Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

MỘT SỐ SỰ KIỆN VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG NGÀY 01/8

  Ngày 01-8-1922, báo Le Paria (Người Cùng Khổ) đăng ba bài báo của Nguyễn Ái Quốc tố cáo cuộc sống xa hoa và tính cách khác thường của Vua Khải Định (bài “Sở thích đặc biệt”); thông qua cái chết của một nhân viên Sở Hỏa xa Nam Kỳ để lên án “Trong lúc ở Mácxây, người ta triển lãm cảnh phồn thịnh giả tạo của xứ Đông Dương thì ở An Nam đang có những người bị chết đói. Ở bên này, người ta ca tụng lòng trung thành, còn ở bên kia, người ta đang giết người!” (bài “Khai hóa giết người”); thuật lại vụ án binh lính Pháp hãm hiếp một bé gái và hai phụ nữ Việt Nam rồi giết hại, bài báo kết luận: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa...” (bài “Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của Pháp”).

🇻🇳
Ngày 01-8-1941, Nguyễn Ái Quốc ra số báo Việt Nam Độc lập đầu tiên nhằm tuyên truyền đường lối của Mặt trận Việt Minh đăng lời kêu gọi “Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam Độc lập” bằng bài văn vần:
“… Báo “Độc lập” hợp thời đệ nhất,
Làm cho ta mở mắt mở tai.
Cho ta biết đó biết đây,
Ở trong việc nước, ở ngoài thế gian:
Cho ta biết kết đoàn tổ chức.
Cho ta hay sức lực của ta
Cho ta biết chuyện gần xa.
Cho ta biết nước non ta là gì...”.
🇻🇳
Ngày 01-8-1942, cũng trên báo này, đăng bài thơ “Nhóm Lửa” của Nguyễn Ái Quốc ví sự nghiệp cách mạng như việc nhóm lửa để có ngày:
“Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi,
Chiếu lá cờ độc lập, tự do!”.
🇻🇳
Ngày 01-8-1945, tại chiến khu Tân Trào, Đại đội Việt - Mỹ, đơn vị vũ trang hỗn hợp giữa 200 chiến sĩ Việt Minh và đơn vị “Con Nai” của tổ chức OSS được thành lập bước vào đợt huấn luyện sử dụng các loại vũ khí mới, để tổ chức chống phát xít Nhật.
🇻🇳
Ngày 01-8-1949, Bác ra “Lời kêu gọi thi đua chuẩn bị tổng phản công” khẳng định: “Trong các việc thi đua ái quốc, cần phải nêu rõ tinh thần cần, kiệm, liêm, chính. Khẩu hiệu Thi đua ái quốc, hiện nay là: Tất cả để chiến thắng. Chiến thắng giặc thực dân. Chiến thắng giặc dốt. Chiến thắng giặc đói. Chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta...”.
🇻🇳
Ngày 01-8-1951, Bác viết lời điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu với tình cảm “thân thiết hơn anh em ruột”: “Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, Đoàn thể mất một người đồng chí trung thành, và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!... Tôi lại hứa với chú: Toàn thể đồng sự và đồng chí sẽ cố gắng noi gương đạo đức cách mạng của chú, noi gương chú đó tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
🇻🇳
Ngày 01-8-1959, kết thúc chuyến thăm Liên Xô, khi máy bay bay ngang ngọn Thiên Sơn (Trung Quốc), Bác cảm tác một bài thơ chữ Hán và tự dịch:
“Xa trông cảnh đẹp núi Thiên San
Ráng đỏ vây quanh, tuyết trắng ngàn
Sáng dậy mặt trời như lửa tía
Muôn hào quang đỏ chiếu nhân gian”.
🇻🇳
Ngày 01-8-1969, tiếp Thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp bàn về việc xuất bản sách “Người tốt việc tốt”, Bác căn dặn: “Đào tạo con người là vấn đề chiến lược, phong trào “Người tốt việc tốt” chính là một biện pháp quan trọng của chiến lược đào tạo con người đó”./.
St

GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỒN TẠI BỀN VỮNG THEO NĂM THÁNG LÀ ĐIỀU KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN!

 Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam".

