Thứ Hai, 18 tháng 11, 2024

Vị trí, vai trò của dân chủ trong hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới

 TCCS - Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được bắt đầu từ đổi mới tư duy; trong đó, hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ngày càng được nhận thức sáng tỏ hơn. Các thành tố trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nền tảng và sự bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, bền vững. Trong đó, dân chủ luôn được Đảng ta xác định có vị trí, vai trò hết sức quan trọng: vừa là mục tiêu, vừa là động lực; tiền đề, điều kiện để hiện thực hóa các mục tiêu còn lại trong hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm hỏi nhân dân xã Long Hưng, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, ngày 17-10-2024_Ảnh: TTXVN

Vị trí, vai trò của dân chủ trong quan hệ với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”

Thứ nhất, dân chủ là mục tiêu và động lực để hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”

Ở Việt Nam, trong tất cả các chặng đường của gần 40 năm đổi mới, “dân giàu” luôn được Đảng ta xác định là thành tố đứng ở vị trí hàng đầu trong hệ mục tiêu phát triển đất nước. Nó cũng là khởi đầu cho tư duy mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội (CNXH) Việt Nam - một chế độ xã hội dựa trên sự giàu có, phồn vinh. “Dân giàu”, theo quan niệm của Đảng trong thời kỳ đổi mới, không chỉ giàu có về của cải vật chất mà còn giàu cả về trí tuệ, văn hóa, tinh thần, đạo đức; cũng không chỉ đơn thuần là gia tăng thu nhập và tài sản của cá nhân, mà còn bao hàm việc cải thiện chất lượng cuộc sống và công bằng xã hội. Gắn liền với “dân giàu” là “nước mạnh”. Dân có giàu thì nước mới mạnh và nước mạnh sẽ tạo điều kiện cho dân giàu có một cách chính đáng. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Đối với CNXH Việt Nam, “nước mạnh” dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao, chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ, ổn định, quốc phòng, an ninh vững mạnh, xã hội đoàn kết, đồng thuận, tăng cường đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường “trong ấm ngoài êm”, tạo thuận lợi cho đất nước phát triển nhanh, bền vững. Nước mạnh còn thể hiện ở ý chí độc lập, tự lực, tự cường, ở bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Mối quan hệ giữa “dân giàu” và “nước mạnh” gắn bó hữu cơ, là tiền đề, điều kiện cho nhau và hai thành tố này luôn đứng ở vị trí hàng đầu trong hệ mục tiêu CNXH Việt Nam.

Chủ nghĩa xã hội chỉ trở thành hiện thực khi chủ thể xã hội là người dân giàu có, sung túc về vật chất, là cơ sở để thỏa mãn nhu cầu tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú. Thành tố thứ nhất trong đặc trưng này cũng là sự bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch khi họ cho rằng, CNXH “chia đều sự nghèo khổ cho người dân”. Việc xác định trên cũng là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của CNXH trong bối cảnh mới của thời đại. Vấn đề này, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đề cập, khi Người cho rằng, “… nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(1). Bác chỉ rõ: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(2); “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”(3).

Đảng ta xác định, muốn đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” thì chủ thể, lực lượng đóng góp chính là nhân dân; do vậy, phải phát huy sức mạnh của nhân dân và dân chủ phải được coi là một trong những thành tố quan trọng hàng đầu. Dân chủ là động lực thúc đẩy sự giàu có của người dân, sự phồn thịnh của quốc gia. Nó tạo ra một môi trường chính trị và kinh tế ổn định, khuyến khích sự đổi mới và đầu tư, đồng thời giảm thiểu bất bình đẳng và tăng cường sự tham gia của người dân vào đời sống kinh tế - xã hội. Về điều này, trước đây đã có nhà tư tưởng cho rằng, trong ba điều cần của phép trị nước: “Túc thực”, “túc binh” và “dân tín” (lương thực phải đầy đủ, binh lực phải sung túc và được trăm họ tin cậy), thì “dân tín” có vai trò quan trọng hàng đầu. Dân tín sẽ tạo ra thực túc, binh cường. Còn nếu dân không tin, không theo, bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn thì triều đình tất sẽ đổ nát. Thiên thời địa lợi chẳng bằng nhân hòa. Lương thực đủ, binh lực đủ, chẳng bằng được dân tin cậy(4).

