Lời khẳng định thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của Bác trước nhân dân ta, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được, thể hiện lập trường kiên định về độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải hy sinh gian khổ, song quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập.
Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024
Lời Bác dạy về động cơ vào đảng của cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập, rèn luyện Đảng ta đã khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” và “vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân”. Chính vì vậy, việc xác định động cơ vào Đảng ở mỗi quần chúng là rất quan trọng.
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước Việt Nam hướng đến là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI XHCN
Về nền kinh tế thị trường, đã được hình thành và phát triển từ lâu trong lịch sử nhân loại. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển; và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
"Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu”...
Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt và sự quan tâm
ân cần đến sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam. Bác dành rất nhiều tâm huyết
cho việc tổ chức, dẫn dắt các thế hệ thanh niên đến với cách mạng, tham gia vào
quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…
Trong thư gửi thanh niên Việt Nam, tháng 4-1951, Bác viết: “… Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức cách mạng”
GIỮ GÌN DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Danh dự làm nên phẩm hạnh con người, là thước đo giá trị của mỗi người trong xã hội. Với một người bình thường, danh dự đã là cao quý. Là cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, quản lý, danh dự càng cao quý, thiêng liêng. Bác Hồ vẫn thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn giữ gìn, bồi đắp đạo đức, nhân cách. Người căn dặn: "Hạnh dục phương", nghĩa là đức hạnh, đạo đức phải vuông vắn, ngay thẳng, không làm điều gì khuất tất. Phải tránh xa những thói xấu “lười biếng, gian giảo, tham ô”. Phải biết sống “ngay thẳng, không có việc gì phải giấu Đảng”, “không tham địa vị. Không tham tiền tài”... Đó là phẩm chất, đức hạnh, danh dự của người cộng sản. Cán bộ, đảng viên phải biết giữ “thanh danh của Đảng” và “danh giá của mình”.
"Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một"
Ngày 7-4-1965, với bút danh là Lê Nông, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài “Chúng ta rất có thể đạt hơn 5 tấn thóc cả năm/một héc-ta” để biểu dương một số hợp tác xã đã đạt chỉ tiêu này và khẳng định có thể đạt năng suất cao hơn nữa nếu quan tâm đến việc cải tiến khoa học - kỹ thuật, thực hành cần kiệm xây dựng và tự lực cánh sinh, chi bộ lãnh đạo chặt chẽ, đảng viên gương mẫu xung phong, xã viên đoàn kết nhất trí. “Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một”.
Đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì đã rõ. Nếu học tập mà không làm theo thì chỉ có hiểu biết trên giấy tờ. Học tập và làm theo là học đi đôi với hành. Học mà không hành thì chỉ là học suông, nói suông. Việc đẩy mạnh “Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã được phát động và thực hiện trong Đảng, trong dân ta từ lâu, không phải chỉ mấy nhiệm kỳ Đại hội của Đảng gần đây. Trong phong trào thi đua xây dựng Đời sống mới, Bác Hồ đã nói: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc.
Tỉnh táo nhận diện luận điệu sai trái phản động để có hành động đúng đắn
Thứ nhất là, cần phải thấy rõ những thành tựu nổi bật của Việt Nam trên tất cả lĩnh vực, cùng với đó là uy tín quốc tế rất cao của đất nước ta trong những năm qua, từ đó hiểu được giá trị và vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay, phổ biến, lan tỏa ra quần chúng nhân dân.
Thứ hai là, nhận thức được ý nghĩa quan trọng của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đối với sự bền vững của Đảng, của đất nước, từ đó thêm kiên trì, quyết tâm và tin tưởng tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh này.
Thứ ba là, cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ. Cần loại trừ mọi biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Cũng rất cần tránh mọi biểu hiện “cua cậy càng, cá cậy vây”, hành động không vì lợi ích chung của Đảng, của đất nước, của nhân dân mà chỉ vì lợi ích cục bộ ích kỷ của bộ, ngành, cơ quan của mình và cá nhân mình. Nhân dân ta rất tinh tường, luôn phân biệt được rất rõ tốt-xấu, thật-giả. Cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ rằng: Sức mạnh vô song của Đảng ta, của đất nước ta chính là nhờ niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước, từ đó đoàn kết được toàn thể dân tộc, toàn thể nhân dân.
