Đã 15 tháng trôi qua kể từ ngày khởi công dự án đường nối cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ với vành đai 3, đến nay, nhà thầu thi công vẫn chưa được bàn giao một m2 mặt bằng nào để triển khai dự án.Dự án cấp bách 3.200 tỷ "đắp chiếu" chờ mặt bằng
Đường nối cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ với Vành đai 3 nhằm giảm tải cho nút giao Pháp Vân- cửa ngõ vào Thủ đô ở phía Nam, vốn thường xuyên ùn tắc mỗi dịp cuối tuần, nghỉ lễ, Tết nhưng đến nay, đã hơn 15 tháng trôi qua kể từ ngày khởi công, dự án hàng nghìn tỷ đồng vốn ngân sách này vẫn giậm chân tại chỗ.
Sáng 19/7/2023, Ban QLDA Đầu tư xây dựng công trình giao thông TP Hà Nội đã tổ chức khởi công dự án đường nối cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ với Vành đai 3 trên cao với tổng mức đầu tư 3.200 tỷ đồng từ nguồn ngân sách TP Hà Nội. Dự án theo kế hoạch được hoàn thành trong năm 2025.
Dù vậy, ghi nhận của phóng viên cho thấy, đã sắp hết tháng 9/2024, tại công trường dự án vẫn rất vắng lặng, máy móc nằm im, lèo tèo vài công nhân thi công kiểu cầm chừng. Trên cả dự án kéo dài hơn 3km, nhà thầu chỉ thi công cầm chừng tại 2 điểm đầu là nút giao với cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ và nút giao với Vành đai 3.
Trong khi đó, tại nút giao với đường Vành đai 3, đơn vị thi công đã tiến hành rào chắn từ hơn 1 năm nay gây khó khăn cho phương tiện đi lại.
Rào chắn đường Pháp Vân để thi công dự án đường nối cao tốc Pháp Vân với Vành đai 3 nhưng cả năm nay thi công kiểu cầm chừng vì không có mặt bằng
Anh Nguyễn Đức Huy ở KĐT Gamuda cho hay: “Ngày nào tôi cũng đi lại qua khu vực dự án này thi công. Hơn 1 năm nay rồi, rào đường xong có thời điểm chẳng có máy móc, công nhân nào thi công, rất bất cập”.
Báo cáo từ Ban QLDA Đầu tư xây dựng công trình giao thông TP Hà Nội (chủ đầu tư) dự án cho thấy, dự án đường nối cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ với Vành đai 3 khởi công ngày 19/7/2023.
Hiện nay, Ban đang chỉ đạo nhà thầu tập trung thi công các hạng mục trên mặt bằng hiện có thuộc phạm vi nút giao Tứ Hiệp và nút giao với đường Vành đai 3 của 2 gói thầu xây lắp chính, còn lại gói thầu 02-XL có một phần mặt bằng (cầu qua kênh Yên Sở) nhưng không có đường vào thi công.
Cũng theo đại diện Ban QLDA công trình giao thông, khối lượng mặt bằng đã có đủ điều kiện thi công ít, khó khăn cho việc huy động máy móc tập trung thi công đồng bộ các hạng mục công trình.
Đã 15 tháng trôi qua, chưa có mét vuông mặt bằng nào được bàn giao để thi công
Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc dẫn đến tiến độ bàn giao mặt bằng chậm ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình, tiến độ hoàn thành toàn bộ dự án năm 2025.
Dự án "vỡ" tiến độ, trách nhiệm thuộc về ai?
Ban QLDA công trình giao thông Hà Nội là chủ đầu tư trực tiếp thực hiện công tác GPMB của dự án đường nối cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ với Vành đai 3.
Tổng diện tích đất thu hồi 316.224 m2, tương ứng 2.233 phương án. Trong đó đất ở là 8.709,2 m2; đất nông nghiệp là 212.613,9 m2; đất công là 94.901 m2.
Được biết, chủ đầu tư đang phối hợp với quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì GPMB đối với các diện tích đất nông nghiệp, đất cơ quan tổ chức.
Đối với diện tích đất ở, sẽ triển khai sau khi UBND quận, huyện phê duyệt giá đất cụ thể làm căn cứ bồi thường theo quy định. Đến nay, đã có thông báo thu hồi đất 1.922 phương án đất nông nghiệp; Đã điều tra 1.898 phương án đất nông nghiệp; Đã công khai dự thảo 19 phương án đất công; Đã phê duyệt, trả tiền 374 phương án đất nông nghiệp.
Dù vậy, đại diện chủ đầu tư dự án cho rằng, phần mặt bằng hiện có đã được bàn giao chiếm tỷ lệ nhỏ, "xôi đỗ", không liên tục dẫn đến chưa thể triển khai thi công đồng bộ các hạng mục của dự án.
Ngoài ra, việc quản lý đất đai của các địa phương có nhiều bất cập dẫn đến khó khăn trong công tác quy chủ, thẩm định bản đồ để ban hành thông báo thu hồi đất; công tác xác định giá đất ở cụ thể chậm do đó chưa có cơ sở triển khai GPMB đối với các phương án đất ở.
Thêm vào đó, Luật Đất đai năm 2024, có hiệu lực từ 1/8/2024 quy định, hỗ trợ ổn định đời sống khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp các hộ gia đình, cá nhân có diện tích thu hồi dưới 30% diện tích đất đang sử dụng thì UBND cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ, định kỳ chi trả tiền hỗ trợ cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Đến nay, UBND TP chưa ban hành quy định mức hỗ trợ.
Đại diện Công ty CP Đầu tư và xây dựng Phương Thành- một trong liên danh các nhà thầu tham gia thi công dự án cho biết, hơn 1 năm qua kể từ ngày khởi công dự án đến nay, nhà thầu chưa được bàn giao một m2 đất nào. Việc thi công chỉ vỏn vẹn, cầm chừng trong 2 dải đất nhỏ, hẹp thuộc phạm vi cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ và Vành đai 3 rất khó khăn cho các nhà thầu thi công.
“Chúng tôi là đơn vị thi công, ký kết hợp đồng rồi thì chỉ mong có mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ, hoàn thiện dự án. Trong khi máy móc, nhân vật lực các nhà thầu luôn đầy đủ, đáp ứng mọi yêu cầu của chủ đầu tư thì suốt thời gian dài qua lại không có mặt bằng để thi công”, đại diện Công ty CP Đầu tư và xây dựng Phương Thành cho hay.
