Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

Lời Bác dạy ngày này năm xưa: “Dù có lâu dài, gian khổ, cuộc đấu tranh chính nghĩa đó nhất định sẽ thắng lợi”


Lời khẳng định thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của Bác trước nhân dân ta, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được, thể hiện lập trường kiên định về độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải hy sinh gian khổ, song quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập. 

Lời Bác dạy về động cơ vào đảng của cán bộ

 Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập, rèn luyện Đảng ta đã khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” và “vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân”. Chính vì vậy, việc xác định động cơ vào Đảng ở mỗi quần chúng là rất quan trọng.

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

 


Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước Việt Nam hướng đến là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI XHCN

 


Về nền kinh tế thị trường, đã được hình thành và phát triển từ lâu trong lịch sử nhân loại. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển; và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

"Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu”...

 


 Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt và sự quan tâm ân cần đến sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam. Bác dành rất nhiều tâm huyết cho việc tổ chức, dẫn dắt các thế hệ thanh niên đến với cách mạng, tham gia vào quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…

Trong thư gửi thanh niên Việt Nam, tháng 4-1951, Bác viết: “… Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức cách mạng”

GIỮ GÌN DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 


Danh dự làm nên phẩm hạnh con người, là thước đo giá trị của mỗi người trong xã hội. Với một người bình thường, danh dự đã là cao quý. Là cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, quản lý, danh dự càng cao quý, thiêng liêng. Bác Hồ vẫn thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn giữ gìn, bồi đắp đạo đức, nhân cách. Người căn dặn: "Hạnh dục phương", nghĩa là đức hạnh, đạo đức phải vuông vắn, ngay thẳng, không làm điều gì khuất tất. Phải tránh xa những thói xấu “lười biếng, gian giảo, tham ô”. Phải biết sống “ngay thẳng, không có việc gì phải giấu Đảng”, “không tham địa vị. Không tham tiền tài”... Đó là phẩm chất, đức hạnh, danh dự của người cộng sản. Cán bộ, đảng viên phải biết giữ “thanh danh của Đảng” và “danh giá của mình”. 

"Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một"

 


Ngày 7-4-1965, với bút danh là Lê Nông, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài “Chúng ta rất có thể đạt hơn 5 tấn thóc cả năm/một héc-ta” để biểu dương một số hợp tác xã đã đạt chỉ tiêu này và khẳng định có thể đạt năng suất cao hơn nữa nếu quan tâm đến việc cải tiến khoa học - kỹ thuật, thực hành cần kiệm xây dựng và tự lực cánh sinh, chi bộ lãnh đạo chặt chẽ, đảng viên gương mẫu xung phong, xã viên đoàn kết nhất trí. “Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một”.

Đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

 


Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì đã rõ. Nếu học tập mà không làm theo thì chỉ có hiểu biết trên giấy tờ. Học tập và làm theo là học đi đôi với hành. Học mà không hành thì chỉ là học suông, nói suông. Việc đẩy mạnh “Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã được phát động và thực hiện trong Đảng, trong dân ta từ lâu, không phải chỉ mấy nhiệm kỳ Đại hội của Đảng gần đây. Trong phong trào thi đua xây dựng Đời sống mới, Bác Hồ đã nói: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc.

Tỉnh táo nhận diện luận điệu sai trái phản động để có hành động đúng đắn

 Thứ nhất là, cần phải thấy rõ những thành tựu nổi bật của Việt Nam trên tất cả lĩnh vực, cùng với đó là uy tín quốc tế rất cao của đất nước ta trong những năm qua, từ đó hiểu được giá trị và vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay, phổ biến, lan tỏa ra quần chúng nhân dân. 

Thứ hai là, nhận thức được ý nghĩa quan trọng của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đối với sự bền vững của Đảng, của đất nước, từ đó thêm kiên trì, quyết tâm và tin tưởng tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh này. 

Thứ ba là, cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ. Cần loại trừ mọi biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Cũng rất cần tránh mọi biểu hiện “cua cậy càng, cá cậy vây”, hành động không vì lợi ích chung của Đảng, của đất nước, của nhân dân mà chỉ vì lợi ích cục bộ ích kỷ của bộ, ngành, cơ quan của mình và cá nhân mình. Nhân dân ta rất tinh tường, luôn phân biệt được rất rõ tốt-xấu, thật-giả. Cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ rằng: Sức mạnh vô song của Đảng ta, của đất nước ta chính là nhờ niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước, từ đó đoàn kết được toàn thể dân tộc, toàn thể nhân dân. 

Thứ tư là, cần nhận thức rõ giá trị của ổn định chính trị đối với sự phát triển của đất nước; từ đó, trong mọi lời nói và việc làm nên hết sức cân nhắc, tránh tạo những tác động bất lợi. 

Thứ năm là, không xem, không tin, không tán phát thông tin trên các trang mạng của thế lực thù địch, phản động, các thông tin chưa được kiểm chứng. 

Cần khẳng định rằng, ổn định chính trị là vốn quý để phát triển đất nước. Tuy nhiên, ổn định chính trị không phải là thứ tài nguyên trời ban mà là nhờ năng lực và uy tín lãnh đạo của Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ vấn đề này để có hành động đúng đắn nhằm giữ vững ổn định chính trị vì sự phát triển bền vững của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.

Cán bộ, đảng viên cần gương mẫu, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

 Cán bộ, đảng viên cần gương mẫu, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta quyết liệt thực hiện cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để loại bỏ các biểu hiện suy thoái, làm trong sạch Đảng, trong sạch bộ máy Nhà nước để giữ vững niềm tin của nhân dân, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Cuộc đấu tranh ấy được đại bộ phận nhân dân và dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ và đã mang lại những hiệu quả rất tích cực. Tuy nhiên, trong xã hội thời gian qua cũng xuất hiện những lo ngại về việc “đánh chuột làm vỡ bình” khi cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện quyết liệt, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”.

Các thế lực thù địch đang tăng cường rêu rao các thông tin xuyên tạc rằng: “Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua chẳng qua là tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng”, họ gieo rắc những đồn đoán, suy luận thiếu căn cứ rằng sắp tới sẽ có thêm lãnh đạo A, lãnh đạo B bị xử lý… hòng gây hoang mang trong nhân dân. Rồi họ kết luận xằng bậy rằng “nhiều lãnh đạo cấp cao của Đảng bị kỷ luật, bị vướng vào lao lý do tham nhũng, tiêu cực chứng tỏ Đảng có lỗi hệ thống không thể khắc phục”. Từ đó, họ kêu gọi rằng “chỉ có thay đổi chế độ tại Việt Nam mới giải quyết được tận gốc vấn đề”.

Đáng tiếc là có những cán bộ, đảng viên và nhân dân đã tin theo những luận điệu sai trái ấy. Đã có những người bày tỏ tâm trạng bi quan, lo lắng cho sự tồn vong của chế độ ta. Cũng có những người vì tò mò, hiếu kỳ, muốn cập nhật các thông tin “nóng sốt”, những việc “thâm cung bí sử”, những “bí mật cung đình” mà không thể tìm thấy các loại thông tin ấy trên báo chí chính thống nên đã lên mạng xã hội để “hóng” và đã vô tình mắc bẫy kẻ xấu, thế lực thù địch.

Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta

  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Nguyên nhân để đất nước ta có được ổn định chính trị

 Nguyên nhân để đất nước ta có được ổn định chính trị trong suốt bao năm qua?

Có thể nói, Việt Nam luôn giữ được ổn định chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững vị thế lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chính là vì Đảng có uy tín cao gần như tuyệt đối với nhân dân. Đạo đức của Đảng, trí tuệ của Đảng đã được minh chứng từ sự lãnh đạo tài tình của Đảng trong hơn 94 năm qua, trong các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển kinh tế. Chính vì tin Đảng, yêu Đảng mà nhân dân Việt Nam luôn theo Đảng, dù thử thách, gian lao đến mấy, khó khăn đến mấy cũng không sờn lòng. Sự lãnh đạo của Đảng không nhằm mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu cao đẹp là phấn đấu đưa đất nước ta thành nước phát triển, có thu nhập cao, sánh vai với các cường quốc năm châu, nhân dân ấm no, hạnh phúc.

