương cho “tính đúng đắn” của đường lối cải lương tư sản về “sự chuyển hóa dần dần” từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội; cổ súy cho cái gọi là “đa nguyên, đa đảng”, phủ nhận các nguyên tắc mác-xít về Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa... làm cho tư tưởng hoang mang và hoài nghi về chủ nghĩa xã hội nảy sinh trong không ít cán bộ, đảng viên và quần chúng. Điều đó đòi hỏi đội ngũ chính ủy, chính trị viên vừa phải có trình độ lý luận vừa phải có phẩm chất chính trị, với tinh thần, ý thức trách nhiệm cao, biết khai thác và định hướng những thông tin vào quá trình công tác, giảm thiểu những tác hại của các thông tin xấu. Muốn vậy, đội ngũ chính ủy, chính trị viên phải thường xuyên tự học tập, tự nâng cao trình độ lý luận, có những hiểu biết rộng về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; đặc biệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng thế giới quan khoa học, phương pháp luận duy vật biện chứng trong xem xét, giải quyết các vấn đề tư tưởng và có năng lực nghiên cứu dự báo tình hình, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, chủ động tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ đấu tranh vạch trần những âm mưu, thủ đoạn đó.

Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần cảnh giác chống âm mưu, thủ đoạn phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.

Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn hòng phủ nhận giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị là một nội dung, biện pháp rất quan trọng của chính uỷ, chính trị viên. Chính uỷ, chính trị viên phải đánh giá đúng nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để chỉ đạo, tổ chức tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Tập trung giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ thấy rõ giá trị và ý nghĩa quốc tế lớn nhất của cách mạng Tháng Mười. Đó là kết quả hợp quy luật của sự phát triển tư tưởng và thực tiễn đấu tranh trong suốt quá trình lịch sử của nhân dân lao động tạo ra bước ngoặt lịch sử của loài người, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và đối với nước ta, những mốc son trên con đường cách mạng là sự nối tiếp hào hùng của Cách mạng Tháng Mười.

 Giáo dục lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, truyền thống của Đảng, quân đội và đơn vị; xây dựng tinh thần làm chủ, ý thức kỷ luật tự giác nghiêm minh của “Bộ đội Cụ Hồ”; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật quân sự, nghiệp vụ, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; xây dựng ý chí quyết tâm trong đấu tranh với kẻ thù theo phương châm: chủ động, kiên quyết, nhạy bén, kịp thời, liên tục, triệt để, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Trong đó lấy xây dựng nội bộ đơn vị trong sạch vững mạnh là nhân tố quyết định; khắc phục tình trạng thụ động, chủ quan, lơ là mất cảnh giác; kiên quyết, kịp thời, triệt để xử lý mọi cá nhân có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng.

Ba là, chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ và tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Hiện nay, các thế lực thù địch đã và đang tiếp tục tranh thủ lợi thế về kinh tế, khoa học - công nghệ, sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn mới xuyên tạc, phủ nhận giá trị và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga. Hơn nữa, từ thực tiễn những năm 90 của thế kỷ XX, các thế lực thù địch đã làm cho Quân đội Liên Xô và các nước Đông Âu - một lực lượng hùng mạnh, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động bị mất phương hướng chính trị, không còn là lực lượng chính trị, công cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, phải chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ và tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; tang cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội.

Chính ủy, chính trị viên phải đánh giá đúng tình hình tư tưởng của bộ đội, xác định chính xác các biện pháp công tác tư tưởng để kịp thời giáo dục xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị, không để bị bất ngờ trước những diễn biến tư tưởng của bộ đội. Chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, khuyến khích, động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia đấu tranh vạch trần, phản bác những luận điệu sai trái, vô hiệu hóa các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch; giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật của quân đội, Đảng và Nhà nước. Cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực, đẩy lùi các tiêu cực, cái xấu, phòng ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng; đồng thời nắm vững phương châm lấy “xây” để “chống”, trong đó đặc biệt chú trọng đến xây dựng, củng cố niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ.

Chính ủy, chính trị viên phải chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc quyền tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo phương châm “giữ vững bên trong”, làm cho nội bộ  thật sự trong sạch vững mạnh không để địch lôi kéo, chia rẽ, lũng đoạn chống phá ta từ bên trong. Kịp thời phát hiện, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm tư tưởng sai trái; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện tốt việc quản lý chặt chẽ tình hình từng tổ chức, từng quân nhân trong đơn vị. Công tác quản lý phải nắm chắc từng cán bộ, chiến sĩ về mọi mặt, chú trọng việc quản lý về lập trường, quan điểm, thái độ, hành vi chính trị, các mối quan hệ chính trị, xã hội của quân nhân. Hiểu rõ cả hiện tại và quá khứ, chú trọng vào những quân nhân ở bộ phận trọng yếu có hiện tượng tiêu cực, yếu kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, có quan hệ chính trị - xã hội phức tạp, các bộ phận hoạt động độc lập, công tác lẻ. Tổ chức tốt việc kiểm tra xác minh để kết luận những trường hợp vi phạm nguyên tắc tuyển chọn theo Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan, kịp thời phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi quân đội những trường hợp không đủ tiêu chuẩn về chính trị. Chấp hành nghiêm các quy định, hướng dẫn của trên về công tác phát triển Đảng, tuyển chọn đi đào tạo sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật phục vụ quân đội lâu dài. Duy trì nền nếp quản lý, phân loại chính trị chặt chẽ đối với đảng viên, đoàn viên, thực hiện đúng chế độ nắm tình hình và báo cáo tình hình về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ, chiến sĩ bảo vệ và các cơ sở chính trị vững chắc ở địa phương nơi đóng quân, kết hợp chặt chẽ xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn với địa bàn an toàn.

Bốn là, chăm lo xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh ở các đơn vị, tạo sức đề kháng tốt chống lại sự xâm nhập của văn hóa xấu độc.

Môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh ở các đơn vị có vai trò rất quan trọng tạo ra “bức tường lửa” để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chính uỷ, chính trị viên phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cho mọi cán bộ, chiến sĩ có lập trường chính trị tư tưởng vững vàng, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng không dao động, bi quan, luôn kiên định, vững vàng với con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn - con đường Cách mạng Tháng Mười. Thường xuyên xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch lành mạnh, phù hợp với các chuẩn mực văn hóa, đạo đức của “Bộ đội Cụ Hồ”. Xây dựng và thực hiện tốt các mối quan hệ ứng xử văn hóa lành mạnh trong đơn vị, làm cho các mối quan hệ này thực sự chuẩn mực, thấm đậm tính nhân văn, tình thân ái đồng chí, đồng đội, tình quân dân “cá nước”. Thường xuyên chăm lo xây dựng nếp sống văn hóa, thực hiện tốt yêu cầu chính quy, đảm bảo doanh trại xanh, sạch, đẹp và duy trì các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí trong các ngày nghỉ, giờ nghỉ ở đơn vị. Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh ở đơn vị trong toàn quân gắn với thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, công hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; tạo sự chuyển biến rõ nét về nhân cách quân nhân theo các chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; chú trọng xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến; gắn thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Tăng cường kiểm tra sách, báo, băng hình, băng đĩa nhạc và phối kết hợp chặt chẽ với chính quyền và các cơ quan chức năng của địa phương nơi đóng quân làm tốt công tác ngăn chặn, truy quét các sản phẩm có nội dung tư tưởng xấu độc, các tệ nạn say rượu, bia và số đề, cờ bạc, cá độ, mê tín dị đoan, ma túy… có thể xâm nhập vào đơn vị.