Như vậy, tiến độ dự án 3.200 tỷ đồng nối cao tốc Pháp Vân- Cầu Giẽ với đường Vành đai 3 đã hiển hiện nguy cơ bị "vỡ", trách nhiệm này sẽ thuộc về ai?
Chiều 24-9, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài chủ trì họp Ban Thường vụ Thành ủy, nghe báo cáo và cho ý kiến về các hoạt động tổ chức kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2024).
Tại hội nghị, Ban Cán sự đảng UBND TP Hà Nội đã đề xuất điều chỉnh các sự kiện trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, nhằm phù hợp với bối cảnh cả nước đang tập trung hỗ trợ đồng bào chịu thiệt hại do bão lũ gây ra.
Thay mặt Ban Thường vụ Thành ủy kết luận, Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài nhất trí cao việc điều chỉnh các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Đồng chí nhấn mạnh, đây là việc làm xuất phát từ tình nghĩa đồng bào, thể hiện trách nhiệm của Thủ đô và tinh thần “Hà Nội vì cả nước, cùng cả nước”.
Trên tinh thần đó, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội nhất trí chỉ đạo dừng bắn pháo hoa ở toàn bộ 30 quận, huyện, thị xã dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Các sự kiện văn hóa, nghệ thuật tiếp tục được tổ chức theo kế hoạch.
Ban Thường vụ Thành ủy giao Ban Cán sự đảng UBND thành phố chỉ đạo xem xét điều chỉnh tầm mức cụ thể đối với từng sự kiện bảo đảm ý nghĩa thiết thực, đặc biệt là trên tinh thần đổi mới, hướng mạnh về người dân, đề cao sự tham gia, hưởng ứng và thưởng thức của người dân.
Qua công tác nắm tình hình, xác minh, giải quyết nguồn tin về tội phạm, ngày 23/9, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở, nơi làm việc, phương tiện cá nhân đối với: Đồng Xuân Thụ (SN 1972, trú tại phường Láng Hạ, quận Đống Đa, TP Hà Nội), Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và đô thị Việt Nam (địa chỉ tại Văn phòng tòa nhà C1 Thành Công, quận Ba Đình, TP Hà Nội); Bùi Văn Toàn (SN 1980, trú tại phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội), Trưởng Ban kinh tế, môi trường; Cao Thị Thu Hường (SN 1989, trú tại xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội), Kế toán; Nguyễn Ngọc Tuyên (SN 1989, trú tại xã Vũ Chính, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình), phóng viên.
Bên cạnh đó, ngày 24/9, cơ quan điều tra đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Tất Triển (SN 1978, trú tại phường Trần Lãm, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình), phóng viên, để điều tra hành vi có dấu hiệu tội phạm cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự. Các lệnh trên đã được Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình phê chuẩn.
Hiện, Công an tỉnh Thái Bình đang chỉ đạo Cơ quan CSĐT Công an tỉnh khẩn trương thu thập tài liệu chứng cứ, củng cố hồ sơ, khởi tố, điều tra mở rộng, xử lý nghiêm các đối tượng theo quy định của pháp luật.
Trước đó, ngày 3/7/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 586/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh Đồng Nai thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo quy hoạch, đến năm 2030, Đồng Nai có 19 đô thị, bao gồm 1 đô thị loại I, 2 đô thị loại II, 1 đô thị loại III và 7 đô thị loại IV. Đến giai đoạn 2030-2050, Đồng Nai sẽ có 26 đô thị, gồm 3 đô thị loại I; 1 đô thị loại II, 1 đô thị loại III; 7 đô thị loại IV.
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định, vị thế và vai trò của tỉnh Đồng Nai ngày càng được khẳng định trong chiến lược phát triển chung của cả nước, là mắt xích quan trọng của Đông Nam bộ, cực tăng trưởng của vùng và cả nước. Đồng Nai có những điểm tựa vững chắc để phát triển vượt bậc và Quy hoạch tỉnh sẽ giúp Đồng Nai “kết nối, hội nhập và cất cánh”.
Ngoài ra, Đồng Nai còn có vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng; có nguồn nhân lực dồi dào, dân số trẻ, nhiều khát vọng. Đây cũng là đầu mối giao thông quan trọng, đủ 5 phương thức vận tải; nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam bộ với truyền thống văn hóa, lịch sử, cách mạng hào hùng; lợi thế thiên nhiên đa dạng, phù hợp phát triển xanh, bền vững, toàn diện.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận, biểu dương và chúc mừng những thành quả quan trọng mà Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Đồng Nai đã đạt được trong thời gian qua. Đây cũng là cơ sở để củng cố, tăng cường niềm tin của các doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Tuy nhiên, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng lưu ý, quy mô nền kinh tế của Đồng Nai vẫn chưa tương xứng tiềm năng, lợi thế và vị trí địa lý chiến lược. Chất lượng tăng trưởng, kết quả cải cách hành chính và năng lực cạnh tranh, việc phát triển các các KCN chuyên biệt, tỉ lệ lao động qua đào tạo cần nâng cao hơn nữa. Thủ tướng đánh giá Quy hoạch tỉnh Đồng Nai đã được chuẩn bị công phu, bài bản, khoa học; xác định quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu phát triển trọng tâm, đột phá; có giải pháp, chính sách ưu đãi và nguồn lực thực hiện quy hoạch trong thời gian tới.
Để hiện thực hóa Quy hoạch, Thủ tướng nêu rõ tỉnh Đồng Nai cần chú trọng tập trung thực hiện "1 trọng tâm, 2 tăng cường, 3 đột phá". Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực hợp pháp để thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống; tăng cường đầu tư, phát triển yếu tố con người, tăng cường kết nối vùng, khu vực, trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông, hệ thống sản xuất và chuỗi, kết nối thị trường. Phải đột phá phát triển hệ thống hạ tầng chiến lược đồng bộ; đột phá thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, ứng dụng các thành tựu cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Phát triển doanh nghiệp, tạo việc làm, sinh kế cho người dân ổn định và phát triển. Đồng thời cần đột phá trong đào tạo, thu hút nhân tài, nhân lực chất lượng cao, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Thủ tướng yêu cầu tỉnh Đồng Nai xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện Quy hoạch, đảm bảo tính tuân thủ và đồng bộ trong tổ chức thực hiện quy hoạch; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành. Luôn đổi mới tư duy, tầm nhìn phát triển, khai thác, phát huy truyền thống lịch sử - văn hóa; đẩy mạnh hợp tác công - tư, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân. Làm tốt công tác giải phóng mặt bằng và tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hạ tầng chiến lược, nhất là hạ tầng giao thông, đô thị, y tế, giáo dục, xã hội. Phát huy hiệu quả 3 vùng động lực kinh tế của tỉnh, bố trí nguồn lực thực hiện đồng bộ, hiệu quả không gian phát triển.