Cũng vì niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng nên dù các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ, tiến hành các hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây bất ổn chính trị, bất ổn xã hội, mưu toan thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, nhưng các mưu đồ ấy đều thất bại.Nguyên nhân để đất nước ta có được ổn định chính trị chính là niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng

Ổn định chế độ chính trị để bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển kinh tế

Ổn định chế độ chính trị để bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển kinh tế

Ổn định chế độ chính trị là một hình thái đặc biệt của vận động xã hội-sự vận động trong trật tự, kỷ cương, bảo đảm các cấu trúc, chức năng cấu thành bản chất chế độ chính trị được giữ vững, tăng cường, không dẫn tới rối loạn, bất ổn. Ổn định chính trị là một nội dung cấu thành phát triển bền vững đất nước.

Trái lại, bất ổn chính trị có thể đe dọa lợi ích của mọi thành viên xã hội cũng như khả năng phát triển của đất nước trong hiện tại và tương lai. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, các bất ổn về kinh tế có thể được khắc phục thông qua kế hoạch ngắn hạn hoặc trung hạn, còn việc khắc phục bất ổn chính trị khó khăn hơn rất nhiều, không chỉ cần thời gian dài hơn, nguồn lực lớn hơn mà còn phải xử lý các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cực kỳ phức tạp.

Đằng sau các bất ổn chính trị là sự rạn nứt các khối đoàn kết xã hội, thậm chí các lực lượng chính trị, các giai tầng xã hội bị cuốn vào xung đột, chiến tranh, làm hao tổn nguồn lực quốc gia, ly tán lòng người, đất nước chia cắt, các thế lực ngoại bang nhân cơ hội can thiệp, ảnh hưởng đến độc lập và chủ quyền dân tộc, đất nước không chỉ bỏ lỡ các cơ hội phát triển mà còn đứng trước nhiều rủi ro. Phần lớn các cuộc xung đột tàn phá các quốc gia trong những năm gần đây đều khởi nguồn từ những bất ổn chính trị trong nước. Trong đó, có những cuộc xung đột đã kéo dài nhiều năm, không biết bao giờ mới kết thúc. 

Khi đổ vốn vào bất cứ quốc gia nào, nhất là những khoản đầu tư lớn, dài hạn, nhà đầu tư phải tìm hiểu cặn kẽ về môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, dân cư của quốc gia đó. Mọi nguy cơ về bất ổn chính trị đều phải được nhà đầu tư phát hiện từ sớm, để từ đó có biện pháp ứng phó hoặc chọn quốc gia khác để đầu tư. Bởi vì những bất ổn về chính trị dễ dẫn tới những bất ổn về kinh tế, bất ổn về xã hội, gây rủi ro lớn cho nhà đầu tư. Thực tế cho thấy trong các cuộc biểu tình lớn trên thế giới, người biểu tình sẵn sàng tấn công, đập phá cơ sở sản xuất, kinh doanh, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Đầu tư vào một quốc gia có môi trường chính trị bất ổn chẳng khác nào ném tiền vào một canh bạc mà nhà đầu tư gần như cầm chắc phần thua.

Trải qua nhiều năm chiến tranh đau thương, đất nước bị chia cắt, bị tàn phá, dân tộc Việt Nam hiểu rất rõ giá trị của hòa bình, độc lập, thống nhất, giá trị của ổn định chính trị để phát triển đất nước, mang lại cuộc sống bình yên. Đối với Việt Nam, ổn định chính trị là điều kiện sống còn để bảo vệ độc lập dân tộc, ứng phó với các thách thức bên trong và bên ngoài. Bảo vệ Tổ quốc có nội dung cơ bản là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHỮNG “ACE XE TĂNG” NỔI TIẾNG CỦA HỒNG QUÂN LIÊN XÔ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ 2!

     Khi nói tới những chỉ huy xe tăng hay “Ace xe tăng” nổi tiếng thế giới, nhiều người sẽ nghĩ ngay tới Michael Wittmann hay “Nam tước đen” của phát xít Đức. Tuy nhiên, Hồng quân Liên Xô cũng có những chỉ huy xe tăng tài năng không kém cạnh!
Trong đó, chỉ huy xe tăng Dmitry Lavrinenko thậm chí đã có thể xô đổ kỷ lục của Michael Wittmann nếu như không hy sinh một cách đáng tiếc khi tài năng đang nở rộ.

Trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Hồng quân có khoảng 100 chỉ huy được nhận danh hiệu “Ace xe tăng” với chiến công tiêu diệt tối thiểu 10 xe tăng hoặc pháo tự hành của đối phương. Tất cả những chỉ huy xe tăng này đều được trao tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Liên Xô”. Tuy nhiên, có một ngoại lệ chính là sĩ quan Dmitry Lavrinenko, khi phải gần nửa thế kỷ sau, những chiến công của người chỉ huy xe tăng này mới được công nhận.

Dmitry Lavrinenko với 52 chiến công
Chỉ trong hai tháng rưỡi chiến đấu, kíp chiến đấu T-34 của Thượng úy Dmitry Lavrinenko đã tiêu diệt 52 xe tăng và các pháo tự hành của phát xít. Đây là con số kỷ lục mà không kíp xe tăng nào của Hồng quân có thể vượt qua trong suốt 4 năm chiến tranh.

Vốn là giảng viên trường dạy lái xe tăng, Dmitry Lavrinenko là một xạ thủ cừ khôi với khả năng sử dụng mọi loại vũ khí và được đồng đội đặt biệt danh là “Mắt bắn tỉa”. Sĩ quan xe tăng này còn thể hiện tài thiện xạ vượt trội trong các trận chiến xe tăng trên chiến trường. Dù là chỉ huy xe tăng, nhưng sĩ quan Dmitry Lavrinenko trong nhiều trận chiến cũng đảm nhiệm vị trí xạ thủ trên xe tăng T-34-76.

Với nhãn quan chiến thuật sắc bén, Thượng úy Dmitry Lavrinenko có khả năng nhìn nhận và đánh giá chiến trường nhanh chóng và chuẩn xác. Kíp xe tăng của sĩ quan này luôn biết chọn địa điểm phục kích và thời điểm tấn công đột kích đạt hiệu quả cao nhất.

Trong Thu đông năm 1941, Thượng úy Dmitry Lavrinenko chỉ huy trung đội xe tăng thuộc Lữ đoàn xe tăng Cận vệ số 1 tham gia mặt trận bảo vệ Moscow. Trong hầu hết mọi trận chiến, kíp xe tăng của sĩ quan Hồng quân này đều tiêu diệt ít nhất 3-4 xe tăng địch.

Chỉ huy đơn vị, tướng Mikhail Katukov miêu tả một trận phục kích đoàn xe hậu cần của phát xít Đức có sự tham gia của Thượng úy Dmitry Lavrinenko gần làng Vysokinichi như sau: “Đơn vị đã để đoàn xe Đức quốc xã tiến gần tới cự ly 150m, Lavrinenko bắt đầu khai hỏa vào chúng. Hai khẩu pháo chống tăng đã bị phá hủy. Địch cố gắng xoay sở với khẩu pháo thứ 3, nhưng xe tăng của Lavrinenko đã vượt lên đường cao tốc, đâm vào xe tải chở lính và nghiền nát khẩu pháo chống tăng của địch”.

Tuy nhiên, bi kịch đã xảy ra khi sĩ quan xe tăng Hồng quân bất ngờ hy sinh vào ngày 18-12-1941, gần làng Volokolams do trúng đạn súng cối, khi đang về sở chỉ huy báo cáo nhiệm vụ.

Ông Mikhail Katukov nhớ lại: "Khi tôi nghe tin về cái chết của Lavrinenko, mắt tôi đen lại". Đối với người sĩ quan chỉ huy Hồng quân, khả năng Lavrinenko hy sinh là rất thấp. Người lính xe tăng Hồng quân gần như “bất khả xâm phạm” khi luôn sống sót trong những trận chiến cam go nhất.

Dù Lữ đoàn xe tăng Cận vệ số 1 đã báo cáo về thành tích của chỉ huy Dmitry Lavrinenko, nhưng sĩ quan này không được phong tặng danh hiệu “'Anh hùng Liên Xô”, khi không ai tin rằng một kíp xe tăng Hồng quân lại có thể tiêu diệt hơn 50 xe tăng, pháo tự hành và nhiều phương tiện chiến đấu khác của phát xít trong thời gian ngắn như vậy.

Tới tận ngày 5-5-1990, thành tích của Thượng úy Dmitry Lavrinenko đã được công nhận và ông được truy tặng danh hiệu cao quý xứng đáng.