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(5). Theo Người, “dân là chủ, dân làm chủ” nghĩa là “dân là sức mạnh của Nhà nước”, “là sức mạnh của Đảng”. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “… làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”(6).

Thực hiện dân chủ tức là sử dụng tất cả quyền hành và lực lư­ợng to lớn của nhân dân để hoàn thành các nhiệm vụ vì lợi ích của nhân dân. Nhờ có dân chủ hóa mà Đảng ta đã tìm tòi, sáng tạo, thử nghiệm, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Cũng do xác định được vai trò của dân chủ trong thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” mà nhân dân ta đã đồng lòng hưởng ứng và tham gia ngày càng tích cực vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, mà trước hết là tham gia tích cực vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ đầu tiên trong đổi mới tư duy của Đảng là đột phá trong đổi mới tư duy về phát triển kinh tế, trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang nền sản xuất hàng hóa; kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; thực hiện cả nước là một thị trường thống nhất, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế... Chính quá trình dân chủ hóa đã tạo nên động lực to lớn, giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy các tiềm năng, nội lực của đất nước, vực dậy nền kinh tế đang suy yếu trong khủng hoảng. Nhân dân được tham gia vào phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên cả ba phương diện: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.

Trong quá trình dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã hội, Đảng ta đã hình thành quan niệm về kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Việc đổi mới cơ chế, cải cách thể chế KTTT định hướng XHCN được tiến hành liên tục, mạnh mẽ với những bước đột phá quan trọng nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”; đồng thời, làm cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị và hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Cử tri và nhân dân phấn khởi và càng thêm tin tưởng trước những thành tựu đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong mấy thập kỷ qua; đã góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập sâu rộng và toàn diện với thế giới. Dân chủ đồng thời cũng là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của các thành phần kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội n­ước ta. Nhờ đó, mức độ đồng thuận, đoàn kết trong nhân dân, giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước ngày càng được sâu sắc, tạo cơ sở cho ổn định chính trị, sức mạnh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, động lực để xử lý các vấn đề xã hội tốt hơn, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cũng chính từ thực tiễn phát triển mô hình KTTT định hướng XHCN đã đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong tiến trình đổi mới. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500 USD)”(7). Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm; thu nhập bình quân đầu người tăng 17 lần. Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. “Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng”(8). Đời sống nhân dân được nâng cao; hộ nghèo giảm đáng kể; trình độ dân trí tăng cao; tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên 73,7 tuổi. Dân chủ trở thành động lực phát triển kinh tế để hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.

Vai trò của dân chủ với tư cách là “động lực” của “dân giàu, nước mạnh” còn được thể hiện ở chỗ, dân chủ chính là một trong những tiền đề chính trị - tư tưởng quan trọng để Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ra đời. Đó là nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đồng thời, “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(9).

Những năm qua, Nhà nước pháp quyền XHCN đã thực sự là thiết chế có vai trò “bà đỡ”, “nhạc trưởng” cho thị trường hình thành và phát triển; từng bước xác định giới hạn, phạm vi, nội dung và phương thức quản lý nhà nước cho phù hợp với nền KTTT; đổi mới phương thức quản lý từ chỗ Nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường sang Nhà nước quản lý vĩ mô, kiến tạo phát triển… nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, tạo điều kiện quan trọng bậc nhất để định hướng XHCN cho nền KTTT nước ta đi đúng hướng và việc bảo đảm cho tất cả quyền lực thực sự thuộc về nhân dân ngày càng đi vào thực chất(10). Trong điều kiện xã hội hiện đại, nếu không có dân chủ và pháp chế thì không thể thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”. Chỉ có thực hiện dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng có sáng kiến, mới tin, mới dám nói, mới có sự sáng tạo và mới dám làm. Quyền chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của nhân dân phải được bảo đảm thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật; quyền lực của Nhà nước phải phục vụ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, nếu không vì lợi ích nhân dân, thì dân chủ chỉ mang tính hình thức.