Phát triển công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi các khu công nghiệp theo hướng xanh, số, tuần hoàn. Tăng cường liên kết vùng, quốc gia và quốc tế, phát huy vai trò, vị trí của Đồng Nai là một trong những trung tâm giao thương quan trọng của vùng Đông Nam bộ. Khai thác Cảng hàng không quốc tế Long Thành, sân bay lưỡng dụng Biên Hòa làm động lực để phát triển dịch vụ trở thành ngành kinh tế quan trọng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường; tăng cường bảo vệ môi trường, thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học gắn với chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tỉnh phải phổ biến, quán triệt quy hoạch sâu rộng để mọi người hiểu, nắm rõ, từ đó ủng hộ quy hoạch, làm theo quy hoạch, giám sát việc thực hiện quy hoạch và thụ hưởng với tinh thần "dân biết - dân bàn - dân làm - dân thụ hưởng". Thủ tướng trân trọng cảm ơn và hoan nghênh các doanh nghiệp, nhà đầu tư đã chọn tỉnh Đồng Nai để đầu tư; tin tưởng và mong muốn các dự án sẽ triển khai thành công, mang lại hiệu quả thiết thực.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị các doanh nghiệp, nhà đầu tư phát huy sứ mệnh, xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài, bền vững, thực hiện đúng cam kết đầu tư, thoả thuận hợp tác đúng định hướng, ưu tiên theo quy hoạch tỉnh.
Kính thưa bà Angela Olinto, Hiệu trưởng Đại học Columbia,
Thưa bà Anne Neuberger, Phó Trợ lý Tổng thống, Phó Cố vấn An ninh quốc gia về mạng và công nghệ mới nổi, Thưa các Giáo sư, giảng viên, các vị khách quý và các bạn sinh viên thân mến,
Trước hết, tôi xin cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Columbia đã mời tôi phát biểu tại Diễn đàn Lãnh đạo Thế giới nhân dịp tôi và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự Thượng đỉnh Tương lai và Khóa 79 Đại hội đồng Liên hợp quốc tại New York, kết hợp làm việc tại Hoa Kỳ.
Hẳn các bạn rất tự hào về Đại học Columbia, ngôi trường với bề dày lịch sử 270 năm và một trong những cái nôi giáo dục hàng đầu của Hoa Kỳ đã đào tạo nên những người đã góp phần làm thay đổi tương lai.
Trong số đó, có tới 4 Tổng thống Hoa Kỳ, 2 Tổng thư ký Liên hợp quốc, 103 người đoạt giải Nobel và nhiều nhà khoa học lỗi lạc. Tôi được biết nhiều cựu sinh viên Đại học Columbia hiện giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý cấp cao tại Việt Nam.
Tôi đánh giá cao đóng góp của Đại học Columbia vào việc thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Đây là thời điểm không thể phù hợp hơn để chia sẻ với các bạn về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới.
Với Việt Nam, đây là giai đoạn khởi điểm hết sức quan trọng để thực hiện mục tiêu trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ. Với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, chúng ta đang hướng tới mốc kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ và 50 năm kết thúc chiến tranh ở Việt Nam vào năm sau.
Trong khi đó, thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, được định hình bởi những thay đổi lớn lao, vừa mang tính chu kỳ, cấu trúc, vừa có những đột phá chưa từng có dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số.
Thưa quý vị và các bạn,
I. Về con đường của Việt Nam: Tiếp tục đổi mới, hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc Đổi mới là tiền đề để Dân tộc Việt Nam tin tưởng vào tương lai ở phía trước.
Những thành tựu to lớn mà chúng tôi đạt được bắt nguồn từ con đường đúng đắn mà Việt Nam đã lựa chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với nỗ lực và quyết tâm của toàn Dân tộc. Vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách, từ một đất nước từ thân phận nô lệ, bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam đã giành lại độc lập và ngày nay đã khẳng định vị trí của một nền kinh tế phát triển năng động.
Quy mô của nền kinh tế và thương mại lần lượt ở Top 40 và 20 trên thế giới.
Nền kinh tế năm 2023 đã tăng 96 lần so với năm 1986 và là một điểm sáng được Liên hợp quốc ghi nhận trong thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Từ chỗ bị bao vây cô lập, Việt Nam ngày nay đã có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của ASEAN và hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có quan hệ với 224 thị trường tại các châu lục.
Với tinh thần độc lập và tâm thế tự lực, tự cường, tự tin và tự hào dân tộc, toàn thể 100 triệu người Việt Nam và hơn 6 triệu đồng bào ở nước ngoài quyết tâm hiện thực hóa mục tiêu Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi là là xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “sánh vai các cường quốc năm châu.”
Trong kỷ nguyên mới, ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là thực hiện thành công hai mục tiêu 100 năm mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra, để xây dựng một Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Con đường phát triển của Việt Nam không thể tách rời xu thế chung của thế giới và nền văn minh nhân loại. Truyền thống của người Việt Nam là “giàu vì bạn.”
Chúng tôi không thể thực hiện các mục tiêu cao cả nói trên nếu thiếu sự đoàn kết quốc tế trong sáng, sự ủng hộ quý báu và hợp tác hiệu quả của cộng đồng quốc tế. Thành công của chúng tôi là thành công của các bạn.
Chúng tôi sẽ tiếp tục đẩy mạnh công cuộc Đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam sẽ tiếp tục là điểm đến ổn định, tin cậy và hấp dẫn với các nhà đầu tư, doanh nghiệp và du khách nước ngoài.