Chính ủy, chính trị viên cần chỉ đạo xây dựng đơn vị thành “điểm sáng văn hóa” ở nơi đóng quân, mỗi quân nhân là một “chiến sĩ văn hóa” ở khu vực, giúp đỡ địa phương xóa mù chữ, tuyên truyền nếp sống văn hóa, giáo dục y tế cộng đồng, xây dựng gia đình văn hóa, đẩy mạnh các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, chủ động, tích cực tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thấy rõ những lý tưởng nhân văn, nhân đạo cao cả của Cách mạng Tháng Mười đã được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện thực hóa với nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.

VẤN ĐỀ XÃ HỘI QUAN TÂM: BÍ THƯ TỈNH ỦY BẮC GIANG DƯƠNG VĂN THÁI BỊ BẮT TẠM GIAM!

     Bí thư Bắc Giang Dương Văn Thái bị bắt, bị tạm đình chỉ nhiệm vụ đại biểu Quốc hội!

Ông Dương Văn Thái, Bí thư Bắc Giang bị bắt giam và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tạm đình chỉ nhiệm vụ đại biểu Quốc hội đối với ông.
Tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường vừa phát đi thông cáo báo chí cho hay: Ngày 26-4, căn cứ quy định của pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1046/NQ-UBTVQH15 đồng ý đề nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao về việc khởi tố, bắt tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc đối với ông Dương Văn Thái, đại biểu Quốc hội khóa XV theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đối với ông Dương Văn Thái, đại biểu Quốc hội khóa XV kể từ ngày có quyết định khởi tố bị can.

Ông Dương Văn Thái, sinh năm 1970, quê Bắc Giang. Ông là Tiến sĩ Kinh tế, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang khóa XV.

Ông Dương Văn Thái làm Bí thư Bắc Giang từ năm 2020.

Từng là cán bộ Phòng Văn hóa, Thông tin, Thể dục thể thao thị xã Bắc Giang, quá trình công tác, ông Dương Văn Thái trải qua nhiều vị trí: Phó, sau đó là Trưởng Chi cục Thuế thị xã Bắc Giang; Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND TP Bắc Giang; Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang và năm 2020 ông là Bí thư Bắc Giang./.
Môi trường ST.

 THAY CÁN BỘ NHƯNG KHÔNG ĐỔI ĐƯỜNG LỐI

Nhiều cán bộ đảng viên, có cả cán bộ cấp cao trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta do thoái hóa, biến chất, tham nhũng đã bị xử lý kỷ luật, cho thôi giữ các chức vụ.
Với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, trong thời gian qua, nhiều cán bộ đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta do thoái hóa, biến chất, tham nhũng đã bị xử lý kỷ luật, cho thôi giữ các chức vụ.
Ngày 26/4/2024, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đồng ý cho ông Vương Đình Huệ thôi giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, nhiệm kỳ 2021 – 2026 do đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chịu trách nhiệm người đứng đầu theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trước đó, vào ngày 20/3/2024, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã đồng ý để ông Võ Văn Thưởng thôi giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhiệm kỳ 2021 – 2026 do đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chịu trách nhiệm người đứng đầu theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Việc thay đổi nhân sự trong bộ máy lãnh đạo, quản lý là công việc bình thường của các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, trong mấy năm gần đây, thực hiện công cuộc chống “giặc nội xâm”, chúng ta đã cương quyết loại bỏ, đưa ra khỏi đội ngũ nhiều cán bộ thoái hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực. Trong số này có cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, cán bộ cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Việc loại khỏi đội ngũ những cán bộ thoái hóa biến chất như “chặt một cành sâu mọt để cứu cả cây”, “chặt một cây nhiễm bệnh để cứu cả rừng cây” với mục đích duy nhất là để Đảng ta trong sạch hơn, lãnh đạo đất nước tốt hơn, tăng thêm niềm tin của người dân với Đảng cầm quyền.
Tuy nhiên, lợi dụng các vụ việc trên, các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng mạng xã hội, báo chí nước ngoài xuyên tạc, thổi phồng, bôi đen sự thật, với luận điệu cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đang có sự thanh trừng, đấu đá nội bộ”; “ Việt Nam đang mất ổn định chính trị”… Chúng còn dự đoán “sắp tới ai sẽ lên… thớt”… Những thông tin này lại được một số người hiếu kỳ trong nước chuyển tiếp cho người khác, gây ra sự băn khoăn, trăn trở, lo lắng trong dư luận xã hội trong những ngày toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hân hoan chào đón ngày Chiến thắng 30/4, kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5 và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Có điều chắc chắn rằng, dù có thay đổi một số vị trí cán bộ, nhưng nền tảng tư tưởng của Đảng ta vẫn không thay đổi. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Cán bộ dù có thay đổi nhưng đường lối của Đảng ta, Cương lĩnh chính trị của Đảng ta vẫn không thay đổi. Bản chất của Nhà nước của chúng ta của dân, do dân và vì dân vẫn không thay đổi.
Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện gần 40 năm qua là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của Nhân dân. Thực tiễn đó khẳng định: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, cán bộ đảng viên, và kiều bào ta ở nước ngoài hôm nay đang đặt một niềm tin tuyệt đối vào quyết tâm chính trị, vào đường lối cách mạng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa – Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thành quả cách mạng mà chúng ta phải đánh đổi bằng biết bao xương máu của đồng bào, chiến sĩ người con đất Việt đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc để chúng ta có được hoà bình, thống nhất, độc lập và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước để có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của Việt Nam hôm nay chúng ta phải quyết giữ gìn.
Người dân Việt Nam hôm nay đang vững một niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng bởi lẽ đó cũng là vận mệnh của Tổ quốc, đất nước mình. Được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trải qua 94 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng không có lợi ích nào khác đó là vì đất nước phồn thịnh, vì hạnh phúc nhân dân. Lợi ích của quốc gia, dân tộc luôn được đặt lên trên hết, trước hết. Việc xử lý cán bộ cấp cao, thay đổi cán bộ nhưng không ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của đất nước, bởi lẽ, đường lối cách mạng của Đảng ta đã xác định trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng, Hiến Pháp của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công khai, minh bạch, đúng đắn, ổn định, kế thừa qua các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua gần 40 năm đổi mới đất nước. Thực tế Việt Nam hôm nay đang là một đất nước hoà bình, phát triển, ổn định về chính trị, là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia trên toàn cầu, vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 KHÔNG MẮC MƯU CỦA ĐỊCH, KHÍ PHÁCH CỦA QUÂN ĐỘI ANH HÙNG