Thứ tư là, cần nhận thức rõ giá trị của ổn định chính trị đối với sự phát triển của đất nước; từ đó, trong mọi lời nói và việc làm nên hết sức cân nhắc, tránh tạo những tác động bất lợi.
Thứ năm là, không xem, không tin, không tán phát thông tin trên các trang mạng của thế lực thù địch, phản động, các thông tin chưa được kiểm chứng.
Cần khẳng định rằng, ổn định chính trị là vốn quý để phát triển đất nước. Tuy nhiên, ổn định chính trị không phải là thứ tài nguyên trời ban mà là nhờ năng lực và uy tín lãnh đạo của Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ vấn đề này để có hành động đúng đắn nhằm giữ vững ổn định chính trị vì sự phát triển bền vững của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
Cán bộ, đảng viên cần gương mẫu, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Cán bộ, đảng viên cần gương mẫu, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta quyết liệt thực hiện cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để loại bỏ các biểu hiện suy thoái, làm trong sạch Đảng, trong sạch bộ máy Nhà nước để giữ vững niềm tin của nhân dân, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Cuộc đấu tranh ấy được đại bộ phận nhân dân và dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ và đã mang lại những hiệu quả rất tích cực. Tuy nhiên, trong xã hội thời gian qua cũng xuất hiện những lo ngại về việc “đánh chuột làm vỡ bình” khi cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện quyết liệt, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”.
Các thế lực thù địch đang tăng cường rêu rao các thông tin xuyên tạc rằng: “Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua chẳng qua là tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng”, họ gieo rắc những đồn đoán, suy luận thiếu căn cứ rằng sắp tới sẽ có thêm lãnh đạo A, lãnh đạo B bị xử lý… hòng gây hoang mang trong nhân dân. Rồi họ kết luận xằng bậy rằng “nhiều lãnh đạo cấp cao của Đảng bị kỷ luật, bị vướng vào lao lý do tham nhũng, tiêu cực chứng tỏ Đảng có lỗi hệ thống không thể khắc phục”. Từ đó, họ kêu gọi rằng “chỉ có thay đổi chế độ tại Việt Nam mới giải quyết được tận gốc vấn đề”.
Đáng tiếc là có những cán bộ, đảng viên và nhân dân đã tin theo những luận điệu sai trái ấy. Đã có những người bày tỏ tâm trạng bi quan, lo lắng cho sự tồn vong của chế độ ta. Cũng có những người vì tò mò, hiếu kỳ, muốn cập nhật các thông tin “nóng sốt”, những việc “thâm cung bí sử”, những “bí mật cung đình” mà không thể tìm thấy các loại thông tin ấy trên báo chí chính thống nên đã lên mạng xã hội để “hóng” và đã vô tình mắc bẫy kẻ xấu, thế lực thù địch.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Nguyên nhân để đất nước ta có được ổn định chính trị
Nguyên nhân để đất nước ta có được ổn định chính trị trong suốt bao năm qua?
Có thể nói, Việt Nam luôn giữ được ổn định chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững vị thế lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chính là vì Đảng có uy tín cao gần như tuyệt đối với nhân dân. Đạo đức của Đảng, trí tuệ của Đảng đã được minh chứng từ sự lãnh đạo tài tình của Đảng trong hơn 94 năm qua, trong các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển kinh tế. Chính vì tin Đảng, yêu Đảng mà nhân dân Việt Nam luôn theo Đảng, dù thử thách, gian lao đến mấy, khó khăn đến mấy cũng không sờn lòng. Sự lãnh đạo của Đảng không nhằm mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu cao đẹp là phấn đấu đưa đất nước ta thành nước phát triển, có thu nhập cao, sánh vai với các cường quốc năm châu, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Cũng vì niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng nên dù các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ, tiến hành các hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây bất ổn chính trị, bất ổn xã hội, mưu toan thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, nhưng các mưu đồ ấy đều thất bại.Nguyên nhân để đất nước ta có được ổn định chính trị chính là niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
Ổn định chế độ chính trị để bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển kinh tế
Ổn định chế độ chính trị để bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển kinh tế
Ổn định chế độ chính trị là một hình thái đặc biệt của vận động xã hội-sự vận động trong trật tự, kỷ cương, bảo đảm các cấu trúc, chức năng cấu thành bản chất chế độ chính trị được giữ vững, tăng cường, không dẫn tới rối loạn, bất ổn. Ổn định chính trị là một nội dung cấu thành phát triển bền vững đất nước.
