Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

Vận dụng tư duy chiến lược Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cục diện thế giới mới

“Tư duy chiến lược Hồ Chí Minh” về đối ngoại và đoàn kết quốc tế là hệ thống các tư tưởng, quan điểm về thế giới và quan hệ quốc tế, các chiến lược, kế sách và biện pháp toàn cục, dài hạn trong đường lối cách mạng của Việt Nam, tương quan tổng thể với thế giới và quan hệ quốc tế, trong đó có vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây là quan điểm cần được tiếp tục quán triệt và vận dụng sáng tạo trong cục diện thế giới phức tạp và khó dự báo hiện nay.

Sức mạnh dân tộc trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Sức mạnh dân tộc là sức mạnh tổng hợp của con người, các giai tầng và nhóm xã hội trên mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, văn hóa, xã hội… Từ triết lý về nhân dân của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi “đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân” và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Nhân dân là phạm trù trọng tâm trong tư duy chiến lược Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam; còn sức mạnh dân tộc trên hết và trước hết là sức mạnh của nhân dân, với nội hàm cụ thể là các nội dung khác nhau, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa sức mạnh của nhân dân với sức mạnh của đất nước trong cục diện thế giới. Người khẳng định: “Dân có giàu thì nước mới mạnh”, “Dân cường thì quốc thịnh”, “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ”. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Như vậy, trong tư duy chiến lược Hồ Chí Minh, sức mạnh của dân tộc thể hiện tập trung ở yếu tố “5 dân”: dân giàu, dân cường, dân khí, dân trí và dân chủ. Năm yếu tố này có mối quan hệ hữu cơ và có nội hàm mang tính lịch sử cụ thể bởi “Tình hình thế giới và trong nước luôn luôn biến đổi, công việc của chúng ta nhiều và mới, kỹ thuật của thế giới ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết của chúng ta có hạn. Muốn tiến bộ kịp sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập. Nghiên cứu học tập lý luận và kỹ thuật”.

Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy phát triển kinh tế số (DE) và toàn cầu hóa số (DG) cùng sự xuất hiện của thời đại trí tuệ nhân tạo (AI). Trong bối cảnh đó, Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển mới, đồng thời cũng phải đối mặt với những thách thức lớn, trong đó có thách thức đối với “bộ ba” - “thể chế, con người và công nghệ” trong quá trình kiến tạo mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo theo chiều sâu. “Cuộc cách mạng công nghệ có thể sớm đẩy hàng tỷ người ra khỏi thị trường lao động và tạo ra một “tầng lớp vô dụng” khổng lồ mới, dẫn đến những biến động xã hội và chính trị mà không một chủ thuyết hiện hữu nào biết cách giải quyết”. Cảnh báo này thiết nghĩ cần được xem xét thấu đáo.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đón Chủ tịch, Tổng Giám đốc Tập đoàn Nvidia Jensen Huang - tập đoàn sản xuất chip lớn nhất thế giới thăm và làm việc tại Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) cơ sở Hòa Lạc, thành phố Hà Nội_nguồn: dantri.com.vn

Năm 2023, Việt Nam có hơn 52 triệu người ở độ tuổi lao động, trong đó ước tính có 14,1 triệu người (chiếm khoảng 27%) đã qua đào tạo có bằng cấp và chứng chỉ (nhân lực có trình độ từ đại học trở lên mới chỉ có khoảng hơn 5 triệu người - chiếm hơn 10%). Năm 2022, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 11,4% mức năng suất lao động của Singapore, bằng 24,4% mức năng suất lao động của Nhật Bản, 24,7% của Hàn Quốc, 35,4% của Malaysia, 59% của Trung Quốc, 64,8% của Thái Lan và bằng khoảng 79% mức năng suất lao động của Indonesia. Hiện nay, do chuyển dịch chuỗi cung ứng trong khu vực và trên thế giới, ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn của Việt Nam đang có cơ hội lớn nhưng lại đang thiếu hụt nguồn nhân lực trầm trọng. Cả nước hiện có hơn 5.500 kỹ sư thiết kế chip, nhưng mới chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu. Qua những con số trên có thể thấy, lực lượng lao động Việt Nam trong quá trình chuyển đổi số hiện nay vẫn còn những hạn chế về trình độ và kỹ năng. Tuy nhiên, để hóa giải thách thức về nguồn nhân lực, trước hết cần tháo gỡ các “nút thắt” trong thể chế, nâng tầm nhìn chiến lược cùng năng lực chỉ đạo thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

Theo nhà kinh tế học Nhật Bản Masahiko Aoki, thể chế là một luật chơi trong xã hội, một thể chế tốt sẽ thúc đẩy các tác nhân hành động mang lại lợi ích cho xã hội... Điều quan trọng là không chỉ đánh giá được các quy tắc mà thể chế đó đưa ra, mà còn đánh giá được các động lực mà cá nhân thực thi các luật chơi đó. "Sức mạnh mềm" về thể chế là một cấu thành quan trọng của sức mạnh dân tộc, có vai trò “kép” là vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm sự phát triển của "sức mạnh cứng" về nguồn lực con người và công nghệ. Hiện nay, các thể chế chính trị, pháp lý, kinh tế và xã hội ở Việt Nam đều đang tiếp tục được hoàn thiện. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, “một số tiêu chí về quản trị công còn đạt điểm số và thứ hạng thấp, hiệu lực thực thi các quy định của Nhà nước chưa được cải thiện nhiều; thể chế bảo vệ quyền tài sản, quyền sở hữu trí tuệ chưa được thực thi hiệu quả; thể chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo vẫn còn dấu ấn của cơ chế xin - cho; thể chế bảo đảm sự minh bạch, thúc đẩy phối hợp vì sự phát triển chung của quốc gia trong bộ máy quản trị đất nước còn yếu”. Điều này nếu không sớm được khắc phục thì sẽ càng làm gia tăng nguy cơ đẩy người lao động vào “tầng lớp vô dụng trong kỷ nguyên AI” và kéo theo những hệ lụy chính trị - xã hội khó lường, làm suy yếu sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Bên cạnh đó, vấn nạn tham nhũng - một trong những “lỗ hổng” lớn tác động đến quá trình thực hiện dân chủ và làm gia tăng khoảng cách “giàu - nghèo” - cũng đang làm suy giảm “dân khí” quốc gia; vấn đề cơ cấu dân số của Việt Nam đang dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ người cao tuổi và giảm tỷ lệ dân số trẻ. Việt Nam hiện trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, đồng thời cũng trong quá trình già hóa dân số. Những thách thức này tác động đan xen làm suy giảm cả “sức mạnh cứng”, “sức mạnh mềm” và sức mạnh tổng hợp của dân tộc, đồng thời làm gia tăng rủi ro rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” trong tương lai. Để hóa giải những thách thức này, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra nhiều giải pháp có tính khả thi cao, trong đó có “hội nhập quốc tế toàn diện” - một phương thức kết hợp tối ưu sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Hội nhập quốc tế toàn diện

Trong tư duy chiến lược Hồ Chí Minh, sức mạnh thời đại là những “trào lưu quốc tế”, “sự phát triển của khoa học - kỹ nghệ” và những “trung tâm công nghiệp” cùng “hệ thống đường giao thông”, “sự đoàn kết quốc tế” và “lực lượng đoàn kết của nhân dân” thế giới… Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (năm 1945), nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, lấy Quốc hiệu là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, bên dưới là tiêu ngữ: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Các khái niệm định tính trong Quốc hiệu, tiêu ngữ này đều là những giá trị tiến bộ chung của nhân loại, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó “hạnh phúc” là tiêu chí tổng hợp cuối cùng đánh giá tính ưu việt của chế độ chính trị - xã hội. Những tiêu chí này thể hiện xu thế phát triển tiến bộ trong đời sống quốc tế kể từ Cách mạng Mỹ (năm 1776), Cách mạng Pháp (năm 1789) và Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917). Vì lẽ đó, có thể thấy, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Công hòa ra đời, Việt Nam đã hội nhập chính trị cùng những giá trị chung tiến bộ trên thế giới để mở đường cho hội nhập kinh tế, an ninh, văn hóa và xã hội.