1. Trong bối cảnh quốc tế đặc biệt phức tạp hiện nay, Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và nhân dân ta vẫn nhất quán khẳng định lập trường, quan điểm, mục tiêu, con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng, của đồng chí Tổng Bí thư; phản ánh tính đúng đắn, sáng tạo và sự nhất quán về đường lối đổi mới, đi lên CNXH mà Đảng ta đã khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII. Đồng thời, khẳng định rõ tình đoàn kết, sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu mà Đảng ta đã xác định để xây dựng quốc gia Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Thế nhưng, lợi dụng việc Đảng, Nhà nước ta tổ chức một số hội nghị bất thường để giải quyết các công việc phát sinh nhằm sớm ổn định tình hình, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới; ban hành các quyết sách về phát triển kinh tế - xã hội; một số người lại nghĩ sai trái về điều ấy, cố tình đồn thổi, đẩy tình hình đi sang hướng khác, gây bất lợi cho Đảng. Họ xuyên tạc rằng, “Việt Nam đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng”, “chính trị rối ren”, “con đường đi lên CNXH chỉ còn lại lời nói”, “Việt Nam đã đổi hướng, đổi màu”, “không thể thực hiện mục tiêu, con đường đi lên CNXH, vì nội bộ Đảng đang đấu đá nhau”... Hơn thế, một số người còn cho rằng, “Việt Nam đã “quay xe”, quyết định đi theo Mỹ và phương Tây”, “đã lựa chọn con đường TBCN”, “sắp gia nhập EU và khối NATO để khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế” và các nguy cơ khác.
Theo đó, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ từ bỏ chính sách quốc phòng “bốn không”, bởi “Việt Nam đã chọn phe”, “đi theo Mỹ và phương Tây”. Nhiều người còn cho rằng, quyết sách của Việt Nam là hợp lý vì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đích thân mời Tổng Mỹ J. Biden đến thăm Việt Nam vào nửa đầu tháng 9 năm 2023. Do đó, “Việt Nam đã quên quá khứ”; “chỉ hướng đến tương lai”, không còn coi Mỹ là “kẻ thù truyền kiếp”.
2. Những câu chuyện nêu trên thật khôi hài và nực cười, là sự bịa đặt xảo trá, mang tính chủ quan, chỉ là ý kiến của một số người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta. Nó chỉ dựa vào một vài sự kiện cụ thể có thật để đồn thổi, khuếch đại, biến “con muỗi thành con voi”, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan, chán ngán về CNXH do Đảng ta lãnh đạo.
Điều nguy hiểm nhất là nó xuất hiện trước ngày Đảng ta tổ chức Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII để bàn nhiều vấn đề quan trọng về bổ sung, hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, chuẩn bị các Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Đây là những quan điểm sai trái nhằm chỉ trích, xuyên tạc quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta một cách cực đoan về CNXH, phủ nhận hệ giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Qua đó, tạo ra dư luận xấu về CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, làm nhụt ý chí phấn đấu của quân và dân ta. Sự thâm thù, nguy hiểm của các luận điểm sai trái nêu trên là nó được tán phát vào trước và sau lúc Đảng, Nhà nước ta tổ chức các hội nghị thường niên để bàn luận và ban hành quyết sách mới nhằm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm 2024 - năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và chuẩn bị Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
3. Lấy cớ và thổi phồng một số hạn chế, khuyết điểm trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đặc biệt là công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang chĩa “nòng súng” vào việc xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta; phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của của Đảng và nhân dân ta. Cùng với đó, họ lợi dụng sự kiện có thật là Tổng thống J. Biden đến thăm Việt Nam cũng như nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước để đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN ở nước ta.
Phải nói cho rõ rằng, ở Việt Nam không bao giờ có chuyện “quay xe”, “đổi hướng”, “đổi màu”; các thế lực thù địch đừng hòng lợi dụng sự kiện nêu trên để phá hoại niềm tin của nhân dân ta vào Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Rõ ràng, việc phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sự thất bại cay đắng của các thế lực thù địch và bọn theo đuôi kẻ xấu. Nhân dân Việt Nam đã nhận diện rõ bộ mặt thật của các thế lực phản động. Đằng sau chiêu trò “ném đá giấu tay” là mưu đồ đen tối: chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc, bóp méo tính ưu việt của CNXH ở Việt Nam; cản trở nhân dân ta thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; lái nước ta đi theo con đường TBCN có lợi cho kẻ xấu.
Cần nói cho rõ rằng, việc nâng cấp mối quan hệ từ đối tác toàn diện thành đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ có tính lịch sử và nguyên tắc của nó; có lợi cho hai nước, hai dân tộc. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta không bao giờ từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta đã đổ máu, hy sinh qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược để bảo vệ vững chăc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc nên mới có được thành quả cách mạng ngày nay. Những việc làm của Đảng ta đều vì lợi ích quốc gia - dân tộc; vì hạnh phúc của nhân dân.
4. Ai đó cho rằng, việc nâng cấp mối quan hệ từ đối tác toàn diện thành đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ… là Việt Nam đã đổi hướng, đổi màu, đi theo con đường TBCN là vô căn cứ, hoàn toàn không đúng. Đó là mưu toan bóp méo sự thật đầy tính vu khống, cáo buộc cần phải loại bỏ.
Những người tuyên bố “giã từ CNXH” để đi theo CNTB, đi theo con đường của “các nước lớn”, “các nước phát triển” ở phương Tây đã trải qua với hy vọng Việt Nam mau chóng trở thành “con hổ, con rồng châu Á” chỉ là ý muốn chủ quan của họ; nó hoàn toàn sai lầm, xa lạ với Việt Nam. Đối với nhân dân ta, đi theo con đường CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là thực hiện chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, bởi vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự khái quát cao nhất cái đẹp của cuộc sống, hạnh phúc của con người, là sự chung đúc tất cả lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Ai đó cố tình kiếm cớ, viện dẫn chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ cùng với việc hai nước nâng cấp từ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược toàn diện để xuyên tạc bản chất của CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đương nhiên, họ đã đi ngược lại lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam.
Nhận thức rõ bối cảnh hiện thời là rất phức tạp, nhưng trước sau như một, Đảng, Nhà nước ta, Quân đội ta đã và đang làm mọi cách với nhiều biện pháp khả thi, tốt nhất, chắc chắn nhất để đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tiến lên. Vì vậy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội và nhân dân Việt Nam không bao tin vào sự đồn nhảm, sự xuyên tạc, bôi đen sự thật của các thế lực thù địch và đương nhiên không giờ tha thứ cho “những kẻ chọc gậy bánh xe”, chống phá sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH, phát triển đất nước vì hòa bình, phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân ta.
Tán phát quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc sự thật là vi phạm Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam, kẻ xấu nhất định sẽ bị trừng trị đích đáng. Vượt lên trên hết thảy mọi khó khăn, phức tạp, quyền tối cao quyết định vận mệnh quốc gia, sự thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, của cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước ta./.