Thành công của công cuộc đổi mới 40 năm qua, xét tới cội nguồn, cũng được khởi đầu bằng quá trình dân chủ hóa trong các lĩnh vực, trước hết là kinh tế, đã tạo nên động lực mạnh mẽ đ­ưa đất n­ước ta v­ượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Đây lại là một hiện thực sinh động, minh chứng về tầm quan trọng và sự vững bền của động lực dân chủ đối với quá trình hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” nói riêng, và hệ mục tiêu phát triển đất nước nói chung.

Thứ hai, “dân giàu, nước mạnh” là điều kiện để phát triển dân chủ

“Dân giàu, nước mạnh” được nhiều nước xem chính là sự thịnh vượng của quốc gia; trong đó, mỗi người dân là một các chủ thể trong mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước và toàn xã hội. Chỉ số Thịnh vượng (Prosperity index) được Tổ chức phát triển của Liên hợp quốc đo bằng: Tăng trưởng kinh tế, mức độ tự do cá nhân, học vấn, sức khỏe, an ninh, tuổi thọ và tỷ lệ thỏa mãn với cuộc sống của người dân. Như vậy, các chỉ báo này không chỉ nói đến sự giàu có mà còn phản ánh giá trị của con người về những quyền cơ bản, nó gần trùng khớp với quan niệm của Việt Nam về “dân giàu, nước mạnh” và “dân chủ”.

Thực tế cho thấy rằng, phát triển kinh tế bền vững, sự thịnh vượng dẫn tới sự xuất hiện các thiết chế dân chủ, và chính các thiết chế dân chủ này đã củng cố bản thân nền dân chủ. Một mặt, khi nền kinh tế phát triển sẽ làm xuất hiện một cơ cấu xã hội mới, trong đó hình thành một bộ phận người giàu và tầng lớp trung lưu - là lực lượng có sự trưởng thành về ý thức dân chủ, là cơ sở để bảo đảm cho dân chủ được thực hành thực chất. Mặt khác, sự phát triển kinh tế ngày càng tạo điều kiện để con người tham gia tích cực hơn vào các hoạt động chính trị, sự lựa chọn và quyền tự do cá nhân, trình độ học vấn cũng có điều kiện nâng lên; công dân có sự trưởng thành hơn về ý thức chính trị, nhận thức tốt hơn các quyền lợi của mình. Họ sẽ bảo vệ quyền của mình và tất nhiên sẽ có phương tiện để bảo vệ và thực hiện quyền đó. Xét theo góc độ này, sự thịnh vượng có tác động đáng kể đối với nền dân chủ. Mức độ thịnh vượng gia tăng có thể không làm tăng dân chủ, nhưng khi sự thịnh vượng đạt trên một mức nào đó thì tác động của nó đối với mức bền vững dân chủ lại rất rõ ràng. Tuy nhiên, điều này không phải đối với mọi quốc gia, vì bản chất của thể chế chính trị - xã hội, văn hóa khác nhau cũng sẽ tác động tới mức độ cao, thấp của dân chủ.