Trái lại, bất ổn chính trị có thể đe dọa lợi ích của mọi thành viên xã hội cũng như khả năng phát triển của đất nước trong hiện tại và tương lai. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, các bất ổn về kinh tế có thể được khắc phục thông qua kế hoạch ngắn hạn hoặc trung hạn, còn việc khắc phục bất ổn chính trị khó khăn hơn rất nhiều, không chỉ cần thời gian dài hơn, nguồn lực lớn hơn mà còn phải xử lý các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cực kỳ phức tạp.
Đằng sau các bất ổn chính trị là sự rạn nứt các khối đoàn kết xã hội, thậm chí các lực lượng chính trị, các giai tầng xã hội bị cuốn vào xung đột, chiến tranh, làm hao tổn nguồn lực quốc gia, ly tán lòng người, đất nước chia cắt, các thế lực ngoại bang nhân cơ hội can thiệp, ảnh hưởng đến độc lập và chủ quyền dân tộc, đất nước không chỉ bỏ lỡ các cơ hội phát triển mà còn đứng trước nhiều rủi ro. Phần lớn các cuộc xung đột tàn phá các quốc gia trong những năm gần đây đều khởi nguồn từ những bất ổn chính trị trong nước. Trong đó, có những cuộc xung đột đã kéo dài nhiều năm, không biết bao giờ mới kết thúc.
Khi đổ vốn vào bất cứ quốc gia nào, nhất là những khoản đầu tư lớn, dài hạn, nhà đầu tư phải tìm hiểu cặn kẽ về môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, dân cư của quốc gia đó. Mọi nguy cơ về bất ổn chính trị đều phải được nhà đầu tư phát hiện từ sớm, để từ đó có biện pháp ứng phó hoặc chọn quốc gia khác để đầu tư. Bởi vì những bất ổn về chính trị dễ dẫn tới những bất ổn về kinh tế, bất ổn về xã hội, gây rủi ro lớn cho nhà đầu tư. Thực tế cho thấy trong các cuộc biểu tình lớn trên thế giới, người biểu tình sẵn sàng tấn công, đập phá cơ sở sản xuất, kinh doanh, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Đầu tư vào một quốc gia có môi trường chính trị bất ổn chẳng khác nào ném tiền vào một canh bạc mà nhà đầu tư gần như cầm chắc phần thua.
Trải qua nhiều năm chiến tranh đau thương, đất nước bị chia cắt, bị tàn phá, dân tộc Việt Nam hiểu rất rõ giá trị của hòa bình, độc lập, thống nhất, giá trị của ổn định chính trị để phát triển đất nước, mang lại cuộc sống bình yên. Đối với Việt Nam, ổn định chính trị là điều kiện sống còn để bảo vệ độc lập dân tộc, ứng phó với các thách thức bên trong và bên ngoài. Bảo vệ Tổ quốc có nội dung cơ bản là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị.
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHỮNG “ACE XE TĂNG” NỔI TIẾNG CỦA HỒNG QUÂN LIÊN XÔ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ 2!
PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHO RẰNG “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CƯỚP CHÍNH QUYỀN CỦA “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM”, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VÀO HAI CUỘC CHIẾN CHỐNG PHÁP, MỸ KHỐC LIỆT!
XEM NHẸ LỊCH SỬ, HIỂM HOẠ KHÔN LƯỜNG!
PHẢN BÁC VỀ CÁI GỌI LÀ "CÔNG LAO TO LỚN ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC" CỦA VUA GIA LONG!
Điện Biên Phủ - Sự phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Ngay khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn một cuộc chiến tranh xảy ra. Song mọi cố gắng, nỗ lực của phía Việt Nam đã bị dã tâm xâm lược của thực dân Pháp chối bỏ. Trước tình thế đó, ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra bản Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Bản chỉ thị nêu rõ: Mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc; tính chất: Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến; các chính sách của cuộc kháng chiến là đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt để chống thực dân Pháp. Tiếp đó, nhằm chống lại những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, thay mặt Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(1).
Chỉ thị Toàn
dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là những văn kiện cơ bản hợp thành đường lối kháng chiến
chống thực dân Pháp. Đường lối đó hợp lòng dân nên đã nhanh chóng quy tụ và
phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đứng lên đấu
tranh giành độc lập và tự do cho đất nước, dân tộc.