Con đường để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình là đổi mới sáng tạo, huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi nhanh chóng. Nhưng với Việt Nam, có một điều không thay đổi: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng tôi tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Chúng tôi cho rằng không thể có phát triển nếu không có hòa bình. Vì vậy, kế thừa truyền thống hòa bình, hòa hiếu, “lấy chí nhân thay cường bạo” của dân tộc, Việt Nam sẽ kiên trì chính sách quốc phòng “4 không”, ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, phản đối các hành động đơn phương, chính trị cường quyền, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Thời gian qua, Việt Nam đã khẳng định trách nhiệm của mình đối với các công việc chung của cộng đồng quốc tế bằng những đóng góp tích cực, chủ động. Việt Nam được Liên hợp quốc coi là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs).
Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức song Việt Nam cam kết thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (net-zero) vào năm 2050.
Trong 10 năm qua, sự có mặt của các binh sỹ gìn giữ hòa bình của Việt Nam tại các Phái bộ của Liên hợp quốc đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp ở một số nước châu Phi, không chỉ góp phần gìn giữ hòa bình, an ninh quốc tế mà còn hỗ trợ người dân sở tại trong đời sống hàng ngày.
Nhân đây, tôi cảm ơn và đánh giá cao các đối tác Hoa Kỳ đã dành cho Việt Nam sự hợp tác, hỗ trợ hiệu quả trong việc thực hiện các cam kết quốc tế quan trọng của mình.
Với thế và lực mới của đất nước, Việt Nam quyết tâm thực hiện hiệu quả ngoại giao thời đại mới, sẵn sàng đóng góp trách nhiệm một cách chủ động, tích cực hơn vào nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và văn minh nhân loại.
Đặc biệt, chúng tôi sẽ cùng các bạn bè, đối tác chung tay giải quyết các thách thức toàn cầu cấp bách như biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an ninh y tế, an ninh nguồn nước… và thúc đẩy xây dựng một trật tự quốc tế công bằng, bình đẳng, dựa trên các các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
II. Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ: Từ cựu thù đến đối tác chiến lược toàn diện
Các Giáo sư và các bạn sinh viên thân mến,
Trong một thế giới đầy bất ổn với nhiều xung đột cục bộ, chúng ta lại càng thấy rõ ý nghĩa của thiện chí hợp tác - nền tảng để đưa Việt Nam và Hoa Kỳ từ cựu thù thành Đối tác chiến lược toàn diện như ngày hôm nay.
Gần 80 năm trước, trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích những lời bất hủ từ Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Hoa Kỳ về sự bình đẳng và các quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc.
Ngay từ những ngày đầu lập quốc, chỉ trong 2 năm từ 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết 8 bức thư và điện cho Tổng thống Harry Truman khẳng định Việt Nam mong muốn “hợp tác đầy đủ” với Hoa Kỳ.
Do những khúc quanh của lịch sử, phải mất 50 năm sau đó Việt Nam và Hoa Kỳ mới bình thường hóa quan hệ. Nhưng ít ai có thể hình dung được những bước tiến kỳ diệu của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ trong gần 30 năm qua.
Từ cựu thù, hai nước đã trở thành đối tác, Đối tác toàn diện và nay là Đối tác chiến lược toàn diện.
Từ khi bình thường hóa quan hệ, nhiều Lãnh đạo Việt Nam đã thăm Hoa Kỳ, đặc biệt là chuyến thăm lịch sử của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 7/2015; đồng thời, tất cả các Tổng thống Hoa Kỳ từ sau khi bình thường hóa quan hệ đều đã thăm Việt Nam, gần đây nhất là chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden tháng 9/2023.
Hợp tác trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị-ngoại giao đến kinh tế-thương mại, quốc phòng-an ninh, khắc phục hậu quả chiến tranh, giáo dục-đào tạo, giao lưu nhân dân, trong xử lý các vấn đề khu vực và toàn cầu như biến đổi khí hậu, chống khủng bố, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc… đều đạt những bước tiến quan trọng và thực chất.
Đặc biệt, giao lưu nhân dân và hợp tác giáo dục đào tạo ngày càng sôi động. Hiện có khoảng 30.000 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ, trong đó có các bạn sinh viên tại Đại học Columbia có mặt tại đây hôm nay.
Để quan hệ hai nước bước sang trang mới và phát triển tốt đẹp như ngày hôm nay, yếu tố quan trọng nhất là truyền thống nhân ái, vị tha của dân tộc Việt Nam, là sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam với tầm nhìn trí tuệ, quyết tâm và bản lĩnh để đưa đất nước Việt Nam hội nhập vào dòng chảy quốc tế.
Bên cạnh đó phải kể đến nhiều bạn bè, đối tác Hoa Kỳ như Tổng thống Bill Clinton và các Tổng thống kế nhiệm, các Thượng nghị sỹ John McCain, John Kerry, Patrick Leahy… cùng nhiều người khác.
Đặc biệt, tôi đánh giá cao sự ủng hộ lưỡng đảng mạnh mẽ ở Hoa Kỳ đối với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Đây là một trong những nền tảng quan trọng để đưa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước chúng ta ngày càng đi vào chiều sâu ổn định, bền vững, thực chất hơn thời gian tới.
III. Tầm nhìn cho kỷ nguyên mới: vì nền văn minh vững bền, tiến bộ cho toàn nhân loại
Các Giáo sư và các bạn sinh viên thân mến,
Việc nâng cấp quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững có nghĩa rằng mối quan hệ đó không chỉ phục vụ thiết thực lợi ích của nhân dân hai nước chúng ta mà còn đóng góp tích cực vào hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
Từ con đường đi tới của dân tộc Việt Nam và câu chuyện thành công của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, tôi xin chia sẻ đôi điều về tầm nhìn để xây dựng một tương lai chung tốt đẹp hơn cho toàn nhân loại:
Một là, khẳng định và đề cao vai trò của tinh thần hàn gắn, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau: Quan hệ hai nước có được ngày hôm nay là bởi Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ngừng thúc đẩy quá trình hàn gắn, hiểu biết lẫn nhau và tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau. Trong đó, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau là quan trọng nhất. Với truyền thống nhân văn, hòa hiếu, khoan dung của dân tộc Việt Nam, chúng tôi đã rất chủ động trong các bước đi hàn gắn vết thương chiến tranh.
Ngay cả khi hai nước chưa bình thường hóa quan hệ, Việt Nam vẫn đơn phương tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh (MIA) suốt 15 năm trước khi Hoa Kỳ bắt đầu phối hợp với Việt Nam.
Hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh đã trở thành nền tảng để hai bên hàn gắn, tiến tới bình thường hóa, xây dựng lòng tin và làm sâu sắc quan hệ. Đây sẽ vẫn là những lĩnh vực hợp tác hết sức quan trọng giữa hai nước trong nhiều năm tới, bởi hậu quả chiến tranh vẫn còn rất nặng nề, đặc biệt là đối với Việt Nam.
Từ bài học trên, tôi cho rằng để một mối quan hệ phát triển, các bên cần đẩy mạnh nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, con người, hệ thống chính trị, kinh tế-xã hội của nhau.
Do đó, tôi đánh giá cao Chương trình Việt Nam học của Đại học Columbia và việc ký thỏa thuận hợp tác giữa trường và Đại học Vin. Nhìn rộng ra, tôi cho rằng nếu các quốc gia hiểu, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, cùng nhau xây dựng lòng tin thì thế giới sẽ thêm hòa bình, bớt xung đột.
Trong thời đại khoa học công nghệ, chúng ta có thể tranh thủ những phương thức mới như nền tảng và công cụ số để thúc đẩy sự kết nối rộng rãi và hiểu biết sâu sắc hơn giữa các dân tộc.
Hai là, coi trọng và thúc đẩy văn hóa đối thoại: Nhìn nhận một cách thẳng thắn, dẫu chúng ta đã đạt được những bước tiến lớn trong quan hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn một số khác biệt quan điểm nhất định về vấn đề quyền con người trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo… Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã chọn đối thoại thay cho đối đầu. Không những vậy chúng ta còn đối thoại trên tinh thần cởi mở, thẳng thắn và xây dựng.
Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng nếu các quốc gia đang có xung đột, tranh chấp thúc đẩy tìm giải pháp hòa bình thông qua đối thoại trên cơ sở luật pháp quốc tế thì mọi vấn đề dù phức tạp đến mấy cũng sẽ có hướng giải quyết. Đối thoại cần trở thành cách hành xử phổ biến, là công cụ hữu ích và quan trọng hàng đầu cho nền văn minh của chúng ta.
Ba là, phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất đối với cộng đồng quốc tế: Vượt lên trên khuôn khổ song phương, hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ đã dần mang tầm khu vực và toàn cầu, nhất là trong ứng phó biến đổi khí hậu, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, chống khủng bố, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc…, qua đó đóng góp ngày càng tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới.
Trong bối cảnh nhiều biến động hiện nay, tôi cho rằng trước hết các nước cần có trách nhiệm trong quan hệ với nhau cũng như với hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Cạnh tranh địa-chiến lược là thực tế, nhưng xung đột không phải là tất yếu. Cũng như các thành viên ASEAN và các nước khác ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam mong các nước cùng nêu cao trách nhiệm đối với tương lai và nền văn minh nhân loại, đóng góp nhiều hơn vào duy trì hòa bình, ổn định, thịnh vượng, hợp tác, thượng tôn pháp luật và chủ nghĩa đa phương.
Bốn là, luôn đặt Nhân dân ở vị trí trung tâm: quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ có được thành tựu hôm nay là bởi hai bên đều hành động theo lợi ích của người dân, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân.
Trong xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam tiếp tục nêu cao lý tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo lập quốc của Hoa Kỳ cùng chia sẻ là xây dựng Nhà nước “của dân, do dân, vì dân.”
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Việt Nam đạt được sau gần 100 năm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có gần 40 năm Đổi mới cũng bởi Đảng luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm kim chỉ nam và mục tiêu phấn đấu, luôn trung thành vô hạn với lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân.
Nhân dân làm nên lịch sử. Đó là tư tưởng văn minh, là giá trị phổ quát chung của cộng đồng quốc tế. Chúng ta thấy ASEAN và Liên hợp quốc đều có tôn chỉ lấy người dân làm trung tâm.
Năm là, đoàn kết và hướng về tương lai: Trong bối cảnh thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, nhân loại cần có tầm nhìn xa và sự đoàn kết hơn bao giờ hết. Không một quốc gia đơn lẻ nào, dù mạnh đến đâu, có thể một mình xử lý những vấn đề chung của thời đại. Đó là cách tiếp cận và định hướng mà Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai của Liên hợp quốc đã nêu rõ.
Phương châm của Việt Nam là gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng tôi không quên quá khứ, nhưng không để quá khứ trở thành gánh nặng cản trở sự phát triển của hiện tại và tương lai.
Điều này vừa kết tinh từ truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam, vừa phản ánh lối ứng xử đã trở thành bản sắc trong đường lối đối ngoại của chúng tôi. Tôi tin tưởng rằng với cách tiếp cận đề cao đoàn kết quốc tế, hướng về tương lai, cũng như câu chuyện thành công của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, thế giới sẽ biến những điều không thể thành có thể, tiếp tục dựng xây một nền văn minh vững bền, tiến bộ cho toàn nhân loại.
Các Giáo sư và các bạn sinh viên thân mến,
Sau gần 30 năm bình thường hóa, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã có những bước tiến mạnh mẽ vượt ngoài khả năng tưởng tượng của cả những người lạc quan nhất.
Trong 30 năm tới, với tinh thần “Gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai” mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, tôi tin tưởng sâu sắc rằng quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững sẽ còn vươn tới những tầm cao mới.
Tuyên bố chung Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2023 đã xác định rõ 10 trụ cột hợp tác toàn diện và quan trọng. Nhiệm vụ của chúng ta là quyết tâm hiện thực hóa các lĩnh vực hợp tác đó, nhất là các lĩnh vực đóng vai trò nền tảng cốt lõi như hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư, tăng trưởng kinh tế bao trùm dựa trên đổi mới sáng tạo và đột phá mới của quan hệ như hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực số.
Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều biến động phức tạp, khó lường, cơ hội và thách thức tiếp tục đan xen. Điều đáng mừng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là nguyện vọng chung của các dân tộc. Nội hàm quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững là phù hợp với xu thế đó.
Các Giáo sư và các bạn sinh viên thân mến,
Nhìn lại chặng đường mà Dân tộc Việt Nam đã đi qua, hơn bao giờ hết, chúng tôi vững tâm, vững tin và vững bước tiến về phía trước. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chúng tôi sẽ làm hết sức mình để hiện thực hóa khát vọng đó của dân tộc.