Tiềm lực kinh tế của quốc gia tự nó không minh chứng cho tính chất và trình độ dân chủ của quốc gia đó; tuy nhiên, nó có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của người dân. Với tiềm lực kinh tế đủ mạnh, nhà nước có thể sử dụng các nguồn lực kinh tế đầu tư cho giáo dục, đào tạo, an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển. Hơn nữa, khi tiềm lực kinh tế của quốc gia dồi dào thì mới có đủ khả năng ngân sách chi trả cho hoạt động của tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị mới toàn tâm phục vụ lợi ích của nhân dân; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng thông tin ở các địa phương miền núi, hải đảo, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, phục vụ cho cho nhu cầu đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân, tạo cơ hội phát triển bình đẳng giữa các dân tộc. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý, người dân chỉ biết đến giá trị của độc lập, tự do khi được no ấm; người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện, nếu không thì dân chủ chỉ là hình thức, dân chủ trên giấy mà thôi. Do vậy, điều kiện để thực hành dân chủ, theo Người, trước hết phải bảo đảm đời sống kinh tế; trên cơ sở đó, nâng cao dân trí, văn hóa, ý thức dân chủ… cho người dân. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(11); vì vậy, nếu nhân dân không được giáo dục để nâng cao dân trí thì mãi mãi không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Phải có học thức người dân mới hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức thì người dân mới có ý chí vươn lên thực hiện quyền, trách nhiệm của mình để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà trong điều kiện mới.

Thực tiễn gần 40 đổi mới đã chứng minh, từ khi đất nước bước vào thực hiện nền KTTT định hướng XHCN, nhân dân ta ngày càng khá giả và đất nước ngày càng giàu mạnh hơn, thể hiện rõ mức độ dân chủ ngày càng phát triển khi kinh tế phát triển. Bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu của tất cả mọi người và quyền tự do sản xuất, kinh doanh; chống độc quyền, dỡ bỏ rào cản và những phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm cho các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Tính dân chủ, bình đẳng này đã tạo ra động lực vật chất, kinh tế thúc đẩy các chủ thể kinh tế khai thác và phát huy mọi tiềm năng phát triển kinh tế của cá nhân. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thừa nhận, tôn trọng nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức phân phối chính là thừa nhận và tôn trọng tính đa dạng về lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, các tập đoàn, nhóm và cá nhân người lao động trong xã hội.

Nền KTTT ở nước ta đã dần làm cho quyền tự do, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tập thể lao động, các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp được thực hiện ngày càng tốt hơn. Các chủ thể kinh tế được giải phóng khỏi sự ràng buộc của các cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, trong hội nhập kinh tế quốc tế. Người dân có điều kiện tạo việc làm, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, lựa chọn cơ hội học tập, lập nghiệp, tạo ra động lực to lớn để mọi người sáng tạo và phát triển kinh tế vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành những doanh nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh, những người lao động linh hoạt, năng động, tự chủ, có trách nhiệm cao với bản thân, với công việc, với đơn vị, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội. Đó cũng là phẩm chất cần có của con người trong một nền sản xuất công nghiệp hiện đại và một xã hội dân chủ, văn minh.

Nhờ có đổi mới mà nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân; phát triển y tế, giáo dục; có điều kiện để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội theo nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau”; đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện; trên 70% dân số sử dụng internet… Với những thành tựu trên, Việt Nam được Liên hiệp quốc công nhận là một trong những quốc gia đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Những quyền cơ bản của con người theo Hiến pháp 2013 ngày càng được thực hiện có hiệu quả.

Lễ cưới tập thể dành cho công nhân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn được Trung tâm Hỗ trợ thanh niên công nhân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức_Nguồn: tuoitre.vn

Vị trí, vai trò của dân chủ trong mối quan hệ với mục tiêu “công bằng, văn minh”

Thứ nhất, dân chủ là điều kiện, tiền đề để thực hiện công bằng, văn minh

Trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, hết thảy mọi cá nhân đều kỳ vọng được sống trong một xã hội công bằng. Trong đó, các cá nhân đều được bảo vệ, con người cảm giác thỏa mãn và hạnh phúc; vì vậy, công bằng là một trong những giá trị của xã hội văn minh, nơi mà những quyền dân chủ cơ bản của con người được bảo đảm và ngày càng phát triển.