 LUẬN ĐIỆU XẢO TRÁ, MƯU ĐỒ NHAM HIỂM KHI XUYÊN TẠC CUỘC CHIẾN CHỐNG THAM NHŨNG

Công cuộc chỉnh đốn đảng, phòng chống tham nhũng của Đảng ta ngày càng mạnh mẽ, hiệu quả, càng gây dựng thêm niềm tin ở nhân dân, thì các thế lực thù địch càng điên cuồng tìm mọi cách chống phá, bằng những chiêu trò, luận điệu xảo trá, bất chấp mọi thủ đoạn, hòng nhắm đến một mưu đồ đen tối và nham hiểm nhất.
Cứ mỗi khi “lò lửa” chống tham nhũng bỏ thêm những thanh củi sâu mục, thì y như rằng, một làn sóng dữ các luận diệu xuyên tạc, chống phá lại nổi lên khắp các trang mạng, diễn đàn phản động, thậm chí cả những kênh truyền thông lớn của nước ngoài. Dù núp dưới những cái mác như “nhận diện”, “dự báo”, hay tung thẳng những tiêu đề, bài viết, ảnh, video chụp mũ, xuyên tạc thì nội dung thù địch về công cuộc chống tham nhũng của Đảng ta cũng thường xoay quanh một số luận điệu chính, được ra rả nhai đi nhai lại hết năm này qua năm khác, với dã tâm không khác.
Thứ nhất, bọn chúng rêu rao nỗ lực phòng chống tham nhũng ở Việt Nam, với những biểu hiện như các quyết định “truy tố”, “xét xử”, “miễn nhiệm”, “thôi chức”, chỉ là bức bình phong cho tình trạng “đấu đá nội bộ”, “thanh trừng phe phái” hay “tranh giành quyền lực chính trị”. Mới đây, khi vừa có tin một lãnh đạo Văn phòng Quốc hội bị bắt, đài VOA Tiếng Việt ngày 24/4 lập tức rêu rao “cuộc chiến đấu giành quyền lực đang nóng lên”. Và sau khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng ý cho thôi giữ các chức vụ được phân công với một đồng chí lãnh đạo cấp cao, thì khắp các kênh thông tin hải ngoại như: Đài châu Á tự do (RFA), VOA Việt ngữ, Việt báo, Thoibao.de, hay các trang fanpage của Việt Tân, Tiếng Dân, các trang blogger phản động… tràn ngập thông tin bình luận, xuyên tạc. Bọn chúng tái diễn luận điệu vu khống quen thuộc cho rằng đây là kết quả của việc “tranh giành quyền lực”, “nhận định” kiểu “ngậm máu phun người” rằng phe này đang tìm cách triệt hạ phe kia để “tranh giành ghế”, “mở đường chiếm quyền lực”.
Nhưng trên thực tế, trước khi có các quyết định chính thức của Đảng và Nhà nước, Ban Chấp hành Trung ương đã thông báo công khai việc đồng chí lãnh đạo vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm; quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; và nhận thức rõ trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân, đồng chí đã có đơn xin thôi giữ các chức vụ được phân công. Việc cho “thôi chức” đối với cán bộ cấp cao thể hiện đúng chủ trương của công tác cán bộ là “có lên, có xuống, có vào, có ra”, hướng tới văn hóa “từ chức” để thể hiện tính liêm sỉ, đề cao giá trị “công bộc” của người cán bộ, đảng viên. Việc một lãnh đạo từ chức khi cấp dưới, hoặc lĩnh vực mà mình quản lý có sai phạm cũng là hành động thường thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, với những kẻ có dã tâm, thì việc một cán bộ cấp cao từ chức đã bị bọn chúng xuyên tạc, bịa đặt vô căn cứ về “cuộc chiến quyền lực”, kích động sự hoài nghi, hoang mang, dao động trong dư luận xã hội.
Hơn nữa, Đảng và Nhà nước ta đã xác định tham nhũng là “giặc nội xâm”, cản trở tiến trình phát triển của đất nước, thậm chí là một trong các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Vì thế, chủ trương của đảng là huy động sự nỗ lực quyết tâm của cả hệ thống chính trị, cả quốc gia, dân tộc để kiên quyết đấu tranh loại bỏ hiện tượng này ra khỏi đời sống xã hội. Đó hoàn toàn không phải là thanh trừng nội bộ hay tranh giành quyền lực như các thế lực thù địch đã rêu rao.
Luận điệu xảo trá nguy hiểm thứ hai là “phòng, chống tham nhũng sẽ làm suy yếu nền kinh tế”, khiến các hoạt động kinh tế bị tê liệt. Ngày 28/3 vừa qua, trang web và fanpage của Đài Châu Á Tự do (RFA) đăng bài viết khẳng định: “Hai chủ tịch nước rớt chức trong một năm là tín hiệu đáng lo ngại cho nhà đầu tư nước ngoài”. Trước đó, ngày 28/11/2022, RFA cũng đăng bài với nội dung vô căn cứ cho rằng: “Cuộc chiến chống tham nhũng rộng khắp của Đảng Cộng sản Việt Nam đang khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu”. Đài VOA tiếng Việt hôm 29/11/2022 rêu rao: Chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam làm tê liệt chuỗi cung ứng đầu tư, tê liệt nhiều giao dịch thông thường trong nước, gây ra tình trạng thiếu hàng hóa thiết yếu và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.
Tuy nhiên, luận điệu này là hoàn toàn không có cơ sở, bởi chính tham nhũng mới là tệ nạn kéo lùi sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Chính tham nhũng làm hủy hoại uy tín, môi trường đầu tư của đất nước, làm giảm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; gây thất thoát nghiêm trọng tài sản của nhà nước của nhân dân, gây rối loạn nền kinh tế… Dù ở chế độ nào, XHCN hay TBCN thì chính quyền cũng phải ưu tiên phòng chống tham nhũng, nhằm mở đường cho phát triển đầu tư, kinh tế, ổn định xã hội. Cuộc chiến chống tham nhũng được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm, đặc biệt là ở các nền kinh tế hàng đầu như Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU). Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore đều có các cơ chế kiểm soát, chống tham nhũng nghiêm ngặt. Do đó, hoàn toàn không có cơ sở nào cho luận điệu xảo trá rằng cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng đang làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế. Trái lại, trên thực tế, những nỗ lực phòng chống tham nhũng đã góp phần làm ổn định nền kinh tế - xã hội; củng cố, vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế, đưa Việt Nam trở thành thị trường có sức hút lớn với nhà đầu tư nước ngoài.
Một luận điệu khác được các thế lực xoáy đến là “lò lửa” chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí” cán bộ, đảng viên, làm “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, từ đó kìm hãm sự phát triển đất nước. Nhưng trên thực tế, không ai có thể phủ nhận cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của đảng và Nhà nước ta đã tạo hiệu ứng tích cực trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Đảng và chính quyền ta càng trong sạch thì sức mạnh và uy tín càng được củng cố, nội bộ càng đoàn kết, thống nhất. Việc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng chỉ làm "chùn bước" những kẻ có động cơ không trong sáng, hay tay đã trót "nhúng chàm".
Cuối cùng, “ngón nghề” quỷ quyệt, đen tối nhất trong các luận điệu chống phá, thù địch thì phải kể đến việc bọn chúng tung ra những lập luận xảo trá, ngụy biện cho rằng tham nhũng là bản chất của chế độ XHCN, là căn bệnh nan y của “chế độ độc đảng cầm quyền”, rằng “chế độ một đảng sẽ không thể chống được tham nhũng”. Chúng lớn tiếng hô hào, “chỉ tự do chính trị mới giúp Việt Nam chống được tham nhũng” và vu cáo rằng công tác phòng chống, tiêu cực ở Việt Nam chỉ là “chiêu trò mị dân”. Đây được coi là “át chủ bài” của hoạt động chống phá, nhắm đến mưu đồ đen tối nhất là thúc đẩy “tự diễn biến”, tự chuyển hóa”, kích động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.
Rõ ràng tung ra những luận điệu nham hiểm, trắng trợn như vậy, bọn chúng cố tình bỏ qua một vấn đề lý luận đã quá rõ ràng rằng: tham nhũng là sản phẩm của xã hội có giai cấp và nhà nước, là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Tham nhũng được sinh ra tại nơi có quyền lực tồn tại, trong bất kỳ thời điểm lịch sử nào, không phân biệt chế độ nhà nước đó là gì, thể chế chính trị là đa đảng hay độc đảng. Và một thực tế hiển nhiên là, tham nhũng vẫn đang là vấn nạn ở mọi quốc gia, mọi chế độ trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta luôn nhận diện đúng về tham nhũng, nhìn thẳng vào thực tế, không phủ nhận tham nhũng vốn đã và đang tồn tại như một thứ “giặc nội xâm”, từ đó, nhất quán quan điểm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng; huy động quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” để chống tham nhũng. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh rất nhiều vụ án, đại án tham nhũng, tiêu cực. Rõ ràng Đảng ta không chỉ có quyết tâm chống tham nhũng mà còn có đủ năng lực chống tham nhũng hiệu quả.
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực “đã trở thành phong trào, thành xu hướng không thể đảo ngược”, thể hiện quyết tâm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta. Khi đảng viên và quần chúng nhân dân đã đặt niềm tin vào công cuộc đó, thì bất kỳ luận điệu chống phá, xuyên tạc nào cũng trở nên lạc lõng, lố bịch.