Như vậy, trong tư duy chiến lược Hồ Chí Minh, lợi ích quốc gia - dân tộc gắn liền với hệ giá trị tiến bộ chung của nhân loại. Trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ trương hội nhập toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và an ninh, cả bình diện song phương và đa phương: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:

a. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.

b. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.

c. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.

d. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân”.

Tư duy chiến lược Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế đã được Đảng ta quán triệt trong các nghị quyết về hội nhập quốc tế và triển khai trên thực tiễn. Năm 1998, Việt Nam trở thành thành viên Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được mở rộng với việc tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) năm 2015, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) năm 2016, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) năm 2020, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) năm 2020. Đồng thời, Việt Nam cũng ký kết một số hiệp định thương mại song phương với các quốc gia trên thế giới, như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) năm 2000, Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) năm 2009, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chile (VCFTA) năm 2011, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA) năm 2015, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU) năm 2016. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ireland (UKVFTA) năm 2020. Tính đến năm 2022, Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA). Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán FTA với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA FTA) và FTA Việt Nam - Israel. Theo WTO, hiện Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế có độ mở cao (200% GDP) và từng bước cải thiện cán cân thương mại, chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu. Năm 2022, cán cân thương mại của Việt Nam tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 7 liên tiếp và với mức thặng dư đạt 12,4 tỷ USD cho dù nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn sau ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19. Năm 2023, cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng dư kỷ lục đạt 28 tỷ USD (gấp 2,3 lần năm 2022).

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hội nhập quốc tế, nhưng Việt Nam vẫn chưa đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như đã đề ra từ năm 2000. Kinh nghiệm từ các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho thấy, các nước này đã đạt được bốn tiêu chí “trên 70%”: 1- Trên 70% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ cao mang lại; 2- Trên 70% là kết quả của lao động trí óc trong cơ cấu giá trị gia tăng; 3- Trên 70% lực lượng lao động là lao động trí óc hoặc có thể gọi là công nhân tri thức; 4- Trên 70% nguồn vốn là nguồn vốn về con người. Với mức độ và phương thức khác nhau, các nước OECD đều tập trung vào xây dựng và củng cố thể chế “thượng tôn pháp luật”, đồng thời kiên trì phấn đấu kiến tạo xã hội “cạnh tranh minh bạch”, có “sức cuốn hút sáng tạo khoa học - công nghệ” và đạt “năng suất lao động xã hội cao”, còn người dân cảm thấy “hài lòng và hạnh phúc”. Đây cũng là định hướng để Việt Nam tham chiếu trong quá trình tiếp tục thúc đẩy cải cách thể chế trong thời gian tới.

Hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng chỉ là phương thức nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là hạnh phúc của nhân dân như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để đánh giá về “hạnh phúc”, cơ bản là dựa vào các chỉ số như tuổi thọ, sức khỏe, thu nhập bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội trong thời kỳ khó khăn, mức độ tham nhũng và lòng tin xã hội; cùng với đó là mức độ và không gian của cộng đồng, người dân được tự do đưa ra các quyết định quan trọng trong cuộc sống. Các chỉ số trên được tổng hợp từ dữ liệu của hơn 150 quốc gia, do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc thực hiện. Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới (WHR) thường niên do Liên hợp quốc tài trợ được công bố vào tháng 3-2024, Phần Lan là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm thứ 7 liên tiếp trong danh sách 10 quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới.

Như vậy, “sức mạnh mềm” thể chế phải được hoàn thiện nhanh hơn để phù hợp với “trào lưu quốc tế” và “luật thiên hạ tiến hóa” thì mới có thể tối ưu hóa được sự kết hợp của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm nâng dần mức hạnh phúc của nhân dân theo tiêu chí quốc tế.


Cán bộ, sĩ quan, quân nhân Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam tại Lễ Báo công dâng Bác nhân dịp 10 năm Ngày Truyền thống Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam (27-5-2014 - 27-5-2024)_Ảnh: TTXVN

Tạo dựng và phát huy vị thế quốc tế của Việt Nam

Địa - chính trị là một yếu tố quan trọng chi phối chính sách đối ngoại của quốc gia. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược nước lớn ngày càng gay gắt, do vị trí địa - chính trị quan trọng cùng truyền thống độc lập, tự chủ đã được khẳng định, giá trị chiến lược của Việt Nam trên “bàn cờ lớn” đang ngày càng gia tăng, nhưng bên cạnh đó cũng có những rủi ro do sức mạnh tổng hợp quốc gia là có giới hạn. Để hóa giải thách thức này, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện sáng tạo phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “thế lợi thắng lực” và “địa vị ưu thắng”. “Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực”, đồng thời “Trên trường quốc tế, làm thế nào cho nước mình không bị cô lập mà vẫn giữ được địa vị ưu thắng”. Như vậy mới có thể thúc đẩy xây dựng thành công thế trận lồng ghép đan xen, tương hỗ ba tầng chiến lược:

Một là, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển kinh tế số, xanh, hạnh phúc, bảo đảm tự do, công bằng, ổn định, cùng có lợi, bền vững và lâu dài giữa các quốc gia, dân tộc.

Kế thừa và phát triển văn hóa chiến lược truyền thống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chú ý tới việc gây dựng hạnh phúc chung với các dân tộc trên thế giới. Ngay khi thực dân Pháp mới gây hấn ở Nam Bộ, Người đã khẳng định, nhân dân hai nước Việt Nam và Pháp “có thể và cần phải bắt tay nhau trong một sự nghiệp cộng tác bình đẳng, thật thà, để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc”. Ngày 5-12-1949, trong điện mừng gửi Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông nhân dịp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hai dân tộc Việt - Hoa có mối quan hệ anh em trải mấy nghìn năm lịch sử. Từ đây, mối quan hệ ấy sẽ càng mật thiết để phát triển tự do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, và để bảo vệ dân chủ thế giới và hòa bình lâu dài”. Người rất coi trọng việc xây đắp quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Theo định hướng đó, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước đã được thiết lập năm 2008 và tới cuối năm 2023, Việt Nam và Trung Quốc đã nhất trí cùng xây dựng: “Cộng đồng chia sẻ tương lai”.

Do đặc thù về địa - chính trị của bán đảo Đông Dương trên “bàn cờ lớn”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn về quan hệ với Lào và Campuchia: “Tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ mong muốn hợp tác bình đẳng tuyệt đối giữa hai nước có chủ quyền” và “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Còn đối với khu vực Đông Nam Á, Người yêu cầu: “Phải nghiên cứu TẤT CẢ một cách chính xác, và phải tạo ra cái gì đó nếu chưa có gì”. Hiện nay, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đang ngày càng gia tăng đòi hỏi phải gắn kết chặt chẽ giữa bảo vệ an ninh biên giới với phát triển kinh tế số, xanh và công bằng mới có thể bảo đảm tự do và hạnh phúc lâu dài của mỗi dân tộc.

Hai là, tạo dựng và giữ vững thế quân bình chiến lược (strategic equilibrium) với các nước lớn và các trung tâm quyền lực thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ với các nước lớn vì đó là những quốc gia quyết định vấn đề hòa bình, chiến tranh cũng như xu hướng phát triển trên thế giới. Trong trò chơi cân bằng sức mạnh của các nước lớn, các nước vừa và nhỏ do thiếu hụt về thế và lực, nếu không có chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và năng lực thiết lập cấu trúc quan hệ với các nước lớn phù hợp, thì dễ bị trở thành “con bài ủy nhiệm” .

Tính đến năm 2024, Việt Nam có quan hệ với 17 nước là đối tác chiến lược và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 7 nước, nhờ vậy mà lần đầu tiên đã định hình được thế quân bình chiến lược với cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và 6/7 nước thuộc Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7), góp phần quan trọng vào việc tạo dựng “thế lợi thắng lực” và “địa vị ưu thắng” của Việt Nam trên “bàn cờ lớn” trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy được vị thế chiến lược này, Việt Nam cần tái cấu trúc và tăng cường toàn diện sức mạnh dân tộc trong cục diện thế giới mới. Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế và triển khai chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng tốt các yêu cầu của thời đại có ý nghĩa quyết định.

Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Trong thư gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ James Byres ngày 1-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn gửi một đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Hoa Kỳ để học tập, nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, nông nghiệp, cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác. Trước năm 1954 và sau đó, đã có hàng nghìn cán bộ được gửi đi đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa. Tối ngày 28-6-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới sân bay Gia Lâm thăm và căn dặn đoàn 80 học viên khóa I đi học lái máy bay chiến đấu ở nước ngoài: “Lần này các chú đi học bằng ô tô, tàu hỏa, lúc về các chú phải lái máy bay phản lực chiến đấu MiG-15”. Ngay sau khi ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào tháng 1-1973, ngày 20-2-1973, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 225-NQ/TW, về “Công tác cán bộ trong giai đoạn mới”, trong đó có yêu cầu mở các khoa và trường đại học về quản lý kinh tế, hành chính, luật pháp và xây dựng mỗi trường đại học là một cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật. Nghị quyết này đã góp phần vào việc đào tạo được nguồn lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu bảo vệ và phát triển đất nước trong cục diện thế giới mới.

Do đó, bên cạnh việc cần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, còn cần phải “biết trước mọi việc” để chuẩn bị nguồn lực tăng cường sức mạnh tổng hợp dân tộc từ sớm và từ xa với nội hàm tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để đào tạo nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng các nhu cầu thực tế. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và khoa học cùng đội ngũ đông đảo cán bộ nghiên cứu khoa học nòng cốt của Việt Nam có đóng góp quan trọng trong kháng chiến và xây dựng đất nước từ sau 1975 tới nay đã được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Trong việc hoàn thiện thể chế, có một vấn đề cốt lõi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn là “tìm người tài đức” phụng sự đất nước. Hiện nay, Việt Nam đang có hàng chục nghìn sinh viên, nghiên cứu sinh đang học tập tại các quốc gia trên thế giới. Đây là nguồn tài nguyên chiến lược quý báu cần được sử dụng đúng người, đúng việc, đúng cơ chế vận hành và đúng chế độ đãi ngộ. Nếu làm được điều này, sẽ tạo ra bước đột phá lớn về quản trị quốc gia, góp phần gia tăng năng suất lao động xã hội.

Ba là, gắn kết ưu tiên địa - chính trị với đoàn kết quốc tế.

Từ chân lý: “Tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”(22), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”(23). Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 nước trên thế giới. Lực lượng đoàn kết nhân dân thế giới mạnh mẽ này cùng với những thành công trong hội nhập quốc tế và phát triển đất nước đã nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009 và nhiệm kỳ 2020 - 2021). Năm 2023, lần đầu tiên, Việt Nam được bầu là Phó Chủ tịch Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, thành viên Ủy ban Di sản thế giới.

Vị thế quốc tế song phương và đa phương quan trọng này là cơ sở để Việt Nam định hình được “thế lợi thắng lực” và “địa vị ưu thắng” trên cả hai khu vực trọng điểm là châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Cạnh tranh chiến lược nước lớn căng thẳng và phức tạp ở những khu vực này đòi hỏi Việt Nam càng phải đẩy mạnh hơn nữa việc gắn kết các ưu tiên địa - chính trị khu vực với quá trình hội nhập quốc tế toàn diện và hợp tác song phương đa chiều, đa phương diện, đa cấu trúc trên toàn thế giới. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu thấu đáo và vận dụng sáng tạo tư duy chiến lược Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cục diện thế giới và khu vực có nhiều biến đổi mới như hiện nay./.

ST.

Tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng xây dựng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Đảng ta khẳng định, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người mang tính khoa học và cách mạng, đổi mới và phát triển, tiếp tục định hướng, soi sáng con đường cách mạng của dân tộc; là nền tảng để xây dựng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới - nền tảng để Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”; đồng thời, nhấn mạnh đó là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm./ Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đổi mới không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, mà chỉ bỏ đi cái gì cũ mà xấu; cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý; cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm; cái gì mới mà hay thì phải kiên quyết làm. Người nhấn mạnh, sức mạnh của đổi mới chính là nhân dân và luôn căn dặn: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”; phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của các nước dân chủ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, đổi mới phong cách làm việc, không cứng nhắc, bảo thủ mà rất linh hoạt, mềm dẻo khi xử lý, giải quyết từng vấn đề, sự việc cụ thể. Theo Người, đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn, coi đó là xuất phát điểm của tư duy, hành động; là sự kiểm chứng chân lý khoa học. “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Do vậy, việc tìm tòi, sáng tạo cái mới phải luôn gắn với thực tiễn, chú trọng tổng kết thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính đúng đắn của đổi mới.

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng đổi mới là tư tưởng cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kết hợp với tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải quyết nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước; tư tưởng đổi mới là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết, trước hết, đổi mới vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh; phong cách đổi mới là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu quả, nói đi đôi với làm, làm thiết thực, mang lại kết quả thực tế cho nhân dân, cho đất nước. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và là nền tảng để Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm xưởng cơ khí Khu gang thép Thái Nguyên (năm 1964)_Nguồn: hochiminh.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh là trung tâm quy tụ ý chí, khát vọng, niềm tin vào sức mạnh của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Cuối thế kỷ XX, khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nhiều nhà lãnh đạo ở các nước xã hội chủ nghĩa bị công kích thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được thế giới tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô không thành công, trong khi đó công cuộc đổi mới ở Việt Nam lại đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nguyên nhân mang tính quyết định là bởi, tư tưởng, nhân cách văn hóa, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, luôn soi sáng, dẫn đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, trở ngại, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm; từ đó, đề ra được đường lối đổi mới kịp thời, đúng đắn, sáng suốt nhất.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn cả nước tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1986), kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã quyết tâm khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Song, đổi mới như thế nào, con đường, cách thức ra sao là những câu hỏi cấp thiết đặt ra trong thời điểm đó. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.

Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) chỉ rõ, phải nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Sự khẳng định đó cho thấy vai trò to lớn, giá trị lịch sử và ý nghĩa hết sức quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới; thể hiện bước phát triển mới trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn theo nền tảng tư tưởng của Đảng; cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) nêu định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động... Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức, trong tư duy lý luận của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.

“Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, tại Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế mà chúng ta đang phải đối mặt trong quá trình phát triển đất nước. Trong khi đó, “Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức”. Vì vậy, “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”.

Trong bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng” nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ”.

Thực tiễn đã minh chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn có giá trị bền vững, lâu dài và tạo niềm tin lớn lao đối với sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói cách khác, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn, nhất quán, quán triệt, vận dụng sáng tạo và bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây chính là nhân tố quyết định, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với công nhân đang thi công dự án mở rộng Nhà ga hành khách T2, Cảng Hàng không quốc tế Nội Bài (thành phố Hà Nội)_Ảnh: TTXVN

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam

Nhìn lại lịch sử, trước đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước có nền kinh tế nghèo nàn, chưa phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá, để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Sau chiến tranh, đất nước lại chịu sự bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây trong gần 20 năm; tình hình khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, gây bất lợi cho Việt Nam. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm vô cùng thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới, do đó kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt gần 40 năm qua với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500 USD)”.

Song song với phát triển kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân cũng được quan tâm phát triển. Hiện nay, Việt Nam có gần 80% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. “Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng”.

Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của nhân loại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên một trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo, nhưng cũng rất kiên cường, đầy bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái, nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Kết quả là, từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó 7 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất và chủ động, tích cực tham gia hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác. Đặc biệt, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ.  Đây là những thành tựu đáng tự hào, là động lực và niềm tin để Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới; từng bước thực hiện khát vọng xây dựng nước Việt Nam hùng cường, đưa dân tộc Việt Nam tiến cùng nhịp bước với trào lưu tiến bộ trên thế giới và ý nguyện hòa bình, phát triển của nhân loại.

Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới và đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây là minh chứng sinh động và thuyết phục nhất khẳng định giá trị vĩ đại, sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua” và “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”.

Diện mạo Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Tiếp tục xây dựng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong những năm tới, tình hình thế giới, trong nước cùng với những thời cơ, thuận lợi cũng sẽ còn có nhiều khó khăn, thách thức lớn. Trên cơ sở nhận định, đánh giá đúng tình hình, Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, phấn đấu: “- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp./ - Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao./ - Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, toàn Đảng, toàn dân ta cần tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, trên tinh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên một số mặt chủ yếu:

Một là, kiên định, vững vàng và không ngừng sáng tạo trong xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc”. Muốn đổi mới thắng lợi, chúng ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc xây dựng Đảng. Kiên định, nhưng không ngừng sáng tạo, tránh giáo điều, bảo thủ. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới phải thường xuyên tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn để nắm bắt, dự báo chính xác những xu hướng phát triển mới của tình hình thế giới, cập nhật tri thức, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là những thành tựu mới trong lĩnh vực khoa học - công nghệ; không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, luôn có sự kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.

Hai là, quán triệt nguyên tắc đổi mới là lấy lợi ích tối cao của dân tộc, của nhân dân, hạnh phúc của con người làm mục tiêu; lấy mục tiêu độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và sự giàu mạnh của quốc gia làm mục đích trên hết, trước hết; lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người Việt Nam làm đạo lý đổi mới. Nhân dân là chủ thể của đổi mới và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới; con người là mục tiêu và động lực của sự nghiệp đổi mới. Đó chính là bản chất nhân văn của đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt của đổi mới.

Ba là, đổi mới cần dựa trên quy luật vận động khách quan của lịch sử, phù hợp với nhu cầu, khát vọng của nhân loại. Toàn cầu hóa và sự phát triển bùng nổ công nghệ thông tin, cùng hệ thống kết cấu hạ tầng toàn cầu, làm cho các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau hơn; hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng trở thành một xu thế lớn không thể đảo ngược. Tư tưởng và sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, về việc tăng cường hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi,... vẫn còn nguyên giá trị. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để xác định, tranh thủ nguồn lực bên ngoài là rất quan trọng, nhưng phát huy nguồn lực nội sinh là yếu tố quyết định; ngoại lực phải kết hợp với nội lực để nhân lên sức mạnh tổng hợp quốc gia; hợp tác, hội nhập, nhưng phải giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính.

Bốn là, đổi mới là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ, muốn giành thắng lợi, trước hết phải phát huy tinh thần gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là đổi mới phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo, để phát huy  cao nhất sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về tư tưởng, đạo đức cách mạng, phong cách làm việc của người cách mạng. Người đã truyền lại cho chúng ta bài học lớn về phong cách tư duy, phong cách đổi mới; nhạy bén nắm bắt diễn biến lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ vững nguyên tắc và mạnh bạo sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với hành động.

Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước trong gần 40 năm qua đã khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng trong xây dựng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hùng cường và thịnh vượng./.

ST.

Xu hướng tập hợp lực lượng thông qua các cơ chế đa phương mới trên thế giới hiện nay và một số đề xuất chính sách đối với Việt Nam

Việc xuất hiện ngày càng nhiều cơ chế, hình thức liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng “tiểu đa phương” mới, phong phú, linh hoạt về nội hàm và phương thức vận hành đang tác động nhiều mặt đến lợi ích và chính sách bảo đảm an ninh, phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu và làm rõ nội hàm các xu hướng tập hợp lực lượng thông qua cơ chế đa phương mới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác đối ngoại đa phương của nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng như trong dài hạn.

Đánh giá tổng quan về hệ thống đa phương toàn cầu hiện nay

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, thế giới tiếp tục chuyển động nhanh, phức tạp, với nhiều diễn biến vượt ra ngoài khuôn khổ dự báo thông thường. Cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc ngày càng hình thành rõ nét. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là nguyện vọng chung của các dân tộc trên thế giới, nhưng đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, đặc biệt là dưới tác động của chiến tranh, xung đột, cạnh tranh nước lớn, tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên và các vấn đề an ninh phi truyền thống, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, nguồn nước, an ninh mạng, khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia,... Những chuyển biến sâu rộng của tình hình thế giới và khu vực đã tác động mạnh mẽ đến chủ nghĩa đa phương, đặc biệt là các cơ chế đa phương truyền thống được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay trên nền tảng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Toàn cảnh phiên họp Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tại New York (Mỹ) về nghị quyết chấm dứt xung đột Israel - Hamas ở Dải Gaza, ngày 10-6-2024_Ảnh: THX/TTXVN

Trong tổng thể bối cảnh tình hình thế giới và khu vực, có thể đưa ra một số nhận định về hệ thống đa phương toàn cầu trong khoảng 5 năm trở lại đây như sau:  

Thứ nhất, chủ nghĩa đa phương đang đối mặt với thách thức chưa từng có do sự gia tăng các hành vi đơn phương, chính trị cường quyền, vi phạm hoặc diễn giải, áp dụng luật pháp quốc tế theo ý muốn riêng, cùng với sự tiếp diễn phức tạp của chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ.

Các thể chế đa phương truyền thống tiếp tục bộc lộ những hạn chế về tính hiệu quả, hiệu lực, cơ cấu, luật lệ do chưa kịp thích ứng, cải tổ trước đà biến động nhanh của tình hình quốc tế và tính chất phức tạp liên thông của các thách thức toàn cầu. Nguồn lực hợp tác quốc tế bị dàn trải do phải xử lý các vấn đề đa khủng hoảng, như đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu, thiên tai, xung đột Nga - U-crai-na, I-xra-en - Pa-le-xtin, căng thẳng trên Biển Đỏ...), trong khi chi tiêu quân sự toàn cầu liên tiếp tăng trong thập niên qua.

Việc triển khai nhiều chương trình nghị sự lớn về hợp tác phát triển gặp nhiều khó khăn, trong đó có Chương trình hành động Addis Ababa về tài chính cho phát triển, Khung hành động Sendai về giảm nhẹ rủi ro thiên tai giai đoạn 2015 - 2030, việc thực hiện các mục tiêu trong Chương trình Nghị sự Phát triển bền vững đến năm 2030. Dưới tác động của cạnh tranh nước lớn, quá trình hợp tác xử lý nhiều vấn đề toàn cầu và khu vực bị chính trị hóa, trong một số trường hợp thậm chí bị gián đoạn hoặc bế tắc. Quá trình thương lượng, triển khai các thỏa thuận thương mại xuất hiện nhiều nội hàm mới liên quan đến khía cạnh an ninh, nhân quyền, môi trường, sở hữu trí tuệ, lao động, cùng với sự gia tăng các hình thức bảo hộ sau biên giới và qua biên giới, như cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM), các tiêu chuẩn về môi trường... Đồng thời, xu hướng tăng cường phân tách, phân mảnh, khu vực hóa các liên kết kinh tế mang tính địa - chính trị đang đặt ra vấn đề về lựa chọn hệ thống, tiêu chuẩn trong quá trình hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế. Trước tình hình trên, nhu cầu thúc đẩy cải tổ các thể chế đa phương truyền thống ngày càng được nhiều nước coi trọng. Tuy nhiên, việc cải tổ toàn diện các cơ quan có vai trò quyết định trong xử lý các vấn đề toàn cầu là quá trình tiệm tiến, đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực, đồng thuận của các quốc gia.

Thứ hai, mặc dù đối mặt với nhiều thách thức song về tổng thể, các cơ chế đa phương với Liên hợp quốc là trung tâm tiếp tục được hầu hết quốc gia coi trọng và đóng vai trò đi đầu, khởi xướng, dẫn dắt nhiều sáng kiến, nỗ lực tích cực nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu.