Vladimir Bochkovsky với 36 chiến công
“Ace xe tăng” Vladimir Bochkovsky đã tiêu diệt 36 xe tăng và pháo tự hành của đối phương trong các trận chiến. Để có những chiến công trên, sĩ quan xe tăng Hồng quân này đã 5 lần bị bỏng, nhiều lần bị thương nặng, nhưng vẫn hồi phục để chứng kiến Ngày Chiến thắng.

Tốt nghiệp trường xe tăng Kharkov và ra mặt trận vào mùa Xuân năm 1942, Vladimir Bochkovsky được biên chế về Lữ đoàn xe tăng Cận vệ số 1 của Tướng Katukov, cùng đơn vị với Thượng úy Dmitry Lavrinenko.

Theo chân đoàn quân, xe tăng của sĩ quan Vladimir Bochkovsky đã chiến đấu tại Rzhev và Kursk, giải phóng Ukraine và Ba Lan. Nhờ những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, sĩ quan xe tăng Hồng quân đã được thăng chức đội trưởng Đội cận vệ và chỉ huy một tiểu đoàn xe tăng xung kích.

Ở thời điểm đó, các tiểu đoàn xe tăng thường đóng vai trò là đơn vị tiền phương của lữ đoàn hoặc thực hiện các cuộc đột kích nhanh chóng bằng xe tăng vào hậu tuyến địch để phá hủy hậu cần, sở chỉ huy và lực lượng hỗ trợ.

Trong một cuộc đột kích vào mùa xuân năm 1944, xe tăng T-34 của Vladimir Bochkovsky đã đột phá vào thị trấn Chortkov ở miền Tây Ukraine và giữ vững vị trí này cho đến khi lực lượng cứu viện tới. Với chiến công đặc biệt này, sĩ quan Vladimir Bochkovsky đã được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Liên Xô”.

Hay trong trong chiến ở thị trấn Kolomyia, tiểu đoàn xe tăng của Vladimir Bochkovsky tiến đến ga xe lửa. Các xe tăng bắn phá mọi mục tiêu trong tầm nhìn. Một đầu máy cố gắng rời nhà ga đã bị xe tăng húc đổ.

Vào tháng 4-1945, trong trận chiến ác liệt ở Seelow Heights, ngoại vi Berlin, Đội trưởng Đội xe tăng cận vệ Vladimir Bochkovsky bị thương nặng trong chiến đấu. Bạn của “Ace xe tăng” và phóng viên chiến trường Yuri Zhukov kể lại: "Bochkovsky nhảy ra khỏi xe tăng trong một phút, dừng lại ở một cái cây để định hướng khu vực tốt hơn. Đó là điều cần thiết trong chiến đấu! Đúng lúc đó, một quả đạn pháo nổ tung phía trên chiếc xe tăng, vô hiệu hóa nó và khiến Bochkovsky cảm thấy một cú đánh mạnh vào bụng. Máu bắt đầu phun ra…” .

Dù được cấp cứu và sống sót, nhưng chiến tranh đã kết thúc đối với Vladimir Bochkovsky khi ông được xuất viện vào tháng 11-1945. Bochkovsky sau đó quyết định tiếp tục phục vụ trong Quân đội Liên Xô và nghỉ hưu với quân hàm trung tướng.

Ivan Korolkov với 34 chiến công
“Ace xe tăng” Ivan Ivanovich Korolkov đã có một sự nghiệp quân sự đáng kinh ngạc. Ông bắt đầu chiến đấu với tư cách là một người lái xe bình thường và kết thúc cuộc chiến khi là Thiếu tá cận vệ và chỉ huy một trung đoàn xe tăng.

Ivan Korolkov tham gia Hồng quân năm 1937 và chiến đấu chống lại phát xít Đức ngay từ ngày đầu tiên. Vào ngày 5-9-1941, ông đã cơ động được chiếc xe tăng hạng nặng KV-1 bị bắn hỏng về vị trí đóng quân và được tặng thưởng “Huân chương Sao Đỏ”.

Đầu tháng 6-1942, Bộ chỉ huy mặt trận đã có quyết định đặc biệt là thăng quân hàm Trung sĩ Korolkov lên cấp Trung úy nhờ những chiến công đặc biệt trước đó. Sĩ quan xe tăng này được giao chỉ huy một trung đội xe tăng hạng nặng KV-1 và sau đó là một đại đội xe tăng.

Ngày 10-6-1942, trong trận chiến gần làng Tatyanovka, gần Kharkov, xe tăng do Ivan Ivanovich chỉ huy đã tiêu diệt 8 xe tăng, 7 khẩu pháo và khoảng 2 đại đội bộ binh địch. Nhờ chiến công này, sĩ quan Ivan Ivanovich được tặng thưởng “Huân chương Lênin” và được đánh giá là chỉ huy dũng cảm, quyết đoán và khéo léo.

Tới ngày 8-2 năm 1943, Korolkov được tặng danh hiệu “Anh hùng Liên Xô” vì những chiến công và đóng góp trong chiến đấu.

Mùa hè năm 1943, Korolkov được giao chỉ huy một tiểu đoàn xe tăng để tham gia trận chiến Kursk. Sau khi tốt nghiệp Trường Thiết giáp Sĩ quan Cấp cao Leningrad vào tháng 12-1944, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy một trung đoàn xe tăng và tiếp tục ra mặt trận.

Thiếu tá cận vệ Ivan Korolkov tham gia trận chiến giải phóng Berlin. Số lượng xe tăng và pháo tự hành Đức bị ông tiêu diệt đã tăng lên 34 chiếc. Năm 1946, sĩ quan xe tăng này giải ngũ và trở về vùng Kursk quê hương để sống cuộc đời nông dân an nhàn./.
Ảnh: Nếu có thêm một chút may mắn, Thượng úy Dmitry Lavrinenko có thể trở thành "Ace xe tăng" nổi tiếng thế giới.

Ảnh: “Ace xe tăng” Vladimir Bochkovsky.

Ảnh: “Ace xe tăng” Ivan Ivanovich Korolkov.
Yêu nước ST.

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHO RẰNG “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CƯỚP CHÍNH QUYỀN CỦA “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM”, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VÀO HAI CUỘC CHIẾN CHỐNG PHÁP, MỸ KHỐC LIỆT!

     Hiện nay trên không gian mạng xuất hiện những bài viết ca ngợi “Đế quốc Việt Nam”; các tổ chức phản động cho rằng “Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Đế Quốc Việt nam được thành lập với Bảo Đại là vua và Trần Trọng Kim làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời. Tuy thân Nhật, nhưng đây là một chính phủ mới được thành lập nhằm mục đích đón nhận nền độc lập được trao tay từ quân Nhật mà không phải qua chiến tranh đổ máu. Đây là nước đi vô cùng khôn khéo của vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim. Nhưng tiếc thay, nó đã bị Cộng sản phá nát và dẫn đến hệ quả là xuất hiện 2 cuộc chiến thảm khốc sau này”!

Ý đồ rất rõ, họ muốn lái dư luận và đầu độc thế hệ trẻ, phủ nhận công lao của Đảng và nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh tráo khái niệm một cách tinh vi, xảo trá. Nhân kỷ niệm 78 năm Quốc khánh nước ta. Xin có đôi lời như sau:

ĐẾ QUỐC VIỆT NAM là cái tên mỹ miều và có vẻ hùng mạnh mà Đế Quốc Nhật đặt cho khi “trao trả độc lập” cho Việt Nam. Nó chỉ tồn tại trong vài tháng, từ tháng 3 đến tháng 8, 1945 thì bị chính quyền cách mạng khai tử vì bản chất phản động, tay sai của nó. Ngày 9/3/1945, Nhật “đảo chánh” Pháp và “trao trả độc lập” cho Việt Nam. Sau đó Bảo Đại và Trần Trọng Kim lần lượt được người Nhật đưa lên ngồi trên 2 chiếc ghế gọi là “Quốc trưởng” và “Thủ tướng”. Nhật đuổi Pháp chỉ để thực hiện mục đích là khai thác tài nguyên, bắt phu bắt lính phục vụ cho ý đồ thôn tính thế giới của chủ nghĩa Phát xít. Cái gọi là “Đế quốc Việt Nam” do một tay người Nhật dựng lên, do người Nhật quyết định để hợp thức hóa việc xâm lược nước ta. Các “bộ” được thành lập nhưng cái quan trọng nhất là quân đội thì “Đế quốc Việt Nam” lại không được Nhật cho phép thành lập; nghĩa là quân đội do người Nhật nắm để phục vụ ý đồ họ, chống lại dân tộc Việt Nam. Bảo Đại và Trần Trọng kim trơ mắt nhìn người Nhật tàn sát dân lành, cướp bóc, hãm hiếp, gây ra tội ác tày trời với nước ta.