Với đường lối chiến lược đúng đắn, dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân ta từng bước giành những thắng lợi to lớn. Từ năm 1945 đến
năm 1953, quân và dân ta liên tiếp làm thất bại mọi kế hoạch chiến lược của
địch, từ kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, kế hoạch phong tỏa biên giới và
“làm chủ vùng đồng bằng”, đến kế hoạch “giành quyền chủ động chiến lược”. Thất
bại dồn dập về quân sự, hao tổn về tài chính, buộc thực dân Pháp phải dựa hẳn
vào đế quốc Mỹ, xin thêm nhiều viện trợ nhằm đẩy mạnh chiến tranh với mong muốn
giành thắng lợi quân sự để kết thúc chiến tranh trong danh dự. Với ý đồ đó, Kế
hoạch Navarre - một kế hoạch đầy tham vọng của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
ra đời. Mục tiêu của kế hoạch là giành thắng lợi quyết định về quân sự trong
vòng 18 tháng để kết thúc chiến tranh có lợi cho cả Pháp và Mỹ. Với tham vọng
giành lại quyền chủ động trong thế bị động, H. Navarre đã đổ quân tinh nhuệ của
Pháp xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông
Dương. Theo đó, quân địch chiếm đóng ở Điện Biên Phủ với quân số lúc cao nhất
lên tới 16.200 tên, gồm những đơn vị tinh nhuệ, bố trí trong 49 cứ điểm, chia
làm ba phân khu: Bắc, Nam và Trung tâm. Ỷ vào thế mạnh về quân sự, vào ưu thế
của vũ khí, trang bị và khả năng tiếp tế, thực dân Pháp và cả đế quốc Mỹ đều đi
đến một nhận định, Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “con nhím”
hoàn hảo được tổ chức phòng ngự theo kiểu hiện đại, là nơi “nghiền nát chủ lực
của Việt Minh”. Trái với những tham vọng và tuyên bố huênh hoang, hiếu chiến
của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam lại khẳng định sự tất thắng của sức mạnh khối đoàn kết toàn dân
tộc trước kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh, vũ khí tối tân, hiện đại.
Trong lịch sử, chính sức mạnh đó đã “nhấn chìm” không ít kẻ thù hung bạo khi
chúng đến xâm lược Việt Nam.
Sau khi phân tích tình hình trên các
chiến trường, đầu tháng 12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết
định tập trung lực lượng mở chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch ở
Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch
rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với
trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải
tập trung hoàn thành cho kỳ được”(2).
Từ đây, một cuộc động viên sức người, sức của của toàn dân tộc đã được triển
khai rầm rộ, với quy mô lớn chưa từng có. Công nhân, nông dân, trí thức, học
sinh, nhà buôn và cả một số địa chủ, tư sản, ai ai cũng sẵn lòng góp công, góp
của. Đâu đâu cũng có phong trào ra quân rầm rộ. Hội đồng Cung cấp Mặt trận
Trung ương nhanh chóng được thành lập, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ
tịch, đã chỉ đạo các địa phương, các ngành kinh tế, tài chính, tổ chức động
viên nhân tài, vật lực của cả nước cho cuộc kháng chiến. Với khẩu hiệu “Tất cả
cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, mọi địa phương đều thi đua chi viện cho
mặt trận. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, dù nhiều nơi mới được giải phóng, còn
rất nhiều thiếu thốn, nhưng đã tích cực đóng góp cho chiến dịch đến 1.200 tấn
gạo, 300 tấn thịt và gần 100 tấn rau. Liên khu Việt Bắc đóng góp 7.311 tấn
lương thực, riêng tại Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và tỉnh Lai Châu) là
2.266 tấn. Ở Liên khu III (do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo),
tuy còn nhiều vùng địch chiếm đóng nhưng cũng huy động được 1.183 tấn gạo, 57
tấn muối. Ở Liên khu IV, chủ yếu là tỉnh Thanh Hóa, mặc dù đồng bào còn rất khó
khăn, nhưng vì tiền tuyến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Chí
Thanh, nhân dân đã sẵn sàng và huy động hơn 8.000 tấn thức ăn khô. Đặc biệt, dù
là nơi đang trực tiếp chiến đấu với địch, nhân dân huyện Điện Biên cũng đóng
góp được 555 tấn lương thực (vượt mức trên giao 64 tấn), 226 tấn thịt (vượt 43
tấn)(3).