Phản bác luận điệu xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng

 Mới đây, trên nhiều trang mạng phản động, Nguyễn Huyền đã đăng bài viết

“Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và những lỗ hổng” với nội dung xuyên tạc

nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Tác giả đã suy diễn

rằng, có nhiều “lỗ hổng” trong thực hiện nguyên tắc này trên thực tế như: “cá nhân

người đứng đầu hoặc nhóm thiểu số quyền lực lấn át tập thể”, rằng việc thảo luận, biểu

quyết trong Đảng chỉ là “theo ý định có sẵn” và “những ý kiến thuộc về thiểu số sẽ bị

loại bỏ hoặc ngăn chặn” … Đây là những lập luận phi khoa học, phi thực tiễn, mang ý

đồ chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam. Cần thấy rằng:

Thứ nhất, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc rường cột để xây dựng

Đảng thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa

tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức. Nguyên tắc đó quy định cơ cấu, hình thức tổ

chức của Đảng, phương thức, chế độ thiết lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng, xác lập

các quy tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Nguyên tắc này chi phối các

nguyên tắc khác, làm cho Đảng được xây dựng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ,

có sức chiến đấu cao. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa phát huy được

tính tích cực, chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức

đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức mạnh vật chất của toàn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí

Minh khẳng định: Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người.

Sức mạnh của Đảng là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Sự

thống nhất giữ nguyên, có thể vững chắc và biến thành hiện thực khi được bảo đảm

bằng sự thống nhất về mặt tổ chức thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

Tập trung dân chủ là cơ sở của kỷ luật đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự là một chỉnh

thể có tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới cơ sở.

Thứ hai, thực tiễn 94 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã khẳng định, Đảng

Cộng sản Việt Nam là một tổ chức thống nhất ý chí và hành động, không gì chia rẽ

được. Đảng không dung thứ cho sự tồn tại của các phe nhóm, bè phái, “lợi ích nhóm”.

Đảng lấy tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật tồn tại và

phát triển của Đảng. Những vi phạm của một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền

vừa qua chỉ là hiện tượng, không phải bản chất, đó chỉ là những con sâu, mọt bị tha hóa,

đã được Đảng sử dụng quyền lực tập trung dân chủ xử lý nghiêm minh, thích đáng, có

tác dụng răn đe, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên, góp phần giữ vững niềm tin của nhân dân

đối với Đảng. Bên cạnh đó, trong nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số

là quy định bắt buộc, một trong những nội dung cốt lõi, đặc trưng của tập trung trong

Đảng, thể hiện ý chí, sức mạnh tập thể, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Điều lệ

Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: “Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp

trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu

toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương”. Đồng thời, trong nội dung nguyên tắc tập

trung dân chủ đã quy định chế độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số. Do đó, không thể nói

nguyên tắc tập trung dân chủ làm triệt tiêu cái mới, cái sáng tạo. Trên thực tế, nhiều ý

kiến thuộc về thiểu số được bảo lưu, bảo đảm quyền của đảng viên.

Thực tiễn quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam và thực hành nguyên

tắc tập trung dân chủ của Đảng ta là minh chứng hùng hồn bác bỏ mọi luận điệu xuyên

tạc vô căn cứ của Nguyễn Huyền./.