Khó khăn hiện nay của chủ nghĩa đa phương chủ yếu là vấn đề tính hiệu quả, chưa phải là khủng hoảng về sự tồn tại của các cơ chế đa phương truyền thống. Các nước, trong đó cả nước lớn và các nước vừa và nhỏ vẫn tiếp tục tận dụng các thể chế và cơ chế hợp tác đa phương để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, chung tay xử lý các vấn đề toàn cầu vượt quá năng lực ứng phó của từng quốc gia đơn lẻ. Các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, như tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết hòa bình các tranh chấp đã trở thành nền tảng không thể thay thế trong điều hòa quan hệ quốc tế. Liên hợp quốc tiếp tục đi đầu tiến trình cải tổ, định hình các khuôn khổ mới về quản trị toàn cầu, trong đó có chương trình nghị sự “Tương lai của chúng ta” (OCA), thỏa thuận số toàn cầu, quản lý trí tuệ nhân tạo... Các liên kết kinh tế, liên kết số, hợp tác công nghệ và chuyển đổi xanh tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhiều cơ chế hợp tác về kinh tế, phát triển toàn cầu và khu vực, như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), G7, G20, G77, Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động, mở rộng thành viên và tăng cường hợp tác với các đối tác. Ở cấp độ khu vực, ASEAN tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng, thúc đẩy xây dựng tầm nhìn ASEAN sau năm 2025 và khẳng định vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực.

Lãnh đạo các nước G7 và các đại biểu tham dự Hội nghị thượng đỉnh G7 ở thành phố Fasano, Italia, ngày 13-6-2024_Ảnh: Kyodo/TTXVN

Thứ ba, các cơ chế đa phương mới, cơ chế hợp tác “tiểu đa phương”, mô hình hợp tác nhóm ba bên, bốn bên có xu hướng ngày càng gia tăng, với hình thức, phương thức hoạt động, phạm vi và lĩnh vực hợp tác đa dạng, linh hoạt.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, không chỉ các cường quốc mà nhiều nước tầm trung và nước nhỏ cũng tìm cách thúc đẩy các cơ chế hợp tác đa phương, các sáng kiến mới để thúc đẩy những mục tiêu riêng, như gia tăng tự chủ chiến lược, thúc đẩy xây dựng các khuôn khổ, “luật chơi” mới trên các lĩnh vực đa dạng. Đáng chú ý, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trở thành trọng điểm của sự hình thành, triển khai các cơ chế hợp tác đa phương trên nhiều lĩnh vực.

Trong đó, nổi bật là: Trung Quốc khởi xướng các sáng kiến toàn cầu, như Sáng kiến Phát triển Toàn cầu (GDI), Sáng kiến Văn minh Toàn cầu (GCI), Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI), đề xuất các khuôn khổ hợp tác mới trong các sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại” và các dự án Vành đai, Con đường (BRI) chất lượng cao. Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và nhiều quốc gia, như Ấn Độ, Ca-na-da, Ô-xtrây-li-a triển khai các sáng kiến, chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó Mỹ thúc đẩy Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF), Đối tác về hạ tầng và đầu tư toàn cầu (PGII) và nhiều cơ chế hợp tác chuyên ngành khác. Nga tiếp tục thúc đẩy sáng kiến Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU). Nhật Bản thúc đẩy sáng kiến Cộng đồng châu Á phát thải ròng bằng “0”. Ấn Độ thúc đẩy sáng kiến Liên minh năng lượng mặt trời (ISA), Hiệp hội vành đai Ấn Độ Dương (IORA), Liên minh hạ tầng chống chịu thiên tai (CDRI), Liên minh nhiên liệu sinh học toàn cầu (GBA). EU khởi xướng sáng kiến Cổng kết nối Toàn cầu (Global Gateway). Đan Mạch thúc đẩy Sáng kiến Diễn đàn Đối tác về tăng trưởng xanh vì mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G). Xuất hiện nhiều cơ chế liên kết kinh tế mới, trong đó các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã đi trước WTO trong việc xây dựng một số khuôn khổ, quy tắc mới về thương mại quốc tế.

Nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ cũng đang thúc đẩy thành lập các cơ chế hợp tác ba bên, bốn bên mới về quốc phòng, an ninh, khoa học - công nghệ, chuỗi cung ứng, hoặc trong một lĩnh vực chuyên ngành cụ thể, như nông nghiệp, y tế, môi trường. Các mô hình hợp tác ba bên, bốn bên có thể là hình thức liên kết mang tính thể chế hóa cao, hoặc chỉ đơn thuần là những cơ chế đối thoại, dự án hợp tác chuyên ngành trên một lĩnh vực cụ thể. Trong đó, có thể kể đến “hợp tác Nam - Nam” và “hợp tác 2+1”, các cơ chế hợp tác, liên kết về chip bán dẫn (Liên minh CHIP4, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc)), khoáng sản, tài nguyên hiếm (Câu lạc bộ Khoáng sản thiết yếu - CRM), hợp tác ba bên giữa Liên minh châu Âu, một nước châu Phi và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) trong lĩnh vực nông nghiệp; hợp tác phát triển ba bên Trung Quốc - EU - châu Phi, Cộng đồng Kinh tế Borneo giữa In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin và Bru-nây...    

Đồng thời, các cơ chế hợp tác mới có thể ra đời, vận hành trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác đa phương truyền thống (như trường hợp Nhóm bạn bè về Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển - UNCLOS 1982 do Việt Nam khởi xướng và đồng sáng lập)(6) hoặc các sáng kiến mới nhằm bổ trợ cho hoạt động của các diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng (như Diễn đàn Tương lai ASEAN do Việt Nam khởi xướng và đăng cai tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội vào ngày 23-4-2024).

Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 15 các nhà lãnh đạo Nhóm BRICS (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) tại thành phố Johannesburg, Nam Phi, ngày 24-8-2023_Ảnh: AFP/TTXVN

Xu hướng tập hợp lực lượng tại các cơ chế đa phương, nhất là các cơ chế đa phương mới và tác động đối với các quốc gia

Từ những đặc điểm lớn của hệ thống đa phương toàn cầu hiện nay, đặc biệt là sự xuất hiện của các cơ chế đa phương mới, có thể nhận định về xu hướng tập hợp lực lượng và tham gia các cơ chế đa phương như sau:

Thứ nhất, các thực thể và phương thức tập hợp lực lượng tại các cơ chế hợp tác đa phương ngày càng mang tính liên tổ chức, liên chủ thể, có sự phối kết hợp của nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và nhóm, cá nhân có vai trò, ảnh hưởng. Các hình thức tập hợp lực lượng tại các diễn đàn đa phương ngày càng linh hoạt, đa dạng, không bó hẹp trong các nhóm tập hợp “cứng” như giai đoạn trước đây. Một quốc gia có thể cùng lúc tham gia nhiều cơ chế hợp tác khác nhau với quy mô thành viên đa dạng, nội hàm hợp tác phong phú. 

Thứ hai, cùng với sự chuyển biến ngày càng rõ nét của cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc, các nước đang phát triển, các nước phương Nam với vị thế gia tăng(7) đang ngày càng có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ hơn về lập trường, hành động để phát huy vị thế là “nhóm đa số” trong cộng đồng quốc tế. Đồng thời, các tập đoàn lớn (đặc biệt là các tập đoàn về công nghệ), các thực thể phi nhà nước cũng tăng cường tương tác, tham gia vào hoạt động của các thể chế đa phương.

Thứ ba, cùng với việc hình thành các cơ chế đa phương mới, các tập hợp lực lượng xuất hiện nhiều hơn theo lĩnh vực cụ thể, tập trung vào giải quyết một hoặc một nhóm vấn đề và kết quả dựa trên lợi ích nguyên tắc chung và phù hợp với lợi thế quốc gia. Chủ đề, lĩnh vực hợp tác là rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực từ chính trị, an ninh đến kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, môi trường. Điều này xuất phát từ việc thể chế hóa hợp tác tại các tổ chức đa phương truyền thống là quá trình đòi hỏi nhiều thời gian, nguồn lực do phải có sự đồng thuận (hoặc đồng ý của đa số thành viên), trong khi phản ứng chính sách trên một lĩnh vực cụ thể hiện nay đòi hỏi tốc độ kết nối quyết sách, nguồn lực quốc tế nhanh nhạy, kịp thời. Đồng thời, hợp tác nhóm, “tiểu đa phương” không yêu cầu tính thể chế hóa cao, ít mang tính ràng buộc trong khi vẫn đáp ứng được lợi ích và tạo lợi thế bổ sung cho các bên tham gia, không bị giới hạn bởi không gian và phạm vi địa lý.