Cùng với những đóng góp tích cực của
nhân dân cả nước về lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, lực lượng dân công
của các địa phương cũng được huy động đủ đáp ứng yêu cầu cho chiến dịch. Liên
khu III tổ chức mỗi đoàn từ 300 đến 500 người. Tỉnh Hòa Bình huy động 5.000 dân
công làm đường. Huyện Mỹ Đức (Hà Đông) mới giải phóng đã có 800 người tình
nguyện đi dân công phục vụ chiến dịch, huyện Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình) huy động
đội xe thồ 150 chiếc làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực. “Ngay tại hỏa tuyến,
đồng bào Điện Biên cũng đưa 3.000 người đi dân công với 64.670 ngày công phục
vụ. Hậu phương tại chỗ, khu Tây Bắc huy động 31.818 dân công. Việt Bắc, căn cứ
địa kháng chiến chung của cả nước cũng cung cấp cho mặt trận 36.518 dân công.
Trong vùng địch hậu tỉnh Kiến An đã đóng góp 230.294 ngày công. Trong vùng tạm
chiếm của các tỉnh Bắc Bộ, đồng bào đã chuyển ra vùng tự do hơn 20 vạn tấn thóc
và 7,5 triệu ngày công đi dân công”(4).
Tính chung trong chiến dịch, ngoài 16
đại đội ô tô vận tải của quân đội, các phương tiện thô sơ của các địa phương là
lực lượng hết sức quan trọng và vận chuyển hiệu quả hàng hóa, điển hình có tới
hơn hai vạn xe đạp thồ được huy động. Ngoài việc tham gia vận tải gạo, đạn cho
chiến trường, lực lượng dân công còn tích cực tham gia vận chuyển thương binh
ra hậu cứ để cứu chữa, trực tiếp vào tận chiến hào để phục vụ chiến đấu. Đồng
bào nhiều địa phương cùng sát cánh bên nhau xẻ núi, san đồi, làm đường, phá
thác để mở lối cho quân đi, cho thuyền chở hàng qua lại. Nhờ những nỗ lực đó mà
điều lo lắng và khó khăn nhất tưởng chừng như không thể vượt qua là vấn đề hậu
cần chiến dịch đã được giải quyết thành công. Sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đã góp phần tạo nên thành công vượt bậc đó.
Tổng kết toàn chiến dịch, nhân dân cả
nước huy động được 23.126 tấn gạo, 266 tấn muối, 992 tấn thịt, 800 tấn rau, 917
tấn thực phẩm khác... Huy động 216.451 lượt dân công bằng 12 triệu ngày công,
20.991 xe đạp thồ, 736 xe súc vật kéo, 11.400 thuyền bè mảng(5). Ghi nhận kết quả này, tại Hội nghị
tổng kết chiến dịch, thay mặt cho toàn quân, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên
Giáp khẳng định: “Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề cung cấp đạn dược là nhân
tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật; khó khăn về
cung cấp lương thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn
trương từng ngày từng giờ, không kém tình hình chiến đấu… quân địch không bao
giờ tưởng tượng được rằng, chúng ta có thể khắc phục khó khăn này. Bọn đế quốc,
phản động không bao giờ đánh giá được sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể
khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù”(6).
Đánh giá kỳ tích này, tướng Pháp Y. Gra nhận xét rất đúng rằng: “Cả dân tộc đã
tìm ra giải pháp cho vấn đề hậu cần và giải pháp này đã làm thất bại mọi toan
tính cũng như dự kiến của Bộ Tham mưu Pháp”(7).