MẶC DÙ THẾ GIỚI CÓ NHIỀU BIẾN ĐỔI, NHƯNG THỜI ĐẠI MỚI TỪ CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA KHÔNG THAY ĐỔI

 Ngay từ khi cuộc Cách mạng Tháng Mư­ời Nga thành công, đã có không ít kẻ bôi

nhọ, xuyên tạc, phủ nhận giá trị và ý nghĩa thế giới của cuộc Cách mạng vĩ đại này.

Ngày nay, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nư­ớc xã hội

chủ nghĩa Đông Âu, những kẻ cơ hội và những lý luận t­ư sản lại lớn tiếng thoá mạ, bôi

nhọ, phủ nhận giá trị và ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng M­ười. Chúng mô tả

những gì diễn ra trong Tháng Mư­ời năm 1917 ở nước Nga nh­ư là “một sự kiện ngẫu

nhiên”, “là sự chệch h­ướng lịch sử”, nh­ư là “một đứa trẻ bất hợp pháp”; Cách mạng

Tháng M­ười chỉ là một thứ “đẻ non”! Và, nó “đã chết”… Cho dù các thế lực thù địch

luôn cố tình phủ nhận, xuyên tạc lịch sử, song chúng cũng không thể làm lu mờ được

giá trị và ý nghĩa trường tồn của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Nhân loại tiến bộ luôn ghi nhận, biết ơn Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917

– một sự kiện vĩ đại có ý nghĩa đột phá, mở đường để nhân loại tiến vào một chế độ xã

hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa tiến bộ, nhân văn, tất cả vì con người, sự phát triển

toàn diện của con người. Thực tiễn cho thấy, tuy còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng

các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã vượt qua cơn chấn động chính trị, kiên cường đấu

tranh để trụ vững và phát triển. Các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ

nghĩa còn lại đã “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tôn trọng thực tế khách

quan”, “kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn

mỗi nước” để đề ra đường lối cải cách, đổi mới đúng đắn, phù hợp với điều kiện và

hoàn cảnh của nước mình, phù hợp với xu thế thời đại. Sự kiên cường và phát triển mới

của các nước xã hội chủ nghĩa đã thực sự trở thành tấm gương sáng cho những người

cộng sản và nhân loại tiến bộ trên thế giới trong đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,

dân chủ và tiến bộ xã hội. Bằng chứng là, trong những năm qua, tuy trong hoàn cảnh

còn nhiều khó khăn, nhưng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có những bước

phục hồi và có sự phát triển. Nhiều Đảng công sản đã thông qua cương lĩnh chính trị,

đánh dấu sự thoát ra khỏi khủng hoảng về đường lối. Trước những biến động của thời

đại, nhân loại càng khẳng định những giá trị tốt đẹp và bản chất nhân văn của chủ nghĩa

cộng sản, điều mà mọi người, mọi quốc gia, dân tộc đều hướng tới. Điều đó khẳng định:

Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn tiếp tục soi sáng con đường phát triển của cách mạng

thế giới, chứ không như một số người lầm tưởng.

Hơn 100 năm đã trôi, qua kể từ khi tiếng súng của cuộc Cách mạng Tháng Mười

Nga rền vang, nhân loại đã chứng kiến biết bao biến cố thăng trầm, phức tạp. Nhưng

một sự thật lịch sử không thể phủ nhận được là với việc thủ tiêu chế độ phản động câu

kết giữa giai cấp tư sản và phong kiến Sa hoàng, khai sinh nhà nước công nông đầu tiên

trên thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga – Cuộc cách mạng làm “rung chuyển thế

giới” vẫn là một trong những sự kiện bước ngoặt trọng đại nhất của sự phát triển xã hội

loài người, mở ra một con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động

khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng một thế giới mới công bằng và tiến bộ. Cách mạng

Tháng Mười Nga vẫn vẹn nguyên giá trị trường tồn với nhân loại và thời đại ngày nay./.

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA ĐÃ CHỈ RA CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 Trong quá trình tìm đường cứu dân tộc khỏi ách thống trị của bọn thực dân,

phong kiến, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến

với Cách mạng Tháng Mười. Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách

mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái

hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ

nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”[6]. Bởi vì, “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại đã

làm rung chuyển cả thế giới, trong đó có Việt Nam”[7]. Từ đó, Người đi đến nhận thức

về con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam: muốn cách mạng thành công thì phải đi

theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, cuộc cách mạng lấy quần chúng nhân dân

làm gốc và giải phóng triệt để quần chúng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là con

đường gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt

Nam với xu thế thời đại.

Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng đã khẳng định đường

lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo Cách mạng Tháng

Mười Nga, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Dưới ánh

sáng soi đường của Cách mạng tháng Mười Nga, với đường lối đúng đắn, Đảng ta đã

lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua

muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của

Cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập

nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự

do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng

Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống

nhất đất nước; thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới

phía Bắc của Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả; tiến hành công cuộc đổi mới

đất nước đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử./.

CÁCH MẠNG THÁNG M­ƯỜI NGA KHẲNG ĐỊNH CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TỪ LÝ LUẬN TRỞ THÀNH HIỆN THỰC

 Chế độ Xô viết và chủ nghĩa xã hội hiện thực – thành quả của Cách mạng Tháng

M­ười đã có những cống hiến to lớn đối với sự phát triển của xã hội loài ng­ười. Ngày

nay, mặc dù chủ nghĩa xã hội hiện thực trên quê h­ương của Cách mạng Tháng Mư­ời

và ở Đông Âu đã đổ vỡ, như­ng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là những thành quả,

ảnh h­ưởng, giá trị và ý nghĩa của Cách mạng Tháng M­ười không còn nữa. Những gì

đã và đang diễn ra trong không gian hậu Xô viết đã chứng minh trên thực tế sự nghiệp

của Cách mạng Tháng M­ười vẫn đang sống trong lòng nhân dân ngay tại các n­ước mà

chế độ xã hội chủ nghĩa ở đó bị đổ vỡ. Chỉ đến bây giờ, sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã

hội, những người lao động ở Nga và các xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đang ngày

càng ý thức ra việc họ đã có được những gì và đã bị mất đi những gì. Đồng thời, sự

phục hồi các đảng cộng sản ở những n­ước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng như sự

thắng thế của các tư tưởng tiến bộ, dân chủ ở nhiều nước trên thế giới hiện nay càng

khẳng định bản chất cách mạng, nhân văn của Cách mạng Tháng M­ười.