Những chuyển biến nói trên đang đặt ra cơ hội và thách thức đan xen đối với các quốc gia, nhất là các nước tầm trung và nước nhỏ trên các phương diện như sau:

Về mặt cơ hội: 1- Tham gia, đóng góp tích cực hơn vào quá trình cải tổ các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các thể chế, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các nước đang phát triển trong tiến trình liên kết và hội nhập quốc tế; 2- Nâng cao giá trị địa - chiến lược của quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng, tranh thủ hiệu quả và có chọn lọc nguồn lực từ hợp tác đa phương và các cơ chế hợp tác mới để phục vụ các mục tiêu an ninh và phát triển của quốc gia; 3- Tham gia từ sớm, từ đầu vào quá trình định hình khuôn khổ, “luật chơi” trong các lĩnh vực mới, nhất là các liên kết, hội nhập về số, chuyển đổi năng lượng, phát triển xanh, bền vững...; 4- Các cơ chế, sáng kiến hợp tác đa phương mới có thể bổ trợ cho các cơ chế đa phương truyền thống, góp phần giải quyết các vấn đề toàn cầu và củng cố quản trị toàn cầu theo hướng hiệu quả hơn. 

Về mặt thách thức: 1- Các cơ chế hợp tác mới có khả năng làm giảm quan tâm, đầu tư nguồn lực của các nước lớn dành cho các thể chế đa phương truyền thống, làm gia tăng nguy cơ mâu thuẫn, chia rẽ giữa các nước/nhóm nước, đồng thời có thể đưa ra các tiêu chuẩn, luật lệ mới, cạnh tranh vai trò, hiệu quả của các cơ chế đa phương truyền thống; 2- Sức ép “chọn bên” gia tăng gây khó khăn cho các nước tầm trung và nước nhỏ trong ứng xử tại các diễn đàn đa phương, nhất là liên quan đến sáng kiến tập hợp lực lượng trong các vấn đề nhạy cảm; 3- Thách thức về bỏ lỡ cơ hội hợp tác, nhất là trong các lĩnh vực mới, khuôn khổ mới nếu chậm tham gia vào các cơ chế hợp tác có mục tiêu định hình các khuôn khổ, “luật chơi” mới.

Về tổng thể, thuận lợi và thách thức là đan xen, trong đó các yếu tố thuận lợi và cơ hội phát triển vẫn nhiều hơn và tùy thuộc vào khả năng tranh thủ, thích ứng của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. 

Đề xuất một số phương hướng triển khai đối ngoại đa phương thời gian tới

Đối ngoại đa phương là một trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Trong những năm qua, công tác đối ngoại đa phương của Việt Nam đã được triển khai toàn diện, thực chất trên cơ sở quán triệt và bám sát Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030” (Chỉ thị số 25-CT/TW), góp phần quan trọng củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước giúp đối ngoại và ngoại giao “đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước...”.

Nổi bật là việc Việt Nam đã tham gia tích cực tại hơn 70 cơ chế, tổ chức đa phương quốc tế và khu vực (tính đến tháng 12-2023); hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với nhiều dấu ấn, sáng kiến; tham gia đóng góp tích cực vào hoạt động của APEC, ASEM, WTO, Tổ chức Pháp ngữ, Ủy hội sông Mê Công Quốc tế (MRC); thúc đẩy cử cán bộ vào làm việc tại các tổ chức quốc tế và vận động Tòa trọng tài thường trực (PCA) đặt trụ sở tại Việt Nam; là một trong số những nước đầu tiên ký Hiệp định về Biển cả (BBNJ) và tham gia thiết lập Quan hệ đối tác về chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP); tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Hiện nay, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025, lần đầu tiên tham gia cùng lúc 5 cơ chế quan trọng của UNESCO, tích cực chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh P4G lần thứ tư vào năm 2025. Mới đây nhất, ngày 23-4-2024, Việt Nam đã tổ chức thành công Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) với sự tham dự trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Xỏn-xay Xi-phan-đon (Sonexay Siphandone), Tổng Thư ký ASEAN Cao Kim Hơn (Kao Kim Hourn) cùng hơn 500 đại biểu Chính phủ, cơ quan đại diện ngoại giao, học giả, chuyên gia, các tổ chức quốc tế. Đây là sáng kiến quan trọng mà Việt Nam khởi xướng nhằm thúc đẩy vai trò trung tâm và đoàn kết của ASEAN, xây dựng Cộng đồng ASEAN lấy người dân làm trung tâm, thúc đẩy sự tương tác đa chiều giữa các nước ASEAN và các đối tác của ASEAN.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với các lãnh đạo doanh nghiệp ASEAN tham dự toạ đàm “Cộng đồng doanh nghiệp ASEAN, gắn kết, tự cường và bền vững: Nắm bắt thời cơ trong thời đại số” trong khuôn khổ Diễn đàn Tương lai ASEAN 2024 do Việt Nam tổ chức, ngày 23-4-2024, tại Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Ở trong nước, 5 đến 7 năm tới là giai đoạn bản lề, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Đại hội XIII đề ra tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực nói chung và tại các diễn đàn, cơ chế hợp tác đa phương nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, đối ngoại đa phương Việt Nam cần tiếp tục được triển khai đồng bộ, hiệu quả, toàn diện. Do đó, công tác đối ngoại đa phương cần tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế, an ninh, quốc phòng, kinh tế - xã hội, trong đó có Nghị quyết số  34-NQ/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “Về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII” và Chỉ thị số 25-CT/TW, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, củng cố cục diện đối ngoại rộng mở và thuận lợi cho phát triển đất nước.

Hai là, chú trọng đổi mới tư duy, định hướng tham gia các cơ chế hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu một cách có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với thế và lực của đất nước và mang lại hiệu quả thực chất.

Cần tiếp tục ủng hộ chủ nghĩa đa phương với Liên hợp quốc đóng vai trò trung tâm, tăng cường phát huy vai trò trong ASEAN, các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Công, đóng góp tích cực vào củng cố đoàn kết, vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực. Đồng thời, phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm tại Liên hợp quốc và các cơ chế, diễn đàn quan trọng mà Việt Nam là thành viên, trong đó có Tổ chức Thương mại thế giới, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, APEC, ASEM, phong trào Không liên kết, Tổ chức Pháp ngữ....

Với các sáng kiến, cơ chế hợp tác đa phương mới, cần đẩy mạnh nghiên cứu, tham mưu về chủ trương ứng xử, tham gia phù hợp với chủ trương và lợi ích của Việt Nam, đặc biệt là trên các lĩnh vực Việt Nam đang có ưu tiên, như chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, ứng dụng khoa học - công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, chuỗi cung ứng, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước và các thách thức an ninh phi truyền thống khác. Đồng thời, tăng cường hiệu quả hợp tác của các cơ chế hợp tác ba bên, bốn bên mà Việt Nam là thành viên (như hợp tác Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia, Việt Nam - EU - một nước châu Phi về nông nghiệp).

Ba là, phát huy các kết quả quan trọng đã đạt được tại các thể chế đa phương, nghiên cứu thúc đẩy “thương hiệu” về đối ngoại đa phương mang tính dài hạn, đồng bộ và xuyên suốt ở các thể chế, diễn đàn, tạo nên bản sắc, dấu ấn bền vững cho đối ngoại đa phương Việt Nam giai đoạn tới, gắn kết chặt chẽ với đối ngoại song phương và hội nhập quốc tế của đất nước, hợp thành sức mạnh tổng hợp quốc gia.    

Cần lan tỏa và phát triển đồng bộ các sáng kiến Việt Nam đã thúc đẩy thành công, như Diễn đàn Tương lai ASEAN và Nhóm bạn bè về UNCLOS, cùng với việc thúc đẩy các sáng kiến mới trên vấn đề, lĩnh vực mà Việt Nam có ưu tiên và thế mạnh, như chuyển đổi năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, hợp tác biển, phụ nữ, hòa bình và an ninh, hỗ trợ nhân đạo quốc tế, gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc...