Với chính sách bạo tàn và phi nhân tính, người Nhật bắt các tỉnh miền Bắc bỏ lúa để trồng đay, thu gom lúa gạo để chở về chính quốc đã gây ra cái chết oan nghiệt, đau thương của 2 triệu đồng bào miền Bắc và Bắc Trung bộ. Thái Bình là vựa lúa của miền Bắc nhưng dân Thái Bình chết do nạn đói 1945 lại cao nhất cả nước, tất cả cũng chỉ vì chính sách này. Bảo Đại và Trần Trọng Kim không dám lên tiếng khi mà các kho thóc của Nhật đầy ắp lúa gạo nhưng để nhân dân ta chết đói thảm thương. Người miền Bắc chỉ được cứu khi cách mạng tháng 8 diễn ra, Việt Minh phá kho thóc Nhật để cứu dân ta.  

Dân thì chết đói thê thảm, Hoàng Đế Bảo Đại lại nói Việt Nam tin cậy vào Nhật, sẽ đem tài lực giúp cho Đế Quốc Đại Đông Á của Nhật, sẽ quyết chí đem hết tài sản đất nước Việt Nam “hợp tác” với Nhật. Vậy “Đế quốc Việt Nam” đã thực sự bán nước cho Nhật rồi còn gì.

 “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung. Vậy Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên” (Bảo Đại, “Tuyên Ngôn Độc Lập” 11/3/1945). 
Trần Trọng Kim thì tuyên bố: “Quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có thành thì sự độc lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoáng qua”. 

Hy sinh nhiều hơn nữa ư? 2 triệu nhân mạng của người Việt để đổi lấy một “chính phủ” bù nhìn, vô thưởng vô phạt ấy, và sẽ còn cao hơn nữa nếu như Nhật không bị đồng minh đánh bại. Khi đó, Bảo Đại và Trần Trọng Kim lại vinh thân phì gia trên không biết bao xương máu của nhân dân ta nữa.

Những có kẻ đổ lỗi cho sự sụp đổ của “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” là do Việt Minh cướp “chính quyền”, nếu không thì Việt Nam đã có độc lập và không có chiến tranh là những kẻ không hề có trái tim và khối óc! Việt minh đuổi Nhật giành chính quyền về tay nhân dân chứ không phải là từ Pháp hay “đế quốc Việt Nam” vì bản chất “đế quốc Việt Nam” chỉ là đám ôm gối người Nhật, có quyền hành gì đâu mà bảo là cướp? Tuyên Bố Cairo ngày 27/11/1943 của phe Đồng minh đã nói rõ: Sẽ không công nhận bất cứ chính phủ nào do Đế Quốc Nhật thành lập tại các lãnh thổ chiếm đóng. Như vậy, “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” của Hoàng Đế Bảo Đại và Chính phủ Trần Trọng Kim chắc chắn sẽ không có tư cách pháp lý nào để tồn tại và sẽ bị phe đồng minh giải thể khi Nhật đầu hàng. 

Muốn lấy lại quyền làm chủ vận mệnh thực sự của dân tộc thì chắc chắn chỉ người Việt Nam mới giành và giữ được chính quyền của dân tộc mình. Cụ Hồ và Đảng ta không bao giờ muốn chiến tranh, gây đau thương, mất mát nên đã nhân nhượng khi Pháp trở lại Việt Nam. Nhưng “chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp lại càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa” vì lý do đó nên người Việt “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đó là nguyên nhân để chúng ta phải chiến đấu với Pháp. 

Mỹ thay Pháp để thực hiện chia cắt nước ta, vi phạm Hiệp định Giơnevơ và dựng lên cái gọi là “đệ nhất cộng hòa” của Diệm và “đệ nhị cộng hòa của Thiệu” để biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đó là nguyên nhân mà cụ Hồ kêu gọi “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!” Đó là cuộc chiến giữa một bên là nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với một bên là đế quốc Mỹ, chư hầu. VNCH cũng như Đế quốc Việt Nam về bản chất là giống nhau, chỉ khác một bên là tay sai của Nhật còn một bên là tay sai của Mỹ. 

Từ những lẽ trên, có thể nói, luận điệu cho rằng: “Đế Quốc Việt nam được thành lập với Bảo Đại là vua và Trần Trọng Kim làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời. Tuy thân Nhật, nhưng đây là một chính phủ mới được thành lập nhằm mục đích đón nhận nền độc lập được trao tay từ quân Nhật mà không phải qua chiến tranh đổ máu. Đây là nước đi vô cùng khôn khéo của vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim. Nhưng tiếc thay, nó đã bị Cộng sản phá nát và dẫn đến hệ quả là xuất hiện 2 cuộc chiến thảm khốc sau này” là luận điệu xuyên tạc lịch sử, mục đích cuối cùng là phủ nhận công lao to lớn của Đảng, của Bác Hồ Vĩ đại và của dân tộc Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đương nhiên những lập luận đó sẽ bị người Việt Nam bác bỏ vì nó vốn là sản phẩm của các thế lực thù địch.

Cách mạng tháng Tám thành công và thành quả vĩ đại mà nó mang đến chính là ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đây đất nước ta đã đã dùng cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược; bảo vệ độc lập, tự do và phẩm giá của người Việt Nam. Đất nước ta rũ bùn đứng dậy sáng loà và có cơ đồ, vị thế, uy tín trên trường quốc tế như hôm nay đều nhờ trí tuệ, tâm huyết, máu xương của cha anh. Thời đại Hồ Chí Minh bất diệt! Lịch sử dân tộc đã chứng minh, những kẻ phản bội tổ quốc, đi ngược lợi ích của quốc gia, dân tộc như Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu... đều có kết cục chung là thảm bại. Hào khí Việt Nam sẽ nhấn chìm những kẻ bán nước cầu vinh./.


Yêu nước ST.

XEM NHẸ LỊCH SỬ, HIỂM HOẠ KHÔN LƯỜNG!

         Sau khi Liên Xô sụp đổ vào một ngày mùa đông năm 1991, các học giả trên toàn thế giới đã phân tích nguyên nhân dẫn đến chuyện "hòn đá tảng của CNXH" bị vỡ vụn. Liên Xô vĩ đại mà Lênin và nhiều vị cách mạng tiền bối đã có công gầy dựng!
Vậy nhưng, năm 1991, Đảng Cộng sản Liên Xô với 20 triệu đảng viên lại sụp đổ, không phải do kẻ thù bên ngoài, mà chính là do những mầm mống diễn biến, tự diễn biến tư tưởng bên trong nội bộ Đảng. Phi chính trị hóa quân đội, truyền thông, báo chí và cả xét lại lịch sử, sai lầm trong cải tổ kinh tế mà người đứng đầu là Mikhail Gorbachev - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Yakovlev, Trưởng Ban Tuyên Giáo Đảng Cộng sản Liên Xô.  

Từ năm 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương “Tây hóa” của Gorbachev, từ đó các tờ báo này đã khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người dân ảo tưởng vào phương Tây và như thế “cả đàn sói đã chồm lên cắn vào lịch sử/ cào chiến công, xé xác những anh hùng”. Hàng loạt tướng lĩnh và đảng viên lão thành đều bị cho nghỉ hưu để nhường cho “lớp trẻ cấp tiến”, kinh tế chậm đổi mới, các vấn đề nội tại phát sinh cấp số nhân và ngày càng gay gắt…trào lưu xét lại lịch sử, xem nhẹ lịch sử và chiến công của các anh hùng Xô Viết, ca ngợi cái gọi là "dân chủ, văn minh phương Tây" đạt đến cao trào.

Điều gì đến đã phải đến, công lao mà Lê Nin và các thế hệ đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô trong phút chóc đã chìm xuống biển sâu! Đó là nỗi đau đoạn trường của những người Cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam chúng ta. Lãnh tụ vĩ đại của chủ nghĩa Cộng Sản, Lê Nin đã từng cảnh báo “không có kẻ thù nào, dù chúng hùng mạnh và hung hãn nhất có thể đánh bại được chủ nghĩa Cộng sản, ngoại trừ những người Cộng sản tự tiêu diệt chính họ, bằng những lỗi lầm không kịp khắc phục”. Tiếc thay, ngay trên quê hương của Lê Nin vĩ đại, hòn đá tảng của chủ nghĩa Xã hội lại sụp đổ một cách nhanh chóng vì những nguyên nhân nội tại là chủ yếu mà trước đó Lê Nin đã cảnh báo.