Những biến đổi sâu sắc chưa từng có trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của

n­ước Nga Xô viết sau Cách mạng Tháng M­ười đặt nền móng hiện thực cho sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải quyết thành công những vấn đề hết sức cấp bách của

xã hội loài người nh­ư: vấn đề chiến tranh và hòa bình, dân tộc, tôn giáo; đã đoàn kết

đ­ược mọi dân tộc, mọi tầng lớp, mọi giáo phái thực hiện lý t­ưởng chung là xây dựng

một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại độc lập, tự do của các dân tộc và

hạnh phúc cho tất cả quần chúng lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa

xã hội, chủ nghĩa cộng sản từ chỗ chỉ là một ­ước mơ cao đẹp của loài ng­ười, sau Cách

mạng Tháng M­ười vĩ đại trở thành một hiện thực trong xã hội, có sức mạnh vô cùng to

lớn, lôi cuốn hàng nghìn triệu ng­ười vào hành động cách mạng, vì hoà bình, độc lập

dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”./.

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ HÒA BÌNH, HỮU NGHỊ GIỮA CÁC DÂN TỘC

 Cách mạng Tháng Mười Nga bắt đầu chuyển sang một hệ thống xã hội tiến bộ

hơn, hệ thống chủ nghĩa xã hội mà loài người luôn mơ ước; tạo ra trong đời sống một

hình thái mới của hệ thống chính trị. Từ “chiếc nôi nước Nga”, chế độ xã hội chủ nghĩa

được xây dựng ở nhiều không gian địa – chính trị trọng yếu, thu được những thành tựu

to lớn. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành một thực thể quan trọng, cấu thành nền chính trị

thế giới và tác động sâu rộng đến quan hệ quốc tế. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã

nhân lên sức mạnh của phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh và nguy

cơ chiến tranh, góp phần củng cố, phát triển tình hữu nghị và sự hợp tác giữa các dân

tộc. Với bản chất yêu chuộng hòa bình và để thoát ra khỏi tình thế nguy ngập trong

cuộc chiến tranh, ngay khi cách mạng vừa thành công, Chính quyền Xô viết đã ra “Sắc

luật hòa bình” lên án cuộc chiến tranh đế quốc đang diễn ra và kêu gọi các nước tham

chiến ở cả hai bên hãy nhanh chóng đàm phán, ký kết một hòa ước chấm dứt chiến

tranh. Đồng thời, không thể tiếp tục cuộc chiến tranh phi nghĩa và hao tổn tiềm lực quốc

gia, Chính phủ Xô viết quyết định đàm phán với đế quốc Đức để rút khỏi chiến tranh.

Bên đạnh đó, ngay sau Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, Chính quyền Xô viết đã công

bố bản “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc Nga” khẳng định những nguyên tắc cơ

bản của Chính quyền Xô viết đối với vấn đề dân tộc là: Bình đẳng và chủ quyền của các

dân tộc; các dân tộc nước Nga được quyền tự quyết một cách tự do, kể cả việc tách ra

và thành lập các quốc gia độc lập; xóa bỏ tất cả các đặc quyền và hạn chế về dân tộc và

tôn giáo – dân tộc; các dân tộc thiểu số và các nhóm nhân chủng sống trên lãnh thổ

nước Nga được phát triển tự do. Đó là những nguyên tắc pháp lý quan trọng về vấn đề

dân tộc. Đồng thời khẳng định những cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của chủ

nghĩa xã hội được xây dựng là tiền đề xóa bỏ ách áp bức giai cấp, nô dịch dân tộc, tạo

sự bình đẳng, đoàn kết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc.

Có thể nói: kiên định và giữ vững những nguyên tắc về hòa bình, bình đẳng, hữu

nghị giữa các dân tộc từ Cách mạng Tháng Mười, trong hơn 70 năm tồn tại, mặc dù

phải đối diện với những khó khăn, thách thức nhưng Nhà nước và nhân dân Xô viết

luôn lựa chọn mục đích hướng tới hòa bình, dân chủ. Chính ngọn cờ hòa bình được nêu

cao từ Cách mạng Tháng Mười, được Liên Xô kế tục là một nhân tố có vai trò quyết

định ngăn chặn cuộc chiến tranh thế giới mới và hạn chế bớt những cuộc chiến tranh

xâm lược cục bộ do chủ nghĩa đế quốc gây ra./.

CÁCH MẠNG THÁNG M­ƯỜI NGA LÀ MỘT MẪU MỰC KIỆT XUẤT VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ SÁCH LƯ­ỢC TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG

 V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô đã giải quyết thành công những vấn đề cơ

bản có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong cách mạng vô sản. Đó là xác lập và không

ngừng củng cố quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân – giai cấp tiên tiến nhất

gắn liền với nền sản xuất hiện đại, tiêu biểu cho con đ­ường đi lên của lịch sử, ng­ười

đại biểu chân chính nhất quyền lợi của nhân dân lao động thông qua chính Đảng kiểu

mới của mình. Xây dựng một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân tuyệt đối trung

thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, thống nhất về tư­ t­ưởng, tổ chức và hành động. Xây

dựng khối liên minh công nông vững chắc, kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng phong trào

cách mạng xã hội chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các dân tộc

bị áp bức. Sử dụng mọi biện pháp và hình thức đấu tranh cách mạng, tạo thành một sức

mạnh tổng hợp, tạo thời cơ và chớp thời cơ đánh đổ kẻ thù, giành lấy chính quyền về

tay công nông.

Có thể khẳng định: Cách mạng Tháng M­ười Nga là bài học sinh động về sự vận

dụng linh hoạt, tài tình và sáng tạo lý luận bạo lực cách mạng và khởi nghĩa giành chính

quyền. Đây là một cuộc cách mạng có tính chất nhân dân sâu sắc, là sự nổi dậy của

quảng đại quần chúng cần lao dư­ới khẩu hiệu “công nông binh liên hiệp”, kết hợp chặt

chẽ và linh hoạt lực l­ượng vũ trang và lực l­ượng chính trị, tạo thành bạo lực cách

mạng to lớn đủ sức đập tan bạo lực phản cách mạng, giành và bảo vệ chính quyền nhân

dân. Đó là những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa phổ biến đối với tất cả các nư­ớc trong

quá trình tiến hành cách mạng vô sản. Đó cũng là những vấn đề có ý nghĩa thời sự nóng

hổi trong sách lư­ợc, chiến l­ược cách mạng của thời đại ngày nay./.

GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA

 Cách mạng Tháng Mười Nga là mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử,

mở ra thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Với Việt

Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt dân tộc ta đứng lên

đấu tranh giành độc lập, xây dựng chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa. Đúng như lời

khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng

Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc

lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to

lớn và sâu xa như thế”. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, loài người đã chứng kiến biết bao

thăng trầm, biến cố phức tạp của lịch sử, nhưng tầm vóc vĩ đại, giá trị, ý nghĩa của Cách

Mạng tháng Mười Nga vẫn đã, đang và sẽ vẹn nguyên giá trị, tiếp tục vang mãi.