Cần chủ động, tích cực hơn trong việc tham gia định hình khuôn khổ, “luật chơi” trên các lĩnh vực hợp tác mới, thúc đẩy tính bổ trợ giữa tham gia các cơ chế hợp tác đa phương mới với tham gia trong các thể chế đa phương truyền thống. Đồng thời, nỗ lực hơn trong việc phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, trung gian hòa giải phù hợp với điều kiện và khả năng của Việt Nam.

Bốn là, tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính và con người cho công tác đối ngoại đa phương, tương xứng tiềm lực và vị thế của Việt Nam. 

Cần đẩy mạnh xây dựng đội ngũ chuyên gia có trình độ ngang tầm khu vực và quốc tế về các vấn đề đa phương quan trọng, gắn sát với lợi ích của Việt Nam, xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể trong việc đăng cai các Hội nghị quốc tế lớn, ứng cử và đưa người vào các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, UNESCO..., trong đó chú trọng tăng cường đưa người ứng cử, đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo. Đồng thời, bố trí nguồn lực thích đáng cho công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và những thành tựu, sáng kiến của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương.

Năm là, tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu, dự báo và nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành trong tham gia công tác đối ngoại đa phương.

Cần nâng cao chất lượng và tính chủ động trong nghiên cứu, dự báo, tham mưu liên quan đến xu thế toàn cầu hóa và liên kết quốc tế, chiều hướng chính sách và tập hợp lực lượng tại cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực, các vấn đề toàn cầu và tiến trình thảo luận về quản trị toàn cầu, quá trình khởi xướng và thương lượng các khuôn khổ, “luật chơi” mới tại các diễn đàn đa phương. Đồng thời, tăng cường phối hợp, gắn kết giữa các bộ, ngành trung ương với địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài để tìm kiếm lĩnh vực, đối tác hợp tác tiềm năng, tiếp tục phát huy phương châm “lấy địa phương, doanh nghiệp và người dân làm trung tâm phục vụ”, tranh thủ tối đa các điều kiện thuận lợi bên ngoài cho phát triển đất nước theo Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 10-8-2022, của Ban Bí thư, “Về ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030”./.

ST.

Tư duy quân sự Hồ Chí Minh - tiếp cận từ góc độ vǎn hoá

 "Quân sự" dùng ở đây hiểu theo nghĩa rộng, như "quân sự" trong "đường lối quân sự" của Đảng. Tư duy quân sự Hồ Chí Minh là sự tiếp tục của tư duy chính trị Hồ Chí Minh bằng chiến tranh và trong chiến tranh cách mạng, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu của cách mạng vì độc lập dân tộc (ĐLDT) và chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Bài này chỉ tiếp cận đôi điều từ góc độ văn hóa, xuất phát từ nguồn gốc văn hóa và ảnh hưởng văn hóa đối với tư duy chính trị Hồ Chí Minh là: tinh hoa văn hóa Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin (là cơ sở lý luận và phương pháp luận, cũng là tinh hoa văn hóa phương Tây hiện đại đã trở thành tinh hoa văn hóa nhân loại), cùng ảnh hưởng của những tinh hoa văn hóa khác Đông - Tây kim cổ. 

Văn hóa bản chất là nhân văn. Nói văn hóa với tư duy quân sự dường như nghịch lý. Nhưng đó lại là thuận lý, mười lần thuận lý đối với tư duy quân sự Hồ Chí Minh. Bởi, với Hồ Chí Minh, "dùng binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu nước, cứu dân". Bởi chiến tranh chính nghĩa, yêu nước và cách mạng là "văn minh thắng bạo tàn". 

Chiến tranh xâm lược, phi nghĩa không có gì liên quan đến văn hóa, đến văn minh, trái lại, là chống lại văn hóa, phản lại văn minh một cách tàn bạo nhất - dù dưới bất cứ chiêu bài gì, cả chiêu bài "can thiệp nhân đạo", như ở Cô-xô-vô mà thực chất là xâm lược. 

Tư duy quân sự Hồ Chí Minh, đó trước hết vẫn là việc giải quyết những vấn đề chính trị của chiến tranh và trong chiến tranh nhằm đáp ứng những yêu cầu của chiến tranh, của đấu tranh vũ trang - quy luật chung của chiến tranh - nhằm giành thắng lợi cho chiến tranh cách mạng và tiếp tục đưa cách mạng phát triển trong chiến tranh. Nó phản ánh những vấn đề có tính quy luật của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng ở Việt Nam trong thời đại mới. 

Cụ thể là: xác định mục đích chính trị của chiến tranh cách mạng là nhằm thực hiện mục tiêu cơ bản và lâu dài của cách mạng: ĐLDT (dân chủ nhân dân), tiến lên CNXH, vì nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Xây dựng lực lượng của chiến tranh cách mạng trên cơ sở khối đại đoàn kết của toàn dân tộc, lấy liên minh công nông làm nền tảng, phát động và tổ chức toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, mở rộng đoàn kết quốc tế. Giải quyết những vấn đề về phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự trên cơ sở vận dụng trong chiến tranh và theo yêu cầu của quy luật quân sự, những phương pháp và hình thức đấu tranh cách mạng, phát động và tổ chức toàn dân đánh địch một cách toàn diện: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa. 

Do vậy, tiếp cận tư duy quân sự Hồ Chí Minh, không thể tách rời nguồn gốc văn hóa và ảnh hưởng văn hóa đối với tư duy chính trị Hồ Chí Minh (như nêu ở trên). 

Trực tiếp liên quan đến tư duy quân sự xét theo góc độ văn hóa, đó là văn hóa quân sự. 

Trong vàn hóa Việt Nam, có một bộ phận tiêu biểu là văn hóa quân sự Việt Nam (VHQSVN) - linh hồn của truờng phái quân sự Việt Nam. Bởi nói dân tộc là phải nói bản sắc văn hóa. Nói trường phái quân sự dân tộc không thể không thấy dòng máu văn hoá dân tộc chảy trong đó. Đây là dòng văn hoá quân sự (VHQS) chủ yếu trong tư duy quân sự (cũng là tư duy chính trị) Hồ Chí Minh. Cũng cần nói thêm, văn hóa bản chất là nhân văn nhưng mang bản sắc riêng của các dân tộc khác nhau và dấu ấn riêng của những giai cấp khác nhau trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc (quốc gia - dân tộc). 

VHQSVN được xây dựng và phát triển trong lịch sử lâu dài giữ nước gắn với dựng nước của dân tộc Việt Nam: trong các cuộc khởi nghĩa dân tộc và chiến tranh dân tộc, chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nhằm lật đổ ách thống trị ngoại bang và đánh bại chiến tranh xâm lược. 

VHQSVN phát triển cả trong sự nghiệp củng cố quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế và văn hóa qua những thế kỷ sống trong hòa bình. VHQSVN thấm nhuần tinh hoa văn hoá Việt Nam, thể hiện trong chiến tranh lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần cộng đồng và ý thức dân chủ, đặc biệt ở làng xã. Nhờ vậy mới có quyết tâm chiến đấu kiên cường để bảo vệ cộng đồng, bảo vệ quê hương, đất nước; mới có "cả nước đánh giặc", "toàn dân là binh", đánh địch toàn diện, đánh địch khắp nơi, làm chủ làng xã, có thể tạm thời mất nước nhưng không để mất làng, không để mất bản sắc văn hoá dân tộc, từ làng, nhà lấy lại nước, giữ gìn và phát triển văn hoá dân tộc (đương nhiên dưới sự lãnh đạo của tập đoàn phong kiến tiến bộ, giữ vai trò lịch sử tích cực trong dân tộc). Có văn hoá yêu nước nồng nàn, tinh thần cố kết dân tộc, mới có chiến tranh toàn dân quyết đánh và quyết thắng, cách đánh mưu mẹo, thông minh, sáng tạo, "lấy đoản chế trường", "lấy yếu đánh mạnh". Có bình đẳng nam nữ (thuận vợ, thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn - chứ không phải "phu xướng, phụ tùy"), mới có "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". 