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Cùng với đó là sự tiếp thu, tiếp biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: văn hóa phương Đông và phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin; trong đó, nét đặc sắc chính là sự kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin trên nền tảng những tri thức văn hóa tinh túy, chắt lọc, hấp thụ được tích lũy qua thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành bởi tư duy, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của Người. Đó cũng là quá trình tiếp thu, làm giàu, rèn luyện từ học tập, nghiên cứu, trải nghiệm thực tiễn, khám phá các quy luật vận động, đời sống văn hóa, xã hội và cuộc đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn nên mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; không chỉ giải quyết vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư duy hành động. Trong khi tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đạo đức và phong cách; là quan điểm và tấm gương mẫu mực của người chiến sĩ cộng sản trung thành và kiên định lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng, dân tộc và nhân dân lên trên hết, luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân; luôn cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, phong cách làm việc dân chủ, khoa học; phong cách ứng xử văn hóa, nhân văn, trọng nghĩa tình, nói đi đôi với làm, sống giản dị, hòa đồng với thiên nhiên,v.v.. tự mình nêu gương về đạo đức cách mạng, thể hiện sinh động, tự nhiên, đầy cảm hóa trong công tác và ứng xử hằng ngày.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác như cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và những thành tựu quan trọng về mọi mặt trong hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên hành trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Không thể phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, song các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình”; những kẻ tự xưng là “người yêu nước”, người “bất đồng chính kiến” ở trong và ngoài nước đã lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo và bôi nhọ thân thế, sự nghiệp, xuyên tạc và phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh khi nói và viết: “Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam”; “Hồ Chí Minh đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa Mác - Lênin”; “Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều”; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép, máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, bởi thế, cần từ bỏ nó để “kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi” - con đường tư bản chủ nghĩa. Có những người tìm mọi cách đả kích, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, tấm gương đạo đức cách mạng của Người để “hạ bệ thần tượng” và lung lạc những người nhẹ dạ, cả tin để phủ nhận những giá trị cơ bản, đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí, có người lại “cực đoan” đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ và coi tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam nên Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh để xuyên tạc và hạ thấp sự cống hiến của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam và thế giới, hạ thấp tư tưởng của Người mà không hiểu và cố tình không hiểu rằng: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, tiếp tục dẫn dắt, soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những giọng điệu "lạc dòng", phủ nhận của một bộ phận những người không hiểu, thậm chí cố tình không hiểu đúng bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh đó không hề làm giảm đi giá trị tư tưởng của Người, vì “trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận vế cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc..." như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII đã khẳng định.
ĐẢNG LẤY CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀM NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và Người nhận thấy: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Người nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần những chỉ dẫn của V.I.Lênin: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” để nỗ lực hoạt động, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó và khẳng định: Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt; "Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, "bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Sau đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động và điều này được khẳng định trong Luận cương chính trị năm 1930 Đảng: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”.
Trung thành với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng Hồ Chí Minh không giáo điều mà nắm lấy tinh thần, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong quá trình: 1) Thành lập Đảng và xây dựng Đảng cầm quyền; 2) Tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình cách mạng; 3) Xây dựng nhà nước kiểu mới; 4) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa… Lý luận Mác - Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan, là lý luận tiên phong của thời đại được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Cùng với thời gian, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không chỉ khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta mà còn nhấn mạnh tại Đại hội VI (12/1986) - Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới của Đảng: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Tại Đại hội VII (6/1991), Đảng nhấn mạnh việc phải “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”; thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Bước phát triển trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng này đã cho thấy cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, sự khẳng định này cũng bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những những luận điệu sai trái, thù địch, đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị to lớn, toàn diện cống hiến vô giá về lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh được thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX chứng thực, Đại hội IX (4/2001) của Đảng và khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định gồm 9 nội dung cơ bản: 1) Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 2) Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 3) Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. 4) Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 5) Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. 6) Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 7) Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
😎
Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. 9) Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động… Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
TIẾP TỤC LÀM CHO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LAN TỎA, THẤM SÂU TRONG ĐẢNG VÀ TRONG XÃ HỘI
Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ, song tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vĩ đại của Người đã là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Thực tiễn những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam đã chứng minh sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa lịch sử và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành một phần giá trị của văn hóa nhân loại. Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen, nhất là khi tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang diễn biến khó lường cùng những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội. Thực tế, hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 90 năm xây dựng và phát triển; đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận; không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi trường tồn cùng dân tộc và thời đại vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, được minh chứng qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và ngày càng tỏa sáng, in sâu trong trái tim, khối óc của hàng triệu triệu con người. Vì thế, việc tiếp tục giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh; việc kiên định mục tiêu, con đường phát triển độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là yêu cầu tất yếu khách quan của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi mà còn góp phần giữ vững bản chất của một Đảng chân chính, cách mạng.
Để kiên định và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội Đảng bộ các cấp và trước thềm Đại hội XIII của Đảng, toàn Đảng cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, một cách thiết thực, hiệu quả. Trong đó, cấp ủy các cấp, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phải chú trọng nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để kịp thời nhận diện và kiên quyết phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, ngăn chặn những diễn biến xấu về tư tưởng, chính trị, phòng và chống những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng, trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, chú trọng xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh học từ đại học đến sau đại học, để đội ngũ cán bộ đó có trình độ chuyên môn chuyên sâu, có năng lực nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn tốt, góp phần bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng các lực lượng chuyên trách, thường trực, tác chiến nhanh, chính xác, làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng và trong xã hội.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan báo chí, truyền thông, kết hợp chặt chẽ với tuyên truyền miệng, các kênh thông tin khác, xây dựng chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền sát hợp thực tế để chủ động đấu tranh, phòng, chống và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trên báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội gắn với nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đa dạng hóa các phương pháp, hình thức đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch về cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng kết hợp với đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, gắn với công tác kiểm tra, đánh giá, tự phê bình và phê bình để không chỉ bảo vệ mà còn góp phần củng cố niềm tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh - cội nguồn sức mạnh, tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong hành trình hướng đến tương lai.
Thứ tư, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong đó, cụ thể từng nội dung của chuyên đề hằng năm trong sinh hoạt của chi bộ, đoàn thể, trong các cuộc họp của cơ quan, đơn vị, trong các phong trào thi đua gắn với việc chủ động phòng, chống, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; coi đó là nhu cầu tự thân, nền nếp của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân, là một giải pháp căn cốt để bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao tính tự giác trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục nỗ lực học tập và nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, có hệ thống di sản tư tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng trong thực tiễn và chủ động tuyên truyền, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng của Người lan tỏa, thấm sâu trong Đảng và trong xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
St