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
còn được huy động ở mức cao nhất trong phối hợp tiến công trên các hướng chiến
lược để căng kéo quân địch, buộc chúng phải phân tán ra các chiến trường theo ý
định của ta. Quân và dân ta ở khắp các địa phương trong cả nước, từ Tây Bắc,
Liên khu III, Tả ngạn, đến Bình - Trị - Thiên, Liên khu V, Bắc Tây Nguyên, Sài
Gòn - Gia Định, Nam Bộ… đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến
công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân,
buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó. Tại Liên khu
III, ta tăng cường tiến công tập kích Đường 5 - tuyến đường vận tải chiến lược
của địch từ Hải Phòng về Hà Nội; đồng thời, liên tiếp tập kích các sân bay Gia
Lâm và Cát Bi để phá tuyến vận tải đường không của địch chi viện cho Điện Biên
Phủ… Ở chiến trường Nam Bộ, theo chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục
miền Nam đã chỉ đạo dốc toàn lực đẩy nhanh nhịp độ tiến công để phối hợp với
Chiến dịch Điện Biên Phủ. Các đơn vị chủ lực của các khu và các tỉnh đã kết hợp
với lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào vùng địch hậu các tỉnh: Thủ
Biên, Long Châu Sa, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu… Bằng nhiều
hình thức, như phục kích, tập kích, công đồn, các lực lượng vũ trang Nam Bộ đã
diệt nhiều sinh lực địch, phá nhiều đồn bốt. Trong cả nước, nhân dân từ Nam chí
Bắc, từ thành thị đến nông thôn liên tiếp mở nhiều cuộc đấu tranh, vùng lên
diệt ác, phá tề, giành quyền làm chủ. Các lực lượng thanh niên, phụ nữ từ thành
thị đến nông thôn, từ vùng núi đến đồng bằng tích cực tham gia đấu tranh chính
trị, phá tề trừ gian. Qua đó, ta đã phân tán một bộ phận quan trọng lực lượng
địch, buộc chúng phải căng sức đối phó, bị giam chân ở nhiều chiến trường. Đây
là những hoạt động phối hợp kịp thời của cả nước có tác động tích cực tới chiến
trường Điện Biên Phủ.
Để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, vấn đề quan trọng là phải giải quyết hợp lý quyền lợi giữa các tầng
lớp nhân dân ở vùng hậu phương. Nhiệm vụ tối cao lúc này là kháng chiến đánh
đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc; song, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã chú trọng giải quyết thỏa đáng những quyền lợi giữa các tầng lớp
nhân dân, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi tối cao dân tộc và không làm suy yếu
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nổi bật trong thời gian này ở hậu phương (vùng
mới giải phóng), Đảng đã có chủ trương và chính sách nhằm đem lại mục tiêu,
quyền lợi dân chủ, nhất là cho nông dân - lực lượng đông đảo nhất trong xã hội.
Theo đó, năm 1953, Đảng phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến hành cải
cách ruộng đất, thực hiện “Người cày có ruộng”. Tháng 12-1953, Luật Cải cách
ruộng đất được ban hành. Trên thực tế, từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng
đã lãnh đạo tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở vùng tự do.
Điều đó đã động viên được các tầng lớp nhân dân ở vùng tự do và sau lưng địch,
làm cho cán bộ, chiến sĩ ở tiền tuyến càng tin tưởng sâu sắc vào đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo thành khối đại đoàn kết, dồn sức
người, sức của cho chiến dịch. Bên cạnh đó, trong suốt cuộc kháng chiến 9 năm
chống thực dân Pháp cũng như trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã có thành
công lớn trong vận động nhiều địa chủ, tư sản dân tộc cùng con em, gia đình họ
tham gia kháng chiến.