Ở Việt Nam, dân chủ là điều kiện, tiền đề để thực hiện công bằng, văn minh đã được khẳng định cả về lý luận và về thực tiễn. Một mặt, dân chủ được thực hiện rộng rãi là điều kiện để thực hiện công bằng, văn minh; mặt khác, dân chủ XHCN là nền dân chủ nhằm mục tiêu giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để tạo dựng một xã hội tốt đẹp. Chính vì vậy, trong hệ mục tiêu phát triển đất nước, từ Đại hội IX, Đảng ta đã điều chỉnh thứ tự giữa “công bằng” và “dân chủ”. Sự điều chỉnh này về thực chất phản ánh chính xác hơn bản chất của chế độ ta, bởi chế độ đó là chế độ dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(12). Sự điều chỉnh trên cũng là phù hợp thực tế trong bối cảnh mới của đất nước và thời đại, dân chủ là một trong những giá trị lớn mà nhân loại theo đuổi, dân chủ trở thành tiền đề, điều kiện, động lực phát triển của xã hội công bằng, văn minh.

Thực tế lịch sử đã minh chứng, dân giàu, nước mạnh mà thiếu công bằng thì sẽ gây ra bất công xã hội và bất bình xã hội; từ đó, xã hội sẽ rất dễ rơi vào hỗn loạn, xung đột và hậu quả là khó có thể trở thành một nước giàu mạnh thực sự. Hơn nữa, nếu một xã hội không có công bằng, thì chắc chắn sẽ khó có dân chủ thực sự. Dân chủ chỉ có thể hình thành trong một môi trường xã hội công bằng và bình đẳng. Chính vì lẽ đó, công cuộc xây dựng CNXH chính là xây dựng một môi trường xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ.

Thứ hai, công bằng, văn minh là mục tiêu, động lực của dân chủ

Công bằng, về phương diện xã hội, là bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự với trách nhiệm. Nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định(13). Tuy nhiên, cũng như dân chủ, công bằng luôn mang tính giai cấp và tính lịch sử, được quy định bởi chế độ xã hội cụ thể.

Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới, nội hàm của khái niệm “công bằng” được hiểu khác nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. Công bằng không phải là cào bằng, chia đều, bình quân, dẫn tới sự triệt tiêu động lực phát triển đối với những người có năng lực, có trách nhiệm với đất nước, làm nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội, ảnh hưởng xấu đến bản chất tốt đẹp của CNXH. “Công bằng” hiện nay được hiểu là sự công bằng trong phân phối sản phẩm lao động, công bằng về cơ hội và điều kiện phát triển. Mọi thành viên trong cộng đồng đều nhận được những cơ hội như nhau do chính đổi mới tạo ra để phát triển, không phân biệt, không có định kiến. Đây chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu bình đẳng (ở giai đoạn phát triển cao) khi công bằng đã đạt được kết quả cao(14).

Với nội hàm diễn đạt trên, “công bằng” là một động lực, một giá trị cơ bản của CNXH Việt Nam, trong đó có giá trị về dân chủ. Khi đất nước phát triển kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh gay gắt sẽ không tránh khỏi sự phân hóa trên nhiều góc độ, trong đó có phân hóa giàu - nghèo. Do vậy, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(15), Đảng ta đã nhận thức rõ muốn thực hiện công bằng phải bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân theo phương châm gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển. Khuyến khích làm giàu chính đáng, Nhà nước phải có các chính sách điều tiết, ưu đãi để chăm nom cho các đối tượng chính sách, yếu thế, bị thua thiệt trong phát triển…

Nội hàm cốt lõi của công bằng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là công bằng về cơ hội phát triển, thực chất là bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, là một mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới. Mục tiêu của chế độ xã hội mới là không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, là phấn đấu: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu/ Người khá giàu thì giàu thêm”(16). Điều này