Cách mạng Tháng Mười Nga khác hẳn về chất so với các cuộc cách mạng trước

đó vì nó xóa bỏ mọi hình thức bóc lột, người lao động trở thành người chủ của xã hội và

của chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười là thắng

lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác và học thuyết Lênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng

một phần sáu thế giới. Đó là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân

lao động và các dân tộc bị áp bức do giai cấp công nhân và đội quân tiên phong của họ

là Đảng Bônsêvích lãnh đạo. Cách mạng Tháng Mười đã dùng bạo lực cách mạng đánh

đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính quyền của những người

lao động, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, một xã hội không có người bóc lột

người”. Nhờ Cách mạng Tháng Mười, lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp công nhân

Nga thoát khỏi ách áp bức bóc lột của tư bản bằng việc tước đoạt và biến các tư liệu sản

xuất của bọn chủ tư bản thành tài sản xã hội; giai cấp nông dân Nga thoát khỏi ách áp

bức bóc lột của giai cấp địa chủ, phong kiến bằng việc ban bố và thi hành sắc lệnh về

ruộng đất, tịch thu ruộng đất của địa chủ giao cho nông dân. Cách mạng Tháng Mười

cũng đã giải thoát cho các dân tộc bị áp bức khỏi nhà tù của chế độ Nga Hoàng bằng

việc thi hành chính sách dân tộc theo tinh thần quốc tế vô sản, tôn trọng quyền tự quyết

và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Nói về Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin cho

rằng: “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được

bắt đầu xây dựng nhà nước Xô viết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế

giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư

bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản,

tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản,

khỏi những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa”. Cách mạng Tháng Mười Nga là “ngọn

đuốc” soi đường, chỉ lối cho giai cấp công nhân vững niềm tin bước lên vũ đài chính trị

với tư cách là giai cấp trung tâm của thời đại – “hạt nhân” của phong trào cách mạng thế

giới; cổ vũ, động viên nhân dân cần lao ở các nước thuộc địa, phụ thuộc đứng lên đấu

tranh giành độc lập dân tộc; làm cho “bão táp cách mạng” từ châu Âu lan tỏa nhanh

chóng và mạnh mẽ sang châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, khiến cho giai cấp tư

sản vô cùng hoảng sợ, buộc phải lùi bước, xuống thang và điều chỉnh để tồn tại.

Có thể khẳng định: Cách mạng Tháng Mười Nga thành công có một ý nghĩa vô

cùng trọng đại đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa trên thế

giới; là động lực to lớn, thúc đẩy, lôi cuốn, cổ vũ, động viên hàng loạt nước trên khắp

các châu lục đã tiến hành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc, giành được độc lập.

Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, phong trào giải phóng dân tộc ở các châu

lục bắt đầu chuyển sang một bước ngoặt mới với nội dung, tính chất và xu hướng phát

triển mới. Bởi, “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc

và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư

bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”. Giai cấp vô sản lên nắm quyền lãnh đạo;

lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ

nam cho mọi hành động; thực hiện mục tiêu là làm cách mạng dân chủ triệt để rồi tiến

thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

RFA LẠI LỢI DỤNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA ĐỂ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 94 năm qua, văn hóa Việt Nam đã trở thành động lực

to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hòng

phủ nhận thực tế đó, mới đây RFA đã đăng bài viết “Văn hóa do Đảng lãnh đạo có là

nhu cầu văn hóa của dân?”. Nội dung bài viết truyền bá, kích động phần tử cực đoan,

phản động lưu vong tiếp tục đấu tranh hòng xóa bỏ đi những giá trị văn hóa truyền

thống tốt đẹp của dân tộc, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Trong bài viết, RFA đã trích dẫn một số nhận định của Nguyễn Ngọc Già, đối

tượng bị Tòa Án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên án 4 năm tù giam và 3 năm

quản chế với cáo buộc “tuyên truyền chống Nhà nước”. Y cho rằng, “dưới sự lãnh đạo

của Đảng, nền văn hóa Việt Nam không có nguồn cội bởi vì dựa trên chủ nghĩa Mác –

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là đấu tranh giai cấp chuyên chính vô sản”. Đây là nhận

định xuyên tạc, bôi nhọ về nguồn gốc nền văn hóa Việt Nam. Thực tế cho thấy, văn hóa

Việt Nam đã được hun đúc từ nhiều nguồn: văn hóa truyền thuyết thời kỳ các Vua Hùng

dựng nước, văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, văn hóa các tôn giáo, văn

hóa phương Đông, phương Tây. Đặc biệt, từ khi Đảng ta xác định giải phóng dân tộc

Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, đã mở đầu cho hai nguồn văn hóa mới: văn

hóa Mác-xít và văn hóa Hồ Chí Minh.

Nhìn về lịch sử, từ khi Ðảng Cộng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư

tưởng và kim chỉ nam cho hành động thì văn hóa Mác-xít đã trở thành nguồn văn hóa

chủ đạo trong nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa Mác-xít đã góp phần xây dựng phương

pháp tư duy khoa học về thế giới, lịch sử, lẽ sống con người, làm cho văn hóa Việt Nam

mang tính hiện đại; văn hóa Mác-xít đã thổi bùng lên ý thức về sứ mệnh lịch sử của giai

cấp công nhân Việt Nam, ý thức về sức mạnh to lớn của nhân dân lao động chân tay và

trí óc Việt Nam trong cuộc đấu tranh để giành, giữ vững và xây dựng chính quyền, ý

thức về con đường đi đến một thế giới đại đồng Cộng sản, nơi con người được sống thật

sự là Người trong xã hội.

Nguồn văn hóa Hồ Chí Minh, là sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa văn hóa

cổ truyền của dân tộc với những nhân tố tích cực trong văn hóa các tôn giáo, những tinh

hoa văn hóa phương Tây và phương Ðông, cùng với văn hóa Mác-xít, trở thành nguồn

văn hóa đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa Hồ Chí Minh là nguồn văn hóa về

phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, vì độc lập

cho đất nước vì tự do hạnh phúc cho nhân dân, chăm bồi môi trường thiên nhiên và môi

trường xã hội lành mạnh cho cuộc sống con người, bảo vệ hòa bình hữu nghị giữa các

dân tộc và tình đoàn kết quốc tế, “bốn phương vô sản đều là anh em…”.

Mô hình xây dựng nền văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam là nền văn hóa

“tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Việc RFA lợi dụng những nhận định “ngớ ngẩn”

của kẻ bán nước cầu vinh Nguyễn Ngọc Già để xuyên tạc, bôi nhọ nền văn hóa Việt

Nam, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam là hành động không thể

chấp nhận được./.