Việt Nam nên lấy tấm gương tày liếp của Liên Xô để đánh bại những Yakolev mới. Xem nhẹ lịch sử, sớm muộn cũng phải trả giá đắt khi mà các thế hệ nối tiếp mù màu về lịch sử, là cơ hội để các thế lực thù địch xuyên tạc, xét lại. Sớm muộn thì lịch sử Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh sẽ bị đám Việt gian bắt tay với ngoại bang bôi nhọ, hạ bệ. Mong những người, những cơ quan có trách nhiệm hãy lên tiếng, không để tiểu nhân đắc chí. Hiểm họa khôn lường. Bài học Zelensky và Ukraine hiện ngay trước mắt chúng ta. Đừng để "nỏ thần vô ý sa tay giặc/nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu"./.


Yêu nước ST.

PHẢN BÁC VỀ CÁI GỌI LÀ "CÔNG LAO TO LỚN ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC" CỦA VUA GIA LONG!

     Tháng 11 năm 2022, Hội đồng tư vấn đặt đổi tên đường Thừa Thiên Huế đề nghị đặt tên đường các vị vua triều Nguyễn và trước đó hội đồng Nguyễn Phước tộc Việt Nam đã tổ chức tọa đàm công lao và những đóng góp quan trọng về mặt lịch sử của hoàng đế Gia Long, tham dự có nhiều "nhà sử học" ở Thừa Thiên Huế.
Phát biểu tại buổi toạ đàm, đương kim Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Ông Phan Thanh Hải cho biết "Với 18 năm ở ngôi hoàng đế, vua Gia Long đã có những đóng góp to lớn cho lịch sử phát triển của đất nước và dân tộc, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh trong khu vực lúc bấy giờ". Theo ông Hải, với những công trạng trên, vua Gia Long xứng đáng được tôn vinh ở địa phương và tầm quốc gia nhưng trước hết là ngay trên vùng đất Thừa Thiên Huế - nơi triều Nguyễn đã để lại những kho tàng di sản vô cùng lớn mà ngày nay chúng ta đang kế thừa. Họ ca ngợi Gia Long với những ngôn từ hoa mỹ và cho rằng "trước đây do nhận thức chưa đầy đủ và thiếu tư liệu nên Gia Long mang tiếng xấu là cõng rắn cắn gà nhà"... Từ đó đã chỉ ra những đại công lao của Nguyễn Ánh. Xin có đôi lời:

Thứ nhất. Họ cho rằng: Vua Gia Long có công lao to tổ lớn khi thống nhất đất nước sau 245 năm (1558-1802) bị phân ly chia cắt (kể từ các cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn).

Xin thưa, Trịnh - Nguyễn phân tranh mấy trăm năm, đến năm 1777 thì Quân Trịnh diệt Quân Nguyễn. Sau này chính Nhà Tây Sơn đã đập tan tập đoàn Trịnh, Nguyễn, đánh bại 5 vạn quân Xiêm do chính Gia Long cầu viện (Gia Long cầu viện bằng cách ngồi bệt dưới chân Vua Xiêm. Đoàn tùy tùng thì quỳ mọp dưới chân Vua Xiêm để được giúp đỡ). Chính Vua Quang Trung đánh tan 29 vạn Quân Thanh ở Ngọc Hồi - Đống Đa. Thời vua Quang Trung còn sống, lãnh thổ Việt Nam cơ bản đã thống nhất, Nguyễn Ánh chỉ trốn ở một góc nhỏ Thổ Chu. Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn để lập quốc là vì Quang Toản và Tây Sơn suy yếu sau khi vua Quang Trung qua đời và kế thừa việc thống nhất đất nước từ thời Quang Trung. 

2. Thứ hai là mở rộng lãnh thổ, Việt Nam đến lúc đó là lớn nhất từ khi lập quốc và có công ổn định đất nước.

Nói thế có nghĩa là các người chẳng hiểu gì về lịch sử. Lãnh thổ Việt Nam thời Nguyễn Ánh không hề mở rộng thêm. Công lao khai phá miền Nam là của các Chúa Nguyễn chứ không phải Nguyễn Ánh. Gia Long vì lợi ích gia tộc nên cầu Pháp, Xiêm để đánh Tây Sơn, làm cho giang sơn đổ nát chứ ổn định gì. Triều Nguyễn là triều đại mà khởi nghĩa nông dân nhiều nhất, hàng trăm cuộc khởi nghĩa chống vua quan nhà Nguyễn nổ ra. Năm 1802, sau khi lên Ngôi, Nguyễn Ánh đã cắt đất Trấn Ninh cho Ai Lao. Làm cho lãnh thổ nước ta bị thu hẹp lại. Vậy nên nói Nguyễn Ánh mở mang bờ cõi là không có cơ sở. Xuyên tạc lịch sử.

Thứ Ba. Họ cho rằng, Gia Long là vị hoàng đế khai sáng nhà Nguyễn và đã có ý thức mạnh dạn xác lập và thực thi chủ quyền biển đảo, đặc biệt là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Đây là luận điệu xuyên tạc, vơ công. Hoàng Sa và Trường Sa xác lập từ thời vua Lê Thánh Tông và sau này các chúa Nguyễn tiếp tục sự nghiệp. Nguyễn Ánh chỉ là kẻ kế thừa sau khi thắng Tây Sơn. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rõ. Gia tộc Nguyễn Ánh chớ nhận vơ. Các bạn phải chiết tự, hiểu rõ thế nào được gọi là "xác lập chủ quyền" để không rơi vào tình trạng dốt nhưng thích chơi chữ. Nói "có ý thức mạnh dạn xác lập và thực thi chủ quyền biển đảo, đặc biệt là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa" khác nào phủ công lao của tiền nhân đã xác lập chủ quyền của Đại Việt trước Nguyễn Ánh ít nhất là 300 năm.

Thứ Tư. Là người khởi đầu thiết kế di sản Đại nội Huế

Ồ, xây dựng tổ ấm cho cả vương triều mà gọi là công? Thành, đại nội xây bằng xương máu của người Việt như cách Tần Thủy Hoàng xây cung A Phòng, như Trần Dụ Tông xây dựng chốn ăn chơi trắc táng. Đó là thành quả của dân tộc chứ không phải là do Nguyễn Ánh. Vạn niên là vạn niên nào/thành xây xương lính hào đào máu dân.

CÁC TRỌNG TỘI CỦA NGUYỄN ÁNH:

1. Cắt Trấn Ninh cho Lào:

Cái này được ghi nhận trong Đại Nam thực lục của chính triều Nguyễn, phần cương thổ về Trấn Ninh như sau:

“Tính ra trong vòng hơn 300 năm Trấn Ninh vẫn theo chức cống, đất rộng dân đông, đứng đầu các Man, Trình Quang là đô ấp. Cuối đời Vĩnh Hựu tôn thất nhà Lê là Duy Mật chiếm cứ hơn 30 năm, đến năm Cảnh Hưng thứ 31 mới dẹp được, rồi cho thị tộc Cầm nối đời làm xà chánh xà phó …. Bản triều đầu đời Gia Long, Thiệu Ấn nước Vạn Tượng có công đánh giặc (Tây Sơn), do đó đem đất này cho Vạn Tượng”.

2. Quỳ mọp xin Vua Xiêm để kéo quân Xiêm tàn hại dân tộc.

Năm 1784, Ánh sang Xiêm và quỳ mọp dưới chân vua Xiêm cầu viện để đánh Tây Sơn. Cuối cùng, dân Xiêm tàn sát mất vạn người, cướp của giết dân. Ánh là kẻ cỏng rắn cắn gà nhà có sai. Ai bảo là nhận thức chưa đầy đủ, chưa có tư liệu. Giám đốc sở Văn hóa - Thể thao và du lịch Thừa Thiên Huế bảo thế khác nào xách mé, bảo Chủ tịch Hồ Chí Minh là "chưa nhận thức đầy đủ" về lịch sử?

3. Góp lương thảo cho giặc Thanh:

Đại Nam thực lục ghi nhận: “Nguyễn Ánh Sai Cai cơ Nguyễn Đình Đắc đi dò tình hình Bắc Hà. Mùa hạ năm Kỷ dậu [1789], vua nghe tin người Thanh đem quân Lưỡng Quảng vì nhà Lê mà đánh giặc Tây Sơn, bèn sai sứ thần là bọn Phan Văn Trọng và Lâm Đề mang thư sang Thanh và đem 50 vạn cân gạo giúp lương cho quân. Gặp bão đắm cả ở biển lâu không nghe tin tức. Đến đây nghe tin quân Thanh bị giặc đánh bại, đã không đánh lại mà còn phong cho (giặc). Vì vậy mới sai Đình Đắc đi dò tin tức vua Lê, nhân tiện chiêu dụ những hào kiệt Bắc Hà.”

Đây cũng là thời điểm mà chính sử nhà Nguyễn than thở về việc dân chúng Gia Định đói khổ do bị quân Tây Sơn cướp phá, nhưng chính ở thời điểm dân đói khổ như thế, Nguyễn Ánh vẫn không hề tiếc rẻ 50 vạn cân gạo để nhân cơ hội tạo mối quan hệ tốt đẹp với thiên triều thứ hai là nhà Thanh. Đấy quả là tài năng ngoại giao không hề nhỏ chút nào nhỉ ?!

4. Hiệp ước Versailles.

Hiệp ước này gồm 10 khoản, nội dung chính là về việc Hoàng đế Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté cùng 1.200 bộ binh 200 pháo binh và 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi) và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam mỗi năm sẽ đóng trả cho Pháp một chiếc tàu giống với loại tàu Pháp viện trợ đồng thời cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông.

Hiệp ước này được ký khi Nguyễn Ánh giao hoàng tử Cảnh làm con tin cho Đa Bá Lộc đại diện đem qua Pháp trong tình thế tuyệt vọng khi phải đi tẩu quốc, và quân thiên triều Xiêm La cũng đã bị đánh bại, hiệp ước này sau đó không được Pháp thực thi do dính Cách Mạng Pháp năm 1789, sau này Pháp dùng để làm cớ nổ súng vào nước ta. (Nguồn: Chủ yếu trong Đại Nam thực lục, biên khảo của Nguyễn Duy Chính.)

Đương nhiên nhiêu đây chỉ là những điều nổi bật nhất về Nguyễn Ánh mà mình nghĩ là rất dễ tìm thấy trong các tài liệu lịch sử, thậm chí ngay trên mạng. Còn rất nhiều tội danh khác, nhưng mình nghĩ nhiêu đây là đã quá dài rồi, nếu có thắc mắc, hoặc bổ sung, tranh luận, mình rất sẵn sàng trao đổi dưới bình luận.

Tóm lại, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thừa Thiên - Huế đòi vinh danh, đặt tên đường kẻ bán nước, làm tôi tớ cho ngoại bang như Ánh là không thể chấp nhận được./.


Hình thứ ba, Nguyễn Ánh ngồi bệt dưới chân vua Xiêm năm để cầu Xiêm mang quân xâm lược nước ta năm 1785.
Yêu nước ST.

Điện Biên Phủ - Sự phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

 

Ngay khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn một cuộc chiến tranh xảy ra. Song mọi cố gắng, nỗ lực của phía Việt Nam đã bị dã tâm xâm lược của thực dân Pháp chối bỏ. Trước tình thế đó, ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra bản Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Bản chỉ thị nêu rõ: Mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc; tính chất: Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến; các chính sách của cuộc kháng chiến là đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt để chống thực dân Pháp. Tiếp đó, nhằm chống lại những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, thay mặt Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(1).

Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những văn kiện cơ bản hợp thành đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Đường lối đó hợp lòng dân nên đã nhanh chóng quy tụ và phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đứng lên đấu tranh giành độc lập và tự do cho đất nước, dân tộc.

Với đường lối chiến lược đúng đắn, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta từng bước giành những thắng lợi to lớn. Từ năm 1945 đến năm 1953, quân và dân ta liên tiếp làm thất bại mọi kế hoạch chiến lược của địch, từ kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, kế hoạch phong tỏa biên giới và “làm chủ vùng đồng bằng”, đến kế hoạch “giành quyền chủ động chiến lược”. Thất bại dồn dập về quân sự, hao tổn về tài chính, buộc thực dân Pháp phải dựa hẳn vào đế quốc Mỹ, xin thêm nhiều viện trợ nhằm đẩy mạnh chiến tranh với mong muốn giành thắng lợi quân sự để kết thúc chiến tranh trong danh dự. Với ý đồ đó, Kế hoạch Navarre - một kế hoạch đầy tham vọng của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ra đời. Mục tiêu của kế hoạch là giành thắng lợi quyết định về quân sự trong vòng 18 tháng để kết thúc chiến tranh có lợi cho cả Pháp và Mỹ. Với tham vọng giành lại quyền chủ động trong thế bị động, H. Navarre đã đổ quân tinh nhuệ của Pháp xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Theo đó, quân địch chiếm đóng ở Điện Biên Phủ với quân số lúc cao nhất lên tới 16.200 tên, gồm những đơn vị tinh nhuệ, bố trí trong 49 cứ điểm, chia làm ba phân khu: Bắc, Nam và Trung tâm. Ỷ vào thế mạnh về quân sự, vào ưu thế của vũ khí, trang bị và khả năng tiếp tế, thực dân Pháp và cả đế quốc Mỹ đều đi đến một nhận định, Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “con nhím” hoàn hảo được tổ chức phòng ngự theo kiểu hiện đại, là nơi “nghiền nát chủ lực của Việt Minh”. Trái với những tham vọng và tuyên bố huênh hoang, hiếu chiến của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam lại khẳng định sự tất thắng của sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc trước kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh, vũ khí tối tân, hiện đại. Trong lịch sử, chính sức mạnh đó đã “nhấn chìm” không ít kẻ thù hung bạo khi chúng đến xâm lược Việt Nam.

Sau khi phân tích tình hình trên các chiến trường, đầu tháng 12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định tập trung lực lượng mở chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”(2). Từ đây, một cuộc động viên sức người, sức của của toàn dân tộc đã được triển khai rầm rộ, với quy mô lớn chưa từng có. Công nhân, nông dân, trí thức, học sinh, nhà buôn và cả một số địa chủ, tư sản, ai ai cũng sẵn lòng góp công, góp của. Đâu đâu cũng có phong trào ra quân rầm rộ. Hội đồng Cung cấp Mặt trận Trung ương nhanh chóng được thành lập, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch, đã chỉ đạo các địa phương, các ngành kinh tế, tài chính, tổ chức động viên nhân tài, vật lực của cả nước cho cuộc kháng chiến. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, mọi địa phương đều thi đua chi viện cho mặt trận. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, dù nhiều nơi mới được giải phóng, còn rất nhiều thiếu thốn, nhưng đã tích cực đóng góp cho chiến dịch đến 1.200 tấn gạo, 300 tấn thịt và gần 100 tấn rau. Liên khu Việt Bắc đóng góp 7.311 tấn lương thực, riêng tại Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và tỉnh Lai Châu) là 2.266 tấn. Ở Liên khu III (do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo), tuy còn nhiều vùng địch chiếm đóng nhưng cũng huy động được 1.183 tấn gạo, 57 tấn muối. Ở Liên khu IV, chủ yếu là tỉnh Thanh Hóa, mặc dù đồng bào còn rất khó khăn, nhưng vì tiền tuyến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, nhân dân đã sẵn sàng và huy động hơn 8.000 tấn thức ăn khô. Đặc biệt, dù là nơi đang trực tiếp chiến đấu với địch, nhân dân huyện Điện Biên cũng đóng góp được 555 tấn lương thực (vượt mức trên giao 64 tấn), 226 tấn thịt (vượt 43 tấn)(3).

Cùng với những đóng góp tích cực của nhân dân cả nước về lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, lực lượng dân công của các địa phương cũng được huy động đủ đáp ứng yêu cầu cho chiến dịch. Liên khu III tổ chức mỗi đoàn từ 300 đến 500 người. Tỉnh Hòa Bình huy động 5.000 dân công làm đường. Huyện Mỹ Đức (Hà Đông) mới giải phóng đã có 800 người tình nguyện đi dân công phục vụ chiến dịch, huyện Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình) huy động đội xe thồ 150 chiếc làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực. “Ngay tại hỏa tuyến, đồng bào Điện Biên cũng đưa 3.000 người đi dân công với 64.670 ngày công phục vụ. Hậu phương tại chỗ, khu Tây Bắc huy động 31.818 dân công. Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến chung của cả nước cũng cung cấp cho mặt trận 36.518 dân công. Trong vùng địch hậu tỉnh Kiến An đã đóng góp 230.294 ngày công. Trong vùng tạm chiếm của các tỉnh Bắc Bộ, đồng bào đã chuyển ra vùng tự do hơn 20 vạn tấn thóc và 7,5 triệu ngày công đi dân công”(4).