TÁC PHẨM “NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của cách mạng…Do đó, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là nội dung lớn, quan trọng và thiết thực, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài, kiên trì.

Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Để hoàn thành sứ mệnh trước giai cấp và dân tộc, Đảng phải luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta - lúc sinh thời luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Vào đầu năm 1969 cuộc kháng chiến cứu nước của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang diễn ra quyết liệt. Lúc bấy giờ, đối với miền Bắc, cần tranh thủ điều kiện tạm thời có hòa bình, thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Trong bối cảnh ấy, cần thiết phải tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, củng cố mặt trận tư tưởng, ngăn chặn xu hướng xả hơi sau nhiều năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đăng trên báo Nhân dân, số 5409, ngày 03-02-1969. Đây là bài viết sau cùng của Người về đạo đức cách mạng, đã, đang và sẽ trở thành cơ sở lý luận cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”.
1. Vài nét về nội dung chính của tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”
Mở đầu tác phẩm, Người đã dành những lời lẽ chân thành để nói về uy tín và vai trò to lớn của Đảng đối với cách mạng sau 39 năm đấu tranh oanh liệt, dành những lời khen ngợi cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã làm tốt vai trò tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động sản xuất, trong chiến đấu: “Đảng ta lãnh đạo rất sáng suốt đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hằng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta đã tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang”. Đồng thời, Người cũng tôn vinh những thanh niên trai, gái trưởng thành từ giáo dục, rèn luyện của Đảng, hăng hái, dũng cảm, đã trở thành “những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”.
Thế nhưng, Người cũng rất nghiêm khắc phê bình nhiều cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân, vậy nên “đạo đức, phẩm chất còn thấp kém” “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Tác hại của chủ nghĩa cá nhân là vô cùng lớn, vô cùng nguy hiểm đối với Đảng, với cách mạng. “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa…tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành…tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền… xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”. Tất cả những điều đó là những căn bệnh và khuyết điểm được nảy sinh trong điều kiện của đảng cầm quyền, sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Từ đó, Người nêu ra cách chữa trị căn bệnh này, xác định trách nhiệm lãnh đạo và giáo dục của Đảng, đó là: “Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”.
Nền tảng của công tác xây dựng Đảng về đạo đức, bao gồm đạo đức của Đảng và đạo đức của mỗi đảng viên, giữa chúng có quan hệ hữu cơ, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. Do đó, bên cạnh chỉ ra trách nhiệm của Đảng cầm quyền trong giáo dục đạo đức cách mạng, Người cũng chỉ rõ nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên là: “phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”.
Có như vậy, Đảng ta mới thực sự “là đạo đức, là văn minh”, cán bộ, đảng viên mới thực sự xứng đáng với một Đảng vĩ đại, xứng đáng với sự tín nhiệm, tin tưởng của nhân dân.
2. Giá trị tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Trong hơn 93 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình đối với cách mạng, đối với Nhân dân bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với Nhân dân, được Nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên nhiều kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu, chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Trong phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng văn hóa Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”. “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình…Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và xã hội”.
Tuy vậy, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" đánh giá: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế...”.
Trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, chúng ta cần phát huy hơn nữa truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng, chăm lo xây dựng Đảng ta thật sự vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất cao về ý chí, hành động; trong sạch về đạo đức, lối sống; chặt chẽ về tổ chức; gắn bó mật thiết với Nhân dân, ngang tầm nhiệm vụ để có thể lãnh đạo đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, ngày càng phát triển. Phải nhận thức rõ, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước Nhân dân là nhiệm vụ sống còn của Đảng.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ XVI với chủ đề “Tăng cường xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; năng động, sáng tạo; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc; giữ vững quốc phòng, an ninh; huy động, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; đưa tỉnh Kon Tum phát triển nhanh và bền vững” đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên trong triển khai thực hiện nhiệm vụ địa phương, đơn vị…Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, năng lực, trách nhiệm, tâm huyết với nhiệm vụ được giao”. Đồng thời rà soát, xử lý, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ không đảm bảo về điều kiện, tiêu chuẩn, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp.
Tính đến nay, nửa nhiệm kỳ đã trôi qua, công tác xây dựng Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng Đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn tỉnh. Tuy vậy, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI (họp ngày 30-6- 2023) đã đánh giá: “công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có lúc, có nơi còn hạn chế, trách nhiệm nêu gương của một số cán bộ đảng viên chưa cao, còn một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”.
Trong tình hình đó, việc tiếp tục xây dựng tổ chức Đảng, quan tâm xây dựng, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên có đầy đủ phẩm chất đạo đức, có năng lực sáng tạo, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là rất quan trọng. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần bám sát đặc điểm, yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ của mình để thực hiện tốt nội dung “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, trong đó cần tập trung một số nội dung sau:
Một là, phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí quan trọng của công tác xây dựng Đảng về đạo đức; về tính cấp thiết phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Hai là, phải đổi mới mạnh mẽ, nâng cao tính thuyết phục của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần nâng cao bản lĩnh, lập trường, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tạo ra khả năng đề kháng trước mọi nguy cơ, nhất là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong xây dựng Đảng về đạo đức phải thực hiện đồng bộ cả hai nội dung “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, lâu dài, xuyên suốt, “chống” là quan trọng, cấp bách, được thực hiện bằng giải pháp tổng hợp, mạnh mẽ, hướng vào tạo nền tảng đạo đức vững chắc, bền vững và đấu tranh ngăn chặn, xử lý nghiêm, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, gắn với đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, “tự soi, tự sửa” của mỗi cán bộ, đảng viên, không phải chờ đến khi cấp trên yêu cầu, gợi ý.
Bốn là, đề cao kỷ cương, kỷ luật trong Đảng; mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu phải coi trọng và đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, nhất là tự kiểm tra, tự giám sát gắn với nâng cao trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp.
Năm là, đẩy mạnh phong trào thi đua học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải thực chất, hiệu quả, chú trọng xây dựng những mô hình, điển hình tiêu biểu trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Các cơ quan báo chí phải tăng cường phản ánh, giới thiệu gương người tốt, việc tốt trong đảng viên và quần chúng, tạo sự lan tỏa, ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng, tăng cường niềm tin trong xã hội. Công tác khen thưởng cũng phải lựa chọn được người xứng đáng, tôn vinh kịp thời.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của cách mạng, thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa đi cùng với công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Do đó, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là nội dung lớn, quan trọng và thiết thực, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài, kiên trì. Các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi đảng viên chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc hơn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, có thái độ quyết tâm hơn trong đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, xây dựng Đảng ta xứng đáng “là đạo đức”, “là văn minh”, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, đưa đất nước ta phát triển phồn vinh, hạnh phúc theo tâm nguyện của Người./.
St

HỌC BÁC TỪ TẤM GƯƠNG TỰ HỌC VÀ TÁC PHONG LÀM VIỆC HIỆU QUẢ, CHUẨN MỰC

 Như Xã luận Báo Granma (Cuba), cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Cuba viết: “Bác Hồ là tấm gương mà nhiều con người có thể noi theo và làm được như Người”, tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành tấm gương cho nhiều thế hệ đương thời và sáng soi trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Học tập và làm theo Bác là nhiệm vụ hết sức quan trọng, không thể thiếu đối với cán bộ đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến và phụng sự đất nước.

SỬ DỤNG HIỆU QUẢ THỜI GIAN ĐỂ HỌC TẬP VÀ LÀM VIỆC
Học Bác, chúng ta học tập cách quý trọng thời gian, sử dụng hiệu quả thời gian để học tập và làm việc, bởi theo Người: “Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”. Đó là kinh nghiệm Bác đúc rút ra từ quá trình tự học, làm việc và trong cả cuộc đời làm cách mạng của Người.
Trên hành trình 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã vượt lên hoàn cảnh, luôn tranh thủ thời gian, khai thác tối đa quỹ thời gian eo hẹp và tạo ra thời gian để kiên trì học tập, trau dồi kiến thức. Theo tác giả Trần Dân Tiên trong sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, khi làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Trêville: “Mỗi ngày 9 giờ tối công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi chúng tôi (những người Việt Nam làm công trên chuyến tàu) ngủ hoặc đánh bài, anh Ba đọc hay viết đến 11 giờ hoặc nửa đêm”. Những ngày làm vườn cho ông chủ tàu ở Saint Adresse “anh học tiếng Pháp với cô sen”. Những ngày sống ở Anh, “hàng ngày buổi sáng sớm và buổi chiều anh Ba ngồi trong vườn hoa Hayden, tay cầm một quyển sách và một cái bút chì. Hàng tuần, vào ngày nghỉ, anh đi học tiếng Anh với một giáo sư người Ý”. Hồ Chí Minh còn tham gia vào Hội Du lịch đưa khách đi thăm nước Pháp và những nước lân cận với giá tiền rất rẻ bởi như Người đã nói với bạn rằng: “Trong những ngày nghỉ, không nên tiêu phí tiền bạc, mất thì giờ ở bãi bể để nhìn những người đàn bà đi tắm, mà nên đi du lịch, học hỏi được nhiều”. Nhờ vậy, Người có dịp đi thăm nhiều nơi ở Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Đức và cả Tòa thánh Vatican… để mở rộng tầm nhìn và cơ hội học hỏi. Khi bắt đầu đi tìm đường cứu nước, trình độ học vấn mà Người được đào tạo ở nhà trường chẳng được là bao. Trong lý lịch tự khai tại Đảng Cộng sản Pháp cũng như tại một số hội nghị, Đại hội của Quốc tế Cộng sản mà Người tham dự, Người thường khiêm tốn ghi ở phần trình độ học vấn là Tự học. Năm 1961, tại Hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế họp tại Việt Nam, Người cũng đã tự kể rằng: “Về văn hóa tôi chỉ học hết lớp tiểu học... Về hiểu biết phổ thông: Năm 17 tuổi, tôi mới thấy ngọn đèn điện lần đầu tiên, 29 tuổi mới nghe rađiô lần đầu tiên...”. Có thể khẳng định, cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh chính là cuộc đời tự học bền bỉ, và cả thế giới đã phải thừa nhận và khâm phục về sự thông minh, về tầm hiểu biết rộng lớn của Người (danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất mà tổ chức UNESCO trao tặng Người chính là minh chứng).
Trở thành Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vẫn tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để học. Năm 1961, nói chuyện với các cán bộ đảng viên ở Nghệ An hoạt động lâu năm, Người tâm sự: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham gia. Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”. Với các đảng viên mới, Người cũng căn dặn: “Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng”.
Các đồng chí phục vụ Bác sinh thời kể lại rằng, ngày nào Bác cũng dành thời gian để bổ sung và nâng cao tri thức cho mình bằng đọc sách, báo, nghe tin tức thời sự và rút kinh nghiệm từ những công việc thực tiễn hàng ngày. Người thường xem báo ngay đầu giờ buổi sáng và thường xuyên nhắc cán bộ, nhất là cán bộ phụ trách, cần phải sắp xếp thời gian đọc báo hằng ngày để nắm bắt thông tin phục vụ cho công việc. Ngoài báo chí trong nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đọc báo nước ngoài gửi đến bằng con đường ngoại giao. Vừa đọc, Người vừa ghi chép hết sức cẩn thận, tỉ mỉ từ những vấn đề của các địa phương trong nước cho đến những biến động trên thế giới, từ những cuộc đấu tranh biểu tình cho đến những vấn đề về tài chính tiền tệ v.v... Rất cụ thể và thiết thực, đây chính là một trong những hình thức tự học tập để bổ sung tri thức hiệu quả và cần thiết. Trên cơ sở đó, giúp Người đưa ra chỉ đạo phù hợp với từng lĩnh vực và những chính sách đối nội, đối ngoại sát với thực tiễn.
Như lời Bác đã dạy: “Muốn tiết kiệm có kết quả tốt, thì phải khéo tổ chức”, hằng tuần, hằng ngày, có khi cả hằng giờ nữa, Bác đều có chương trình làm việc rõ ràng, khoa học, cụ thể. Một ngày làm việc của Bác bắt đầu từ rất sớm: “Khi Đài Tiếng nói Việt Nam mở nhạc hiệu thì Bác cũng bật đèn phòng ngủ. Bác làm suốt cả ngày, nhiều hôm đến tận đêm khuya”. Trong một ngày Bác giải quyết rất nhiều công việc, từ tiếp cán bộ, tiếp khách ngoại giao, đi thăm cơ sở, họp Bộ Chính trị, nghiên cứu tài liệu, viết báo, viết thư v.v.. Trong khi bộ máy giúp việc cho Bác tại Văn phòng ở Phủ Chủ tịch cũng rất ít. Ngoài bốn cán bộ làm công tác văn phòng (kể cả đồng chí Vũ Kỳ là thư ký riêng của Bác), còn có một số đồng chí nấu ăn, cần vụ, lái xe, làm vườn, có tất cả hơn mư¬ời người. Nhưng sự phân bổ thời gian hợp lý khoa học và phong cách làm việc thiết thực cụ thể đã giúp Bác tiết kiệm nhiều thời gian và giải quyết hiệu quả một khối lượng công việc đồ sộ, phức tạp trên cương vị một người lãnh đạo đất nước. Khi cần nắm rõ công việc của ngành nào, địa ph¬ương nào, Bác cho gọi đồng chí Trung ư¬ơng, Bộ trưởng phụ trách ngành đó, địa phương đó, nếu cần thì đem theo cả chuyên viên đặc trách đến báo cáo với Bác. Người thường bố trí thời gian tiếp cán bộ đến làm việc hoặc tiếp khách vào đầu các buổi sáng sớm để sau đó dành nhiều thời gian cho công việc. Công việc xong mà chưa đến giờ ngủ, Bác lại đọc sách, báo. Chủ nhật, ngày lễ cũng có chương trình. Vì vậy, không mấy khi Bác có thời gian rảnh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người có nhiều thời gian sống gần Bác trong những năm Người sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch đã nhận định: “Theo tôi biết… thật sự Bác không có ngày nghỉ và ngày nào cũng như ngày nào, bao giờ cũng có chương trình làm việc với những giờ giấc rất nghiêm ngặt, mà Hồ Chí Minh là người gương mẫu trong việc tuân thủ kỷ luật đó”.
CÓ QUYẾT TÂM THÌ VIỆC GÌ LÀM CŨNG ĐƯỢC
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại buổi lễ tốt nghiệp khóa 5 trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam, Bác đã thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Cách tôi làm việc đúng giờ. Tôi khuyên anh em làm việc phải cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”. Một câu chuyện nhỏ về thời gian, về kỷ luật nhưng Bác lại dạy chúng ta biết bao điều. Bác quý trọng thời gian của mình bao nhiêu, thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Vì thế, Bác không để bất cứ ai phải đợi mình bao giờ. Bác đã hẹn là đến, Bác đã hứa là làm, hẹn đồng chí nào giờ nào đến gặp, đến đúng giờ ấy là thấy Bác đã chờ sẵn. Thu Đông năm 1952, Bác đến với Hội nghị chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc. Nhiều đồng chí cán bộ dự chiến dịch Tây Bắc năm đó vẫn còn nhớ, Bác đã đến hội nghị với một hình ảnh không ai có thể quên được. Mấy hôm ấy trời mưa to, nước lũ từ các đầu nguồn tràn về cắt đứt cả đường sá nhưng Bác đã vượt suối lũ, tới hội nghị. Bà con địa phương đi đến đấy gặp lũ phải đứng lại, thấy thế cũng hăng hái theo Bác và đều lội qua được. Tất cả các đồng chí dự hội nghị đều biết rằng mùa mưa vượt suối nước lũ không phải là việc dễ, cho nên khi thấy Bác đã tới hội nghị rất đúng giờ, chẳng những cảm động trước sự săn sóc chu đáo của Bác với quân đội, mà còn là một bài học cần ngay cho họ trước khi ra trận. Bài học ấy, như Bác thường nói, là: “Quyết tâm, có quyết tâm thì việc gì làm cũng được”.
Quý trọng thời gian, Bác không muốn anh em giúp việc, cán bộ ngồi chơi không và luôn căn dặn anh em phải “học ở trường, ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân”, học trong việc làm hàng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, người trực tiếp bảo vệ Bác từ năm 1946 đến năm 1951 kể lại: Có những lần hết giờ gác, chúng tôi nằm tán chuyện với nhau. Lúc giải lao Bác đi thăm anh em. Một hôm, Bác gặp chúng tôi đang nằm chơi, Bác nói: “Các chú không có việc gì làm à? Nếu không có việc thì mang chiếc giư-ờng dỡ ra rồi lắp lại, nếu còn thì giờ nữa thì ra ngoài kia vật nhau hay tăng gia”. Ý Bác muốn nói là phải tìm việc mà làm, không nên ngồi tán gẫu.... Đồng chí lái xe ít xem sách báo. Những buổi anh rỗi việc, Bác gọi lên, bảo ngồi ở buồng bên, rồi đưa sách báo cho đọc. Thỉnh thoảng, Bác qua kiểm tra. Có lần Bác vào, thấy tờ báo mở trên bàn, đồng chí lái xe tựa lưng vào ghế ngủ. Bác nhẹ nhàng đi ra. Lúc khác, Bác nói: "Mới đọc chưa hiểu, dễ buồn ngủ. Đọc ít lâu, hiểu rồi sẽ ham. Ham rồi sẽ không buồn ngủ nữa". Cũng với ý đó, Bác đã từng nói với những cán bộ phục vụ thật thấm thía: “Cái gì cũng quen đi thôi các chú ạ. Chăm cũng quen đi, mà lười cũng quen đi, quen nhanh thôi chứ không lâu đâu. Thế nào là khó khăn? Khó khăn là cái chưa quen. Rèn luyện cho quen đi thì khó cũng không còn khó nữa. Kiên trì rèn luyện, sẽ đến một lúc làm cỏi khó thấy rằng không khó”.
VẬN DỤNG NHỮNG CHUẨN MỰC VÀO PHONG CÁCH LÀM VIỆC
Từ thực tiễn cuộc sống và hoạt động cách mạng, đặc biệt là những năm Người sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những chuẩn mực về phong cách sống, phong cách làm việc. Đây là những bài học thực tiễn sâu sắc đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là cán bộ đảng viên trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi đất nước đang đẩy mạnh mở cửa hội nhập với thế giới, đòi hỏi mỗi người dân Việt Nam phải có một phong cách làm việc khoa học, hiện đại và hiệu quả để góp phần đưa đất nước phát triển.
Thực trạng hiện nay cho thấy, việc quản lý lao động trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, dẫn đến lãng phí thời gian lao động, làm cho năng suất, chất lượng hiệu quả công tác chưa cao. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước chưa đề cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; ý thức kỷ luật lao động kém; vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng thời giờ làm việc, ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng công tác và tác phong, uy tín của cán bộ, công chức, viên chức.
Để thực hiện mục tiêu hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, phấn đấu đưa nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại, mỗi cá nhân, mỗi tập thể cần phải học tập và làm theo tấm gương của Bác, đặc biệt là thực hiện lời dạy của Bác về tiết kiệm và sử dụng hiệu quả thời gian. Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước cần tăng cường áp dụng các biện pháp tổ chức lao động một cách khoa học, sử dụng hợp lý thời giờ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Mỗi cá nhân cần sử dụng hiệu quả thời gian bằng cách sắp xếp kế hoạch cụ thể, chi tiết; cần tích cực thi đua trong lao động, học tập, sản xuất; cần xây dựng phong cách làm việc chuyên nghiệp; rèn luyện tác phong công nghiệp, thể hiện trước nhất ở việc tuân thủ và biết quý trọng thời gian; phát triển khả năng độc lập và tự chủ trong công việc; không ngừng học hỏi và nâng cao kiến thức chuyên môn, ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến. Đây cũng chính là biện pháp để chúng ta rèn luyện phẩm chất tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng quan tâm xây dựng: “Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến người chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân, phải được dân tin cậy. Vì vậy, những người làm trong các công sở càng phải làm gương đời sống mới cho dân bắt chước... Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào, nên làm xong ngày ấy, chớ để chờ ngày mai. Phải nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”./.
St

“Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”

 Câu nói “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc” đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với đội ngũ trí thức Việt Nam và vai trò của trí thức đối việc củng cố và bảo vệ chính quyền; đồng thời, còn thể hiện tư tưởng chỉ đạo, phát huy vai trò quan trọng, địa vị và sự đóng góp cần thiết của đội ngũ trí thức với công cuộc kiến thiết nước nhà. Thực hiện tư tưởng của Bác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ trí thức nước ta đã có nhiều đóng góp tích cực trong sự nghiệp kiến quốc, giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng CNXH, tạo thành khối liên minh bền vững giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ngày nay, thực hiện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, lời Bác dạy có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta nghiên cứu, vận dụng sáng tạo làm cơ sở cho xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nòng cốt. Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, giỏi về chuyên môn, giàu về năng lực, hiểu biết sâu sắc trên từng lĩnh vực đời sống xã hội, đóng góp tài năng và sức lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhận thức sâu sắc lời dạy của Bác, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn tích cực học tập, nghiên cứu, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, tiếp nhận nhanh và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học kỹ thuật quân sự, để tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đường lối, chủ trương, chính sách quốc phòng, an ninh; phát triển đội ngũ trí thức quân đội cả về số lượng và chất lượng, góp phần xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

“Muốn chống tham ô lãng phí, chống quan liêu thì phải dân chủ”

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương sự cố gắng của ngành hậu cần quân đội trong bảo đảm đời sống bộ đội, phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng thời yêu cầu cán bộ, chiến sĩ quân đội phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, kiên quyết chống tham ô, lãng phí. Người cũng chỉ rõ cách để phòng, chống tham ô, lãng phí tốt nhất, hiệu quả nhất là phải thực hành dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình, làm cho mọi người biết tự phê bình mình và dám phê bình người. Thực hiện lời dạy của Bác, ngành hậu cần quân đội đã nêu cao ý thức phục vụ, thực hành tiết kiệm, bảo đảm tốt chế độ, tiêu chuẩn cho bộ đội, kinh tế công khai, minh bạch, không để xảy ra tham ô, lãng phí làm thất thoát tài sản của Đảng, Nhà nước, quân đội, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Hiện nay, trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, lời dạy của Bác càng có ý nghĩa quan trọng giúp cho mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của dân chủ, tự phê bình và phê bình trong chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Qua đó, xác định rõ trách nhiệm của mỗi quân nhân trong thực hành dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; bảo đảm đúng, đủ tiêu chuẩn, chế độ cho bộ đội; tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí có hiệu quả. Quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; các cơ quan, đơn vị cần đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt, mở rộng dân chủ, minh bạch chế độ, chính sách; bồi dưỡng, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về công tác xây dựng Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng tổ chức Đảng TSVM, cơ quan, đơn vị VMTD, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

“Phải luôn luôn cảnh giác, đoàn kết chặt chẽ…, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm”

 Đây là thời điểm đáng ghi nhớ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khi quân và dân miền Nam đang đánh mạnh, thắng to; quân và dân miền Bắc vừa lập công bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của không quân Mỹ xâm lược leo thang phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất lớn, không chỉ động viên, khen ngợi quân và dân miền Bắc mà còn nhắc nhở quân và dân hai miền Nam-Bắc phải luôn nêu cao cảnh giác cách mạng, đoàn kết chặt chẽ, đồng tâm hợp lực, ra sức chiến đấu mạnh, sản xuất tốt; đồng thời phải coi trọng việc phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm để cùng nhau thi đua trong lao động sản xuất, trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Hưởng ứng lời dạy của Bác, toàn dân và toàn quân ta hăng hái chiến đấu đánh giặc lập công, tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tạo động lực vật chất, tinh thần cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi.

Ngày nay, đất nước hòa bình, thống nhất, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, “phi chính trị hóa quân đội" nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Học tập và làm theo lời dạy của Bác, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải luôn nêu cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng; tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn nghiệp vụ; làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội

Quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó cũng là công cụ nhận thức quan trọng để Đảng ta kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.

Quan điểm khách quan yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phản ánh trung thực sự vật, hiện tượng với tất cả bản chất, những mối quan hệ vốn có của nó; nắm vững và tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực; đồng thời, không rơi vào chủ quan duy ý chí; không được lấy ý chí chủ quan, ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân để áp đặt cho thực tế.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng và mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành và những mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng; cả hiện tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai; phải đồng bộ, không cục bộ, phiến diện. Song trong mối liên hệ cụ thể, từng giai đoạn phải nắm đúng trọng tâm, then chốt, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh dàn trải, không viển vông, ảo tưởng. Trong quá trình xem xét toàn bộ mối liên hệ, bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, phải dự báo được khả năng vận động, phát triển; chống mọi biểu hiện trì trệ, bảo thủ.

Quan điểm lịch sử, cụ thể chỉ rõ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét đúng các quá trình, các giai đoạn phát triển của các sự vật, hiện tượng; nhận thức được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Chỉ ra được mối liên hệ, quy luật khách quan; vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, cần phải đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời thực tiễn với những điều kiện, hoàn cảnh riêng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; phải khái quát và làm sáng rõ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo trong cả tự nhiên, xã hội và mỗi con người. Sự phát triển là quá trình biện chứng, có tính chất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước tụt lùi tạm thời, nhưng tất yếu cái mới sẽ ra đời. Do đó, cần phải có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, đấu tranh, loại bỏ mọi lực cản ảnh hưởng sự phát triển của tự nhiên, xã hội và mỗi con người.


“Muốn có tinh thần XHCN phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân”

 Đây là thời điểm miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng CNXH, bước đầu đạt được những thành tựu quan trọng; miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

 
Lời dạy của Bác có ý nghĩa vô cùng to lớn, đã chỉ rõ cho nhân dân ta nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng nhận thức đúng đắn, đầy đủ bản chất của CNXH, con đường mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã lựa chọn; thức tỉnh tinh thần toàn dân tộc, trong đó có sinh viên, phải nêu cao ý thức và có tinh thần XHCN, phấn đấu hết mình cho sự nghiệp vĩ đại đó của dân tộc; đồng thời, kiên quyết đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội, một trong những cản trở lớn trên con đường đi lên CNXH ở nước ta. Thực hiện lời dạy của Bác, lớp lớp sinh viên Việt Nam đã đoàn kết chặt chẽ, ra sức học tập, rèn luyện tốt, chăm chỉ lao động và vượt qua khó khăn, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cá nhân để trở thành chủ nhân tương lai của nước nhà, phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cách mạng.

Ngày nay, cả nước đang ra sức đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lời dạy của Bác vẫn vẹn nguyên giá trị, là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong tự phê bình và phê bình, đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, từng cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, tích cực học tập, rèn luyện, phát huy tinh thần làm chủ tập thể, luôn đặt công việc, lợi ích của tập thể lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân; không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ; làm chủ vũ khí trang bị; kiên quyết đấu tranh với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương, thờ ơ, vô cảm… sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là người quân nhân cách mạng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

“Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò...”

 Theo Bác, trong giáo dục cần làm cho học sinh biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hóa. Đồng thời phải giữ cho học sinh luôn được vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, trẻ trung của tuổi thơ, được hưởng quyền dân chủ, được vui chơi và học hành tiến bộ, mang lại cho trẻ em niềm hạnh phúc khi được sống cùng cha mẹ. Để làm được điều đó, giáo dục gia đình giữ vai trò rất quan trọng.

Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ về tầm quan trọng của gia đình, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của gia đình đối với sự phát triển bền vững của đất nước, luôn xác định gia đình là tế bào của xã hội. Ngày 28 tháng 6 năm 2000, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 55-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg, chọn ngày 28 tháng 6 hằng năm là Ngày Gia đình Việt Nam, nhằm đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng toàn thể các gia đình thường xuyên quan tâm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Ngày Gia đình Việt Nam là dấu mốc quan trọng để những con người đất Việt hướng về cội nguồn, về những người thân yêu, qua đó nuôi dưỡng tình cảm đẹp, những giá trị văn hóa cao quý của dân tộc. Cho dù có đi đâu, làm gì, gia đình vẫn là nơi để nhớ, để yêu thương và để quay về.

Hoạt động của Quân đội là loại hình lao động đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ cơ bản sống xa gia đình, gắn bó với đơn vị; do vậy, với mỗi người lính, gia đình luôn có vị trí đặc biệt trong tâm tư, tình cảm và trách nhiệm của mỗi người. Để xây dựng được tinh thần đoàn kết đồng chí, đồng đội, gắn bó giữa bộ đội với cơ quan, đơn vị, các mô hình: “Đơn vị là nhà, cán bộ, chiến sĩ đều là anh em”, “Đảo là nhà, tàu là nhà, biển cả là quê hương”, “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”…đã được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân triển khai thực hiện đạt hiệu quả thiết thực đã góp phần quan trọng xây dựng tinh thần đoàn kết đồng chí, đồng đội, đoàn kết quân dân và sự gắn bó của bộ đội với cơ quan, đơn vị, hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.