Đó là chiến tranh và chiến thắng của văn hóa "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo" của dân tộc nhỏ đánh thắng kẻ thù xâm lược to bắt nguồn từ sức mạnh của văn hóa. Dân tộc Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, thiết tha với hòa bình trong độc lập tự do, hiểu rõ cái giá của độc lập tự do. Do vậy, cố gắng tránh chiến tranh mà vẫn giữ được độc lập, tự do; buộc phải làm chiến tranh thì quyết thắng trong mọi hoàn cảnh để giữ được độc lập tự do; đánh địch bằng mọi cách, đánh cả vào lòng địch (tâm công) chứ không riêng bằng quân sự; cầu đánh bại quân địch chứ không cầu tiêu diệt nhiều quân địch; thắng rồi nhưng vẫn "mở đường hiếu sinh" tha chết cho tàn quân chiến bại, lấy đường hòa hiếu với kẻ xâm lược bị đánh bại để "dập tắt muôn đời chiến tranh". 

Tư duy quân sự Hồ Chí Minh đậm cái chất của văn hóa Việt Nam, VHQSVN truyền thống phát triển lên một chất mới, trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lê-nin, để đánh thắng kẻ thù xâm lược trong thời đại mới là bọn đế quốc có tiềm lực quân sự hiện đại của nền công nghiệp hiện đại cùng quân đội của chúng được trang bị nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. (Khác kẻ thù trước đây mà ông cha ta đánh thắng cùng trình độ phát triển, cùng hình thái kinh tế - xã hội với nước ta thời đó). Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, tìm ra đáp số của bài toán mới đó, trước hết bằng lời giải về chính trị - đường lối cách mạng thấm nhuần văn hóa, lời giải về quân sự thấm nhuần văn hóa: lời giải về văn hóa. Chính giới Mỹ, nhiều nhà chiến lược của Mỹ thừa nhận: thắng lợi của Việt Nam với Mỹ là thắng lợi của văn hóa Việt Nam. Nên nói thêm: Văn hoá Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. 

Tư duy quân sự Hồ Chí Minh đương nhiên còn tiếp nhận những dòng văn hoá khác, những tri thức quân sự cổ kim đông tây. Bác Hồ của chúng ta từng lược dịch Binh pháp Tôn Tử, viết Kinh nghiệm du kích Tàu, Kinh nghiệm du kích Pháp, Kinh nghiệm du kích Nga, Phép dạy làm tướng của Khổng Minh... Những di sản quân sự Mác và Ăng-ghen - nhất là của Ăng-ghen được Bác nghiên cứu khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trong quá trình cuộc kháng chiến lâu dài chống hai đế quốc to, tư duy quân sự của Bác đã từng bước được làm phong phú thêm bởi khoa học quân sự xô-viết, kinh nghiệm đấu tranh vũ trang của cách mạng Trung Quốc, những kiến thức về vũ khí kỹ thuật hiện đại. Bác không chỉ coi trọng xây dựng dân quân du kích và cách đánh du kích mà coi trọng cả xây dựng bộ đội chủ lực, xây dựng các quân binh chủng kỹ thuật hiện đại, cách đánh của quân đội chính quy. 

Văn hóa trong tư duy quân sự Hồ Chí thể hiện rõ ở chủ nghĩa nhân văn mới, có thể gọi là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, sản phẩm tổng hợp của chủ nghĩa yêu nước và lòng nhân ái truyền thống Việt Nam với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Cố tránh chiến tranh nếu có thể được. Buộc phải làm chiến tranh thì đó là vì nhân nghĩa, vì mục đích chính nghĩa, nhân văn của chiến tranh. Quán triệt tư tưởng nhân văn trong xây dựng lực lượng, trong các cách đánh; tìm mọi cách giảm tổn thất cho ta và cả cho địch. Bác từng nói: "Tôi quý sinh mạng thanh niên Pháp như quý sinh mạng thanh niên Việt Nam". "Máu thanh niên Pháp hay máu thanh niên Việt Nam cũng đều là máu". 

Như đã biết, sau thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945, trước âm mưu xâm lược của nhiều kẻ thù cùng lúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách rất kiên quyết và khéo léo, đối nội và đối ngoại, kể cả những biện pháp đau đớn, để bảo vệ thành quả cách mạng, củng cố nền độc lập mới giành được mà không phải làm chiến tranh. Nhưng thực dân phản động Pháp cố tình cướp nước ta hòng đạt lại ách thống trị của chúng. "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ?". Chiến tranh yêu nước như vậy, rõ ràng là nhân văn, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống của mỗi người dân. 

Trong mấy thập kỷ chiến tranh, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhiều lần tiến hành các cuộc thương lượng hòa bình, ký kết những hiệp ước hòa bình: Hiệp định sơ bộ 6/3, Tạm ước 14/9, Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, Hiệp định Pa-ri. Nhưng các thế lực xâm lược vẫn cố tình áp đặt chiến tranh, buộc nhân dân ta cuối cùng vẫn phải giành lấy hòa bình bằng chiến tranh - hòa bình trong Độc lập Tự do. Hồ Chí Minh, những người cộng sản không sùng bái bạo lực, không sùng bái cả bạo lực cách mạng, bạo lực cách mạng chỉ cần thiết để đánh bại bạo lực phản cách mạng. Cuộc chiến tranh yêu nước 30 năm 1945 - 1975 hoàn toàn do kẻ thù áp đặt chúng ta phải tiến hành. 

Chủ nghĩa nhân văn trong tư duy quân sự Hồ Chí Minh thể hiện trong nhiều chủ trương chiến lược và sách lược của Đảng ta trong quá trình chiến tranh, trong các cách đánh của lực lượng vũ trang nhân dân, trong nhiều chính sách đối với nhân dân, quân đội, cả đối với những người lầm đường, tù hàng binh, đối với kẻ thù, mà mọi người đều biết. Nổi lên vẫn là sự quan tâm của Hồ Chí Minh đối với con người, đối với nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân chiến đấu và phục vụ chiến đấu kết hợp chiến đấu với xây dựng. 

Tích cực bồi dưỡng sức dân đi đôi với động viên sức dân, chăm lo mọi mặt đời sống của các tầng lớp nhân dân, của công nông, của bộ đội. Đẩy mạnh việc xây dựng chế độ mới ngay trong hoàn cảnh chiến tranh để càng đánh càng mạnh, để nhân dân lao động, để mọi người dân được hưởng từng bước thành quả của cách mạng ngay trong chiến tranh. 

Những đòn tiến công ngoại giao trong chiến tranh, chính sách đối ngoại có nguyên tắc và đầy tình nghĩa của Đảng và Nhà nước ta thể hiện nổi bật trong hoạt động của cá nhân Hồ Chí Minh. ở Người, trong quan hệ đối ngoại, là sự am hiểu sâu sắc văn hóa và văn minh Đông Tây, lòng yêu nước, vị tha gắn liền với lòng căm thù địch, tính nguyên tắc cứng rắn gắn liền với sách lược mềm dẻo, có lý có tình, khiến bạn bè khâm phục, kẻ thù kiêng nể. Cuộc hòa đàm ở Pari (1968-1973) đã gây ấn tượng mạnh trong chính giới và báo giới thế giới về một "trường phái ngoại giao Việt Nam". Đó là di sản quý báu của văn hóa Hồ Chí Minh, của tư duy chính trị - quân sự - ngoại giao Hồ Chí Minh mà những học trò của Người kế tục xuất sắc khi Người đã đi xa. 

Tiếp cận từ góc độ văn hóa tư duy quân sự Hồ Chí Minh, giúp chúng ta hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư duy chính trị - quân sự Hồ Chí Minh nói riêng để xử lý theo góc độ văn hóa những vấn đề quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 của Đảng về văn hóa mà chúng ta đã biết. 
NGƯỜI BẢO VỆ