Trong hành trình hướng tới tương lai, Việt Nam sẽ tiếp tục kề vai sát cánh với bạn bè, đối tác quốc tế, cùng nhau chia sẻ tầm nhìn, phối hợp hành động, vì những mục tiêu tốt đẹp nhất cho toàn nhân loại.
Nhìn vào gương mặt các bạn trẻ ở đây hôm nay, tôi thấy rất lạc quan và hy vọng. Chắc các bạn đã biết, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, một cựu sinh viên của Đại học Columbia, đã từng nói: “Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể xây dựng được tương lai cho thế hệ trẻ, nhưng chúng ta luôn có thể xây dựng thế hệ trẻ cho tương lai”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, cũng luôn nhấn mạnh tầm nhìn “vì lợi ích trăm năm trồng người.”
Tôi mong bạn bè, đối tác, các giới ở Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ việc thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ, viết tiếp câu chuyện thành công, truyền cảm hứng cho thế hệ tương lai. Thành công của chúng ta sẽ không chỉ phục vụ tốt nhất cho lợi ích của người dân hai nước, mà còn đóng góp ngày càng thiết thực và hiệu quả cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và sự phát triển phồn vinh của các dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Xin trân trọng cảm ơn.
Chiều 24/9, tiếp tục chương trình làm việc Phiên họp thứ 37, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Việc làm (sửa đổi). Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì phiên họp. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành nội dung.
Mở rộng đối tượng vay vốn đi làm việc ở nước ngoài
Trình bày dự án luật, Bộ trưởng Lao động, Thương binh và xã hội (LĐ,TB&XH) Đào Ngọc Dung cho biết, dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) gồm 9 chương và 130 điều, tăng 2 chương, 68 điều so với luật hiện hành. Dự thảo luật dự kiến được trình Quốc hội lần đầu tại Kỳ họp thứ 8 và trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9; trong đó tạo điều kiện thuận lợi để tất cả người lao động, trong đó có nhóm lao động không có quan hệ lao động, được tham gia và thụ hưởng các chính sách, chế độ.
Theo Bộ trưởng LĐ,TB&XH, so với Luật Việc làm năm 2013, dự thảo luật sửa đổi có một số nội dung điều chỉnh, bổ sung lớn. Cụ thể, luật sửa đổi quy định về nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm, nhằm góp phần tăng cường nguồn vốn và nâng cao hiệu quả cho vay giải quyết việc làm, theo hướng Ngân sách Trung ương cấp cho Ngân hàng chính sách xã hội từ nguồn chi đầu tư phát triển (giải thể Quỹ quốc gia về việc làm để đảm bảo phù hợp quy định Luật Ngân sách Nhà nước 2015). Dự thảo luật cũng mở rộng đối tượng vay vốn đi làm việc ở nước ngoài nhằm tạo cơ hội cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có cơ hội tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi. Đáng chú ý, theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, dự thảo luật lần này mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp , gồm: người lao động có giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên (quy định hiện hành là từ 3 tháng trở lên); người làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thấp nhất, thống nhất với Luật Bảo hiểm xã hội 2024.
Dự thảo luật sửa đổi cũng quy định linh hoạt mức đóng bảo hiểm thất nghiệp theo hướng: người lao động đóng tối đa bằng 1% tiền lương tháng; người sử dụng lao động đóng tối đa bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp; Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và do ngân sách Trung ương bảo đảm. Luật cũng sửa đổi chế độ hỗ trợ tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động theo hướng: Mở rộng phạm vi hỗ trợ, không chỉ hỗ trợ người lao động tham gia khóa đào tạo nghề mà cả các khóa bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề; bổ sung nội dung hỗ trợ (tiền ăn) cho người lao động trong thời gian tham gia đào tạo mà không hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Thẩm tra các nội dung, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh cho rằng, quy định chuyển nguồn vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thành nguồn vốn vay giải quyết việc làm có tác động trực tiếp đến việc quản lý, bố trí nguồn lực, cơ chế phân bổ, sử dụng nguồn vốn này và thay đổi so với khi đề xuất xây dựng luật.
Vì thế, cơ quan thẩm tra đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục đánh giá tác động, ưu nhược điểm, những vấn đề phát sinh, làm rõ tính hiệu quả khi thực hiện chuyển đổi này.
Liên quan quy định về bảo hiểm thất nghiệp, Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung đánh giá tác động, đồng thời có giải pháp để bảo đảm tính khả thi khi mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Xác định đột phá liên quan thị trường lao động là đột phá phát triển nguồn nhân lực
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh tầm quan trọng của Luật Việc làm, đồng thời dẫn nghị quyết Đại hội Đảng XIII xác định đột phá liên quan thị trường lao động là đột phá phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ tịch Quốc hội cho rằng, hướng xây dựng dự thảo luật gọn và rõ hơn, theo nguyên tắc những nội dung thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết thì đưa vào, còn những gì thuộc về thông tư, nghị định thì tách ra để Chính phủ và bộ, ngành quy định.
Giải trình nội dung này, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, cơ quan soạn thảo sẽ rà soát và tiếp thu theo tinh thần "gọn nhất có thể", dự kiến có thể khuôn khổ trong khoảng 100 điều, đồng thời phân tích, vấn đề việc làm hiện nay rất khác khi một người có thể ký hợp đồng, có quan hệ lao động với nhiều tổ chức, nhiều đối tượng khác nhau. Bộ trưởng cũng nhận định, tính chất việc làm hiện nay có sự thay đổi lớn. Trước đây, một người có thể làm bền vững, suốt đời ở một cơ quan, còn bây giờ vừa ký hợp đồng lao động với một đơn vị nhưng tháng sau đã có thể nhảy sang nơi việc khác, chỉ vì lý do đơn giản.
Về vấn đề bảo hiểm thất nghiệp, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh, bảo hiểm thất nghiệp là quỹ ngắn hạn mà các nước thường chỉ sử dụng khoản 10% kết dư, còn lại 90% để hỗ trợ cho người lao động một cách nhanh chóng, kịp thời. Thực tế qua tổng kết, các chính sách hỗ trợ của bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động ở Việt Nam còn ít, gần như chỉ chi cho mỗi việc trợ cấp thất nghiệp, còn để duy trì việc đào tạo, bồi dưỡng, chuyển đổi tay nghề thì gần như chưa có; đồng thời cho biết thêm, Bộ LĐ, TB & XH đã bàn, có thể thiết kế chính sách nhiều hơn, kinh phí nhiều hơn và quản lý linh hoạt hơn thay vì quy định chỉ Trung ương được làm như hiện nay.