Tính chung trong chiến dịch, ngoài 16 đại đội ô tô vận tải của quân đội, các phương tiện thô sơ của các địa phương là lực lượng hết sức quan trọng và vận chuyển hiệu quả hàng hóa, điển hình có tới hơn hai vạn xe đạp thồ được huy động. Ngoài việc tham gia vận tải gạo, đạn cho chiến trường, lực lượng dân công còn tích cực tham gia vận chuyển thương binh ra hậu cứ để cứu chữa, trực tiếp vào tận chiến hào để phục vụ chiến đấu. Đồng bào nhiều địa phương cùng sát cánh bên nhau xẻ núi, san đồi, làm đường, phá thác để mở lối cho quân đi, cho thuyền chở hàng qua lại. Nhờ những nỗ lực đó mà điều lo lắng và khó khăn nhất tưởng chừng như không thể vượt qua là vấn đề hậu cần chiến dịch đã được giải quyết thành công. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần tạo nên thành công vượt bậc đó.

Tổng kết toàn chiến dịch, nhân dân cả nước huy động được 23.126 tấn gạo, 266 tấn muối, 992 tấn thịt, 800 tấn rau, 917 tấn thực phẩm khác... Huy động 216.451 lượt dân công bằng 12 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 736 xe súc vật kéo, 11.400 thuyền bè mảng(5). Ghi nhận kết quả này, tại Hội nghị tổng kết chiến dịch, thay mặt cho toàn quân, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề cung cấp đạn dược là nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật; khó khăn về cung cấp lương thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn trương từng ngày từng giờ, không kém tình hình chiến đấu… quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng, chúng ta có thể khắc phục khó khăn này. Bọn đế quốc, phản động không bao giờ đánh giá được sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù”(6). Đánh giá kỳ tích này, tướng Pháp Y. Gra nhận xét rất đúng rằng: “Cả dân tộc đã tìm ra giải pháp cho vấn đề hậu cần và giải pháp này đã làm thất bại mọi toan tính cũng như dự kiến của Bộ Tham mưu Pháp”(7).

Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc còn được huy động ở mức cao nhất trong phối hợp tiến công trên các hướng chiến lược để căng kéo quân địch, buộc chúng phải phân tán ra các chiến trường theo ý định của ta. Quân và dân ta ở khắp các địa phương trong cả nước, từ Tây Bắc, Liên khu III, Tả ngạn, đến Bình - Trị - Thiên, Liên khu V, Bắc Tây Nguyên, Sài Gòn - Gia Định, Nam Bộ… đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân, buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó. Tại Liên khu III, ta tăng cường tiến công tập kích Đường 5 - tuyến đường vận tải chiến lược của địch từ Hải Phòng về Hà Nội; đồng thời, liên tiếp tập kích các sân bay Gia Lâm và Cát Bi để phá tuyến vận tải đường không của địch chi viện cho Điện Biên Phủ… Ở chiến trường Nam Bộ, theo chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam đã chỉ đạo dốc toàn lực đẩy nhanh nhịp độ tiến công để phối hợp với Chiến dịch Điện Biên Phủ. Các đơn vị chủ lực của các khu và các tỉnh đã kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào vùng địch hậu các tỉnh: Thủ Biên, Long Châu Sa, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu… Bằng nhiều hình thức, như phục kích, tập kích, công đồn, các lực lượng vũ trang Nam Bộ đã diệt nhiều sinh lực địch, phá nhiều đồn bốt. Trong cả nước, nhân dân từ Nam chí Bắc, từ thành thị đến nông thôn liên tiếp mở nhiều cuộc đấu tranh, vùng lên diệt ác, phá tề, giành quyền làm chủ. Các lực lượng thanh niên, phụ nữ từ thành thị đến nông thôn, từ vùng núi đến đồng bằng tích cực tham gia đấu tranh chính trị, phá tề trừ gian. Qua đó, ta đã phân tán một bộ phận quan trọng lực lượng địch, buộc chúng phải căng sức đối phó, bị giam chân ở nhiều chiến trường. Đây là những hoạt động phối hợp kịp thời của cả nước có tác động tích cực tới chiến trường Điện Biên Phủ.

Để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vấn đề quan trọng là phải giải quyết hợp lý quyền lợi giữa các tầng lớp nhân dân ở vùng hậu phương. Nhiệm vụ tối cao lúc này là kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc; song, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chú trọng giải quyết thỏa đáng những quyền lợi giữa các tầng lớp nhân dân, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi tối cao dân tộc và không làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nổi bật trong thời gian này ở hậu phương (vùng mới giải phóng), Đảng đã có chủ trương và chính sách nhằm đem lại mục tiêu, quyền lợi dân chủ, nhất là cho nông dân - lực lượng đông đảo nhất trong xã hội. Theo đó, năm 1953, Đảng phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện “Người cày có ruộng”. Tháng 12-1953, Luật Cải cách ruộng đất được ban hành. Trên thực tế, từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở vùng tự do. Điều đó đã động viên được các tầng lớp nhân dân ở vùng tự do và sau lưng địch, làm cho cán bộ, chiến sĩ ở tiền tuyến càng tin tưởng sâu sắc vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo thành khối đại đoàn kết, dồn sức người, sức của cho chiến dịch. Bên cạnh đó, trong suốt cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp cũng như trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã có thành công lớn trong vận động nhiều địa chủ, tư sản dân tộc cùng con em, gia đình họ tham gia kháng chiến.

Lực lượng công an đã góp phần tích cực trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tích cực phối hợp hoạt động, thành lập “Ban Công an tiền phương” làm nhiệm vụ bảo vệ các lực lượng tham gia chiến dịch, bảo vệ dân công, bảo vệ giao thông vận chuyển, kho tàng, các cuộc hành quân, trú quân của bộ đội chủ lực. Từng đơn vị tổ chức ra các ban bảo vệ dân công và phát động phong trào “phòng gian bảo mật”; giữ bí mật, phổ biến cách thức phòng, chống do thám, điều tra của địch; quy định việc đi lại, tiếp xúc giao dịch… Tính từ tháng 1 đến tháng 5-1954, Công an Liên khu II, IV, khu Tây Bắc, Việt Bắc đã bắt hàng trăm tên tình báo gián điệp chuyên theo dõi thu thập tin tức về các cuộc hành quân, đóng quân của bộ đội ta từ các hướng lên Điện Biên Phủ(8). Phong trào “phòng gian bảo mật” được phát động rộng khắp trên toàn mặt trận, công tác chống gián điệp, bảo vệ nội bộ được triển khai một cách chủ động, vững chắc và đạt hiệu quả cao; vì vậy, địch hoàn toàn bất ngờ và bị động trước sự tiến công của ta. Đồng thời, lực lượng công an đã làm tốt công tác bảo vệ lãnh tụ, bảo vệ các cơ quan đầu não chỉ đạo kháng chiến, bảo đảm tuyệt đối an toàn trong mọi tình huống…

Sức mạnh đoàn kết, sự đồng tâm hiệp lực của cả dân tộc Việt Nam đã quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Nhờ sự đoàn kết chặt chẽ và anh dũng hy sinh của toàn quân và toàn dân ta, chúng ta đã đại thắng ở Điện Biên Phủ”(9). Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ đường lối chiến lược đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo kiên quyết và tham gia tích cực của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương bằng những hình thức, biện pháp hết sức linh hoạt, sáng tạo và đặc biệt là sự tham gia đông đảo của mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân để “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”. Chính sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ấy được phát huy cao độ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ mà tướng H. Navare - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương - đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”

 

NHẮC LẠI GIÚP BẠN: KHI TỘI ĐỒ DÂN TỘC, TỘI NHÂN THIÊN CỔ CỦA NƯỚC VIỆT TRƯƠNG VĨNH KÝ ĐƯỢC LÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA!

     Người Việt Nam luôn có truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn biết ơn các thế hệ cha anh đã chiến đấu, hy sinh, đóng góp to lớn để xây dựng đất nước, để lại giang sơn tươi đẹp cho cháu con muôn đời sau. Những Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp... là những tượng đài trong lòng dân tộc.
Đó là những đại diện tiêu biểu nhất trong thế hệ của họ, có những đóng góp vĩ đại cho dân tộc. Nhân dân Việt Nam đời đời biết ơn các vị anh hùng dân tộc, căm ghét những kẻ bán nước, thờ giặc với mục đích vinh thân phì gia. Ấy thế mà lâu nay, chẳng biết lý do gì, bỗng nhiên người ta tô vẽ lên những bộ xương khô trong mả của những kẻ bán nước, hại dân như Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký...xem lũ bán nước như những anh hùng dân tộc, thờ cúng linh đình.

Trương Vĩnh Ký kẻ trọn một đời phục vụ cho mục đích xâm lược, đô hộ của người Pháp, hiện được đặt tên đường, tên trường và được Nguyễn Minh Thuyết bê vào sách giáo khoa lớp 3 để ca ngợi. Mới đây lại được VTV1 đưa lên sóng Truyền hình Quốc gia... Trương Vĩnh Ký tội nghiệt chồng chất, cao hơn cả đỉnh Hoàng Liên Sơn và dù có lấy hết nước của 4 bể dưới gầm trời này thì chẳng bao giờ rửa sạch tội phản quốc của ông ta. Ký là kẻ phục vụ đắc lực cho lợi ích của Pháp; ông ta được chính phủ Pháp ban tặng huy chương Đệ Ngũ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh, và được chính phủ thuộc địa bỏ tiền mua sách, cấp cho tiền lương mỗi năm là 13.800 quan (kể cả tiền dạy học). Để so sánh, lúc đó lương của Thống đốc Nam Kỳ cũng chỉ có 18.000 quan, lương của ông Tổng thư ký là 15.000 quan. 

Như vậy lương của Trương Vĩnh Ký đứng hàng thứ ba, chỉ sau hai viên chức cao cấp nhất người Pháp. Người Pháp đã bỏ số tiền đó ra để nuôi kẻ có công giúp họ trong việc chống lại nghĩa quân Cần Vương và vùi dập những người yêu nước, kháng Pháp trong biển máu. Những thành tích nổi bật của Ký như: Bày mưu, tính kế để người Pháp tàn sát, giết hại người yêu nước tham gia phong trào Cần Vương chống pháp, là kẻ bày mưu “dùng người Việt trị người Việt” khi đề xuất Toàn quyền Pháp hỗ trợ vũ khí, đào tạo kỹ thuật cho những kẻ tay sai là người Việt, dùng những người đó để đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân ta (Đây là kế “đổi màu da trên xác chết mà sau này người Mỹ học để xâm lược Việt Nam). 

Trong các bức thư gửi Toàn quyền Pháp, Pétrus Ký bày cho ông ta cách đàn áp phong trào kháng chiến Cần Vương như sau: "Nay họ chỉ còn cách thần phục nước Pháp. Xứ Trung kỳ mà ngài vừa ban cho nền tự trị sẽ phải bắt buộc ở dưới sự giám hộ của người bảo hộ nó. Bọn phiến loạn (nghĩa quân Cần vương) không đáng sợ; họ chỉ có những khí giới cổ lỗ của chính quyền An Nam và vài võ khí mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa".

Tự tưởng thần phục, cam chịu làm khuyển mã cho người Pháp, ông ta xem người Pháp là những người khai hóa văn minh: “về phương diện chính trị và kinh tế, nước Pháp là người đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ chịu đồng hóa. Ông tin rằng việc người Pháp tấn công Việt Nam là một "sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó", và người Pháp với tư cách là "chủ nhân", cần giảng dạy người An Nam những tư tưởng và khái niệm cần thiết cho việc cải tạo người An Nam”.

Năm 1886, Paul Bert được Trương Vĩnh Ký tư vấn, ép vua Đồng Khánh nhượng cho Pháp khu đất nằm giữa trấn Bình Đài và Linh Hựu Quán để Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bốt, nhà thương, kho hậu cần... Linh Hựu Quán bị triệt giải từ đó. Và cũng từ đó người dân ở Huế gọi khu nhượng địa mới này là Mang Cá Lớn, khu Trấn Bình Đài cũ là Mang Cá Nhỏ.

Chẳng biết từ bao giờ những kẻ bán nước, làm tay sai cho ngoại Bang như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký lại được vinh danh, đặt tên trường và tên đường ở nhiều tỉnh thành. Ngày xưa, Ngụy Sài Gòn là tay sai, là tôi tớ của Đế quốc Mỹ, thân phận của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu…và Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký là như nhau.

Nếu ngụy ca ngợi và vinh danh ngụy cũng không có gì là lạ. Thế nhưng chẳng hiểu tại sao, ngành truyền thông của đất nước ta, đất nước của những người anh hùng chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc lại làm cái việc vong luân, bại lý thế này? Xin dành câu hỏi này cho các vị có trách nhiệm quản lý lĩnh vực “văn hóa tư tưởng”, các vị phải có trách nhiệm trả lời cho nhân dân Việt Nam câu hỏi này.

Chương trình Khát vọng non sông do Dương Trung Quốc cố vấn thì mùi khắm thối là phải rồi. Chính ông Quốc là người tiên phong trong việc rửa mặt cho Trương Vĩnh Ký. Ông ta từng cho rằng “dù theo Pháp nhưng Trương Vĩnh Ký yêu nước theo cách của Ông ấy”. Xin hỏi, Trương Vĩnh Ký yêu nước là yêu nước nào, nếu không phải là nước Pháp? Một đám u mê trong nhận thức, bại hoại trong tư tưởng và phản động về mặt động cơ. Trương Vĩnh Ký yêu nước ư? Rặt một đám phản quốc. Cần loại bỏ tên đường, tên trường, lễ hội cũng giỗ đối với các nhân vật phản quốc như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký. Đáng buồn đáng trách VTV1 khi đưa tội đồ dân tộc, tội nhân thiên cổ của nước Việt lên sóng truyền hình Quốc gia./.


Yêu nước ST.

Luận điệu chống phá lực lượng Công an Nhân dân

 

 

          Nhằm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu và các hoạt động “phi chính trị hóa” lực lượng công an nhân dân, tìm mọi cách làm cho cán bộ, chiến sỹ công an suy yếu về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, từ đó thúc đẩy các hoạt động “tự diễn biến”, phá vỡ bức tường thép quan trọng trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Do vậy, cần nhận diện thủ đoạn, hoạt động mà các đối tượng thường sử dụng trong thời gian qua như sau:

          Thứ nhất, các đối tượng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về bản chất cách mạng, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng công an nhân dân, cho rằng “Công an là công cụ đàn áp của Đảng Cộng sản”, hay rêu rao rằng “Bộ Công an lấn quyền và tạo hình ảnh bất khả xâm phạm”; tìm mọi cách chia rẽ Công an với nhân dân, với Quân đội và các lực lượng khác trong hệ thống chính trị ở nước ta.

          Thứ hai, lợi dụng việc một số tin báo điện tử trong nước đăng tin bài, hình ảnh phản ánh sai phạm của lực lượng Công an địa phương trong điều tra một số vụ án và hành vi tiêu cực của cảnh sát giao thông để thổi phồng các vụ việc, lấy sai phạm của một số cá nhân để quy kết, xuyên tạc, vu cáo, bóp méo sự thật nhằm bôi đen, làm mất uy tín lực lượng Công an, kích động quần chúng chống cán bộ Công an thi hành công vụ.

          Thứ ba, cố ý bôi nhọ, hạ bệ hình ảnh cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an.

          Thứ tư, đối với một số vụ việc gây rối trật tự công cộng, có tính chất nguy hiểm đối với xã hội, phải sử dụng lực lượng Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm để giải quyết, các đối tượng cho rằng lực lượng Công an nhân dân ngày nay không còn là của nhân dân, bảo vệ nhân dân, mà là công cụ để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người có chức, có quyền, qua đó nhằm đối trọng nhân dân với lực lượng Công an.

          Thứ năm, lợi dụng không gian mạng như: Youtube, Blog, Facebook…, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tạo lập hàng trăm tài khoản ảo, cắt ghép một số hình ảnh, video liên quan đến lực lượng Công an để đưa ra những bình luận ác ý, tung tin sai sự thật, bịa đặt nhằm công kích vào tâm lý người dân, gây sự hoài nghi, làm giảm sút lòng tin đối với chế độ.

          Những âm mưu, thủ đoạn và những việc làm của các thế lực thù địch là rõ ràng, càng chứng minh tính chất phản động, phản cách mạng của họ, thay vì có những đóng góp cho việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội thì họ lại cố ý phá vỡ tính ổn định đó bằng những luận điệu phi lý, lố bịch./.