Lực lượng công an đã góp phần tích cực
trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tích cực phối hợp hoạt động, thành lập “Ban
Công an tiền phương” làm nhiệm vụ bảo vệ các lực lượng tham gia chiến dịch, bảo
vệ dân công, bảo vệ giao thông vận chuyển, kho tàng, các cuộc hành quân, trú
quân của bộ đội chủ lực. Từng đơn vị tổ chức ra các ban bảo vệ dân công và phát
động phong trào “phòng gian bảo mật”; giữ bí mật, phổ biến cách thức phòng,
chống do thám, điều tra của địch; quy định việc đi lại, tiếp xúc giao dịch…
Tính từ tháng 1 đến tháng 5-1954, Công an Liên khu II, IV, khu Tây Bắc, Việt
Bắc đã bắt hàng trăm tên tình báo gián điệp chuyên theo dõi thu thập tin tức về
các cuộc hành quân, đóng quân của bộ đội ta từ các hướng lên Điện Biên Phủ(8). Phong trào “phòng gian bảo mật” được
phát động rộng khắp trên toàn mặt trận, công tác chống gián điệp, bảo vệ nội bộ
được triển khai một cách chủ động, vững chắc và đạt hiệu quả cao; vì vậy, địch
hoàn toàn bất ngờ và bị động trước sự tiến công của ta. Đồng thời, lực lượng
công an đã làm tốt công tác bảo vệ lãnh tụ, bảo vệ các cơ quan đầu não chỉ đạo
kháng chiến, bảo đảm tuyệt đối an toàn trong mọi tình huống…
Sức mạnh đoàn kết, sự đồng tâm hiệp lực
của cả dân tộc Việt Nam đã quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Nhờ sự đoàn kết chặt chẽ và anh
dũng hy sinh của toàn quân và toàn dân ta, chúng ta đã đại thắng ở Điện Biên
Phủ”(9). Sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc được phát huy cao độ và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ
đường lối chiến lược đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo kiên quyết và tham gia tích
cực của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương bằng những hình thức,
biện pháp hết sức linh hoạt, sáng tạo và đặc biệt là sự tham gia đông đảo của
mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân để “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng”. Chính sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ấy được phát huy cao độ trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ mà tướng H. Navare - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp tại Đông Dương - đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải
chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”
NHẮC LẠI GIÚP BẠN: KHI TỘI ĐỒ DÂN TỘC, TỘI NHÂN THIÊN CỔ CỦA NƯỚC VIỆT TRƯƠNG VĨNH KÝ ĐƯỢC LÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA!
Luận điệu chống phá lực lượng Công an Nhân dân
Nhằm thực
hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”,
các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu và các hoạt động “phi chính trị hóa” lực lượng công an
nhân dân, tìm mọi cách làm cho cán bộ, chiến sỹ công an suy yếu về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, đạo đức, từ đó thúc đẩy các hoạt động “tự diễn biến”, phá vỡ bức tường thép quan trọng trong bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân. Do vậy, cần nhận diện thủ đoạn, hoạt động mà các đối tượng
thường sử dụng trong thời gian qua như sau:
Thứ nhất, các đối tượng ra sức tuyên
truyền, xuyên tạc về bản chất cách mạng, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng
công an nhân dân, cho rằng “Công an là
công cụ đàn áp của Đảng Cộng sản”, hay rêu rao rằng “Bộ Công an lấn quyền và tạo hình ảnh bất khả xâm phạm”; tìm mọi
cách chia rẽ Công an với nhân dân, với Quân đội và các lực lượng khác trong hệ
thống chính trị ở nước ta.
Thứ hai, lợi dụng việc một số tin báo
điện tử trong nước đăng tin bài, hình ảnh phản ánh sai phạm của lực lượng Công an
địa phương trong điều tra một số vụ án và hành vi tiêu cực của cảnh sát giao
thông để thổi phồng các vụ việc, lấy sai phạm của một số cá nhân để quy kết,
xuyên tạc, vu cáo, bóp méo sự thật nhằm bôi đen, làm mất uy tín lực lượng Công
an, kích động quần chúng chống cán bộ Công an thi hành công vụ.
Thứ ba, cố ý bôi nhọ, hạ bệ hình ảnh cán
bộ, chiến sĩ công an nhân dân, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm các đồng chí
lãnh đạo Bộ Công an.
Thứ tư, đối với một số vụ việc gây rối
trật tự công cộng, có tính chất nguy hiểm đối với xã hội, phải sử dụng lực
lượng Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm để giải quyết, các đối tượng cho rằng lực
lượng Công an nhân dân ngày nay không còn là của nhân dân, bảo vệ nhân dân, mà
là công cụ để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người có chức, có quyền, qua đó
nhằm đối trọng nhân dân với lực lượng Công an.
Thứ năm, lợi dụng không gian mạng như:
Youtube, Blog, Facebook…, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tạo
lập hàng trăm tài khoản ảo, cắt ghép một số hình ảnh, video liên quan đến lực
lượng Công an để đưa ra những bình luận ác ý, tung tin sai sự thật, bịa đặt
nhằm công kích vào tâm lý người dân, gây sự hoài nghi, làm giảm sút lòng tin
đối với chế độ.
Những âm
mưu, thủ đoạn và những việc làm của các thế lực thù địch là rõ ràng, càng chứng
minh tính chất phản động, phản cách mạng của họ, thay vì có những đóng góp cho
việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội thì họ lại cố ý phá vỡ tính ổn
định đó bằng những luận điệu phi lý, lố bịch./.