Lối sống thực dụng bắt
đầu hình thành từ trong tư tưởng, nhận thức, đến một giai đoạn nhất định, nó sẽ
được thể hiện thông qua hành động của chủ thể. Từ chỗ cán bộ, đảng viên sẵn
sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Đảng, của dân tộc, khi bị tác động
bởi lối sống thực dụng nếu không có sự trui rèn đạo đức, lối sống, con người
bắt đầu xuất hiện những tư tưởng đắn đo giữa lợi ích chung và lợi ích riêng,
giữa cống hiến và hưởng thụ, từng bước tạo ra sự chuyển hóa từ bên trong, khiến
cho người mang lối sống này không còn là chính họ của ngày hôm qua.
Chúng ta rất quen thuộc
với câu nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đây là lời nói dân gian
nhưng trong đó chứa đựng tình cảm, sự tin tưởng của nhân dân đối với cán bộ,
đảng viên và thể hiện trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân. Muốn
hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình và góp phần vào sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của Đảng, cán bộ, đảng viên phải thật sự gương mẫu về mọi mặt,
nhất là về đạo đức, lối sống.
Cán bộ, đảng viên thấm
nhuần đạo đức cách mạng thì lối sống thực dụng sẽ không có cơ hội phát sinh,
phát triển. Bởi vì, đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng, là thước đo phẩm
chất của người cách mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(1). Đạo đức cách mạng là bài thuốc hữu
hiệu, đặc trị “vi trùng độc hại”-lối sống thực dụng. Để diệt tận gốc “vi trùng
độc hại” này, phương thức tối ưu nhất đó là cán bộ, đảng viên phải thường xuyên
tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, tích cực đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cán bộ, đảng viên phải nhận
thức sâu sắc rằng: Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát
tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở
thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp.
Điều quan trọng nhất là
cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp nói phải đi đôi với làm, nêu
gương về đạo đức. Đây là hành động cơ bản thể hiện phẩm chất đạo đức cách mạng
của cán bộ, đảng viên. Thực tế trong Đảng ta hiện nay, có không ít cán bộ, đảng
viên nói không đi đôi với làm, nói và làm có những khoảng cách, thậm chí trái
ngược nhau. Không ít quan chức tự cho mình cái quyền được nói “làm những điều
tôi nói, không được nói điều tôi làm”, thậm chí có người rất hay "lên
mặt" rao giảng, dạy dỗ người khác bằng những từ đại ngôn, hoa mỹ, nhưng
hành động, việc làm lại trái những nguyên tắc của Đảng, thậm chí còn làm ô danh
Đảng. Người cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, chỉ huy muốn thu
phục quần chúng, muốn quần chúng tin theo phải thực sự mẫu mực về phương pháp,
tác phong làm việc, lời nói gắn liền với việc làm, hành động cụ thể, mang lại
ích nước, lợi dân.
Mục tiêu, lý tưởng cách
mạng của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để hiện thực hóa mục
tiêu, lý tưởng cao đẹp ấy, các thế hệ cha ông ta đã không tiếc xương máu hy
sinh để giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, tạo cơ sở, tiền đề xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Chúng ta được sống trong hòa bình, có cơ hội phát triển toàn
diện, những thành tựu to lớn của đất nước hôm nay đã được viết bằng máu và nước
mắt của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước, của lớp lớp cán bộ, đảng viên
kiên trung với lối sống cao đẹp, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Vì vậy, rèn luyện và nâng cao đạo đức cách mạng, tận trung với nước, tận
hiếu với dân, làm mọi việc để góp phần cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc là lương tâm, bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của thế hệ cán bộ, đảng viên
hôm nay.
Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên giáo, Đảng ta luôn khẳng định công tác
tuyên giáo có vai trò đặc biệt, là một lĩnh vực trọng yếu trong công tác lãnh
đạo, tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân và tổ chức nhân dân thực hiện
nhiệm vụ cách mạng ở mọi thời kỳ, mọi chặng đường phát triển. Công tác tuyên
giáo đã có nhiều tiến bộ, từng bước vươn lên hoàn thành nhiệm vụ, góp phần tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, khơi dậy phong
trào cách mạng của nhân dân, tạo ra những nhân tố cơ bản để cả nước phấn đấu
đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng; thực sự giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân có nhận thức sâu sắc hơn về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó kiên định và nỗ lực phấn đấu
thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới,
trong nước sẽ tiếp tục có những diễn biến mới, phức tạp, nhanh chóng, khó lường.
Tình hình kinh tế - xã hội nước ta bên cạnh thành tựu lớn cũng xuất hiện những
khó khăn và thách thức mới. Bốn nguy cơ mà Đảng ta nêu ra từ Hội nghị Trung
ương giữa nhiệm kỳ khoá VII vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Bên cạnh
đó, bốn vấn đề bức xúc trong xã hội hiện nay là an toàn an ninh mạng, an toàn
môi trường, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm đang hằng ngày, hằng
giờ tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng, chất lượng cuộc sống và sức khoẻ, tính
mạng của nhân dân. Các tệ nạn xã hội còn nảy sinh phức tạp, sự phân hóa giàu
nghèo ngày càng lớn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… Lợi dụng những khó khăn này, các thế
lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, hòng gây
bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” mưu đồ làm thay
đổi chế độ chính trị nước ta, đã tác động đến tư tưởng trong Đảng và trong xã
hội.
Trước tình hình đó, công tác tuyên truyền giáo
dục càng phải được đẩy mạnh để làm cho toàn Đảng, toàn Dân nắm vững, nhất trí
với các mục tiêu, quan điểm, định hướng, nhiệm vụ lớn về xây dựng và phát triển
đất nước; kiên trì đấu tranh bảo vệ tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường,
khả năng sáng tạo, tạo ra phong trào hành động cách mạng của toàn dân thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Chính vì vậy,
việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo có bản lĩnh chính trị, tư
tưởng vững vàng; có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh; tinh
thông, nhanh nhạy và sáng tạo, có phương pháp làm việc khoa học… xứng đáng là
“người chiến sĩ xung kích trên mặt trận tuyên giáo của Đảng” có vai trò vô cùng
quan trọng trong tình hình hiện nay.
Thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp của Đảng ta hiện nay cần phấn đấu, rèn
luyện về phẩm chất, năng lực trên các tiêu chí cụ thể như:
Thứ nhất, cán bộ
tuyên giáo phải có bản lĩnh chính trị, tư tưởng chính trị vững vàng, đạo đức
lối sống trong sáng, lành mạnh, phải có “tâm” và “tầm”. Đây là tiêu chí
quan trọng hàng đầu của người cán bộ tuyên giáo. Là cầu nối giữa Nhân dân với
Đảng, là người gieo niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Thứ hai, cán bộ tuyên
giáo phải là người biết nêu gương, chủ động, nhạy bén, sáng tạo, kịp thời tham
mưu làm tốt công tác tư tưởng tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong
Nhân dân.
Thứ ba, cán bộ tuyên
giáo phải là người say mê, tâm huyết và luôn trao dồi kiến thức, kỹ năng nói,
viết để nâng cao năng lực công tác. Theo đó, cần thực hiện đúng chỉ dẫn của Người
là: Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân
làm. Cán bộ tuyên truyền cần xác định rõ ràng nội dung, đối tượng, mục đích và
phương pháp: “Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì?
Tuyên truyền cách thế nào?”.
Thứ tư, cán bộ tuyên
giáo phải luôn hướng về cơ sở, bám sát thực tiễn và gắn bó mật thiết với nhân
dân. Đội
ngũ cán bộ tuyên giáo muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ thì phương pháp lãnh đạo,
phong cách quản lý, cách tổ chức, cách đặt kế hoạch phải phù hợp với quần
chúng; phải luôn hướng về cơ sở, sâu sát cơ sở, luôn gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân.
Thứ năm, phải có
phong cách làm việc dân chủ, khoa học, hiệu quả. Phương pháp, tác phong làm việc
của người cán bộ giữ vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Người cán bộ có tri thức, nhiệt tình, nhưng nếu thiếu phương pháp, tác phong
làm việc tốt cũng khó có thể hoàn thành nhiệm vụ với chất lượng cao.
Tư tưởng và chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng
đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo của Đảng cho đến nay vẫn còn nguyên giá
trị. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đảng ta đã chỉ rõ: “Các hoạt động
văn hóa, nghệ thuật, trưng bày triển lãm, tuyên truyền cổ động được tổ chức sôi
nổi, rộng khắp từ Trung ương đến cơ sở, phục vụ hiệu quả các nhiệm vụ chính trị
và các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao và du lịch trọng đại của đất nước,
nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân”. “Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ
động định hướng thông tin tuyên truyền của Đảng và đấu tranh, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch”.
Trong bối cảnh hiện nay, để chủ trương, đường
lối của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống, đạt được thành quả, đáp ứng được
nguyện vọng của Nhân dân tất yếu cần quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo vững mạnh, nhất là về năng lực, trình độ, phẩm chất, bản lĩnh chính trị
ngang tầm nhiệm vụ là nội dung vô cùng quan trọng, vừa cấp bách, vừa cơ bản,
thường xuyên, lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thực
hiện công việc người cán bộ, phải tích cực, tự giác thực hiện nhiệm vụ được
giao, ý thức đúng đắn về trách nhiệm của mình trên mọi cương vị, vị trí công
tác, “có gan phụ trách”, dám nghĩ dám làm, chủ động sáng tạo và đặc biệt phải
có khát vọng vươn lên để có kết quả cao nhất. Nói đến khát vọng là nói đến yếu
tố tinh thần, là sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn sức lực, trí tuệ để đạt
cho được mục tiêu; là nguồn động lực có sức mạnh vô biên để thực hiện những
nhiệm vụ nặng nề nhằm đạt được ước mơ, không khuất phục trước mọi thử thách… là
động lực để cho mọi tầng lớp nhân dân đem hết sức mình thực hiện khát vọng, mà
cụ thể ở thời điểm này khát vọng của dân tộc Việt Nam là đưa đất nước đi tới
phồn vinh, hùng cường, thịnh vượng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con
người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ
chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công
nghệ, nhất là những thành tựu của của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững
đất nước”.
Để góp phần nâng cao tinh thần trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện khát vọng xây dựng đất nước
phồn vinh, hùng cường, phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh
đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế, quy định cụ thể, rõ ràng và ràng buộc
trách nhiệm của cá nhân trong hệ thống chính trị, hệ thống công quyền.
Hai là, mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng
đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị cần thực sự tiên phong, gương mẫu về tinh thần
trách nhiệm trước công việc và nhân dân theo phương châm “nói đi đôi với làm”,
nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động; cán bộ cấp trên nêu gương cho cán bộ
cấp dưới; đảng viên nêu gương cho quần chúng noi theo.
Ba là, từng cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính chủ động,
sáng tạo trước công việc được giao. Khi thực hiện nhiệm vụ, công việc cần có
chương trình, kế hoạch, tránh để chậm trễ gây tồn đọng, ách tắc, cấp trên hoặc
lãnh đạo phải nhắc nhở hoặc nhân dân phải phàn nàn, chê trách, góp ý phê bình
về ý thức và tinh thần trách nhiệm. Trong thực hiện nhiệm vụ cần thực hiện
nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đúng
quy trình, thủ tục, đồng thời linh hoạt, sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ, dám làm
để hoàn thành công việc với hiệu quả cao nhất.
Bốn là, nâng cao tinh thần trách nhiệm của
cán bộ, viên chức phải gắn với trao đổi, tự phê bình và phê bình, đóng góp ý
kiến xây dựng cho cán bộ, đảng viên. Kịp thời khen thưởng, biểu dương những
việc làm tốt và uốn nắn những hạn chế, khuyết điểm, có biện pháp phù hợp để cán
bộ, đảng viên nhận thức được sai sót, hạn chế của mình, từ đó phấn đấu sửa
chữa. Nghiêm túc đấu tranh chống bệnh tranh công, đổ lỗi cho khách quan hoặc đổ
trách nhiệm cho người khác; những biểu hiện né tránh, bao biện hoặc kiểm điểm,
phê bình một cách hình thức, chiếu lệ, qua loa.
Hơn 70 năm đã qua đi, nhưng những lời
chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Tinh thần trách nhiệm vẫn
còn nguyên giá trị để Đảng và Nhà nước Việt Nam “Khơi dậy tinh thần và ý chí,
quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường
tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” nhằm đưa đất
nước cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công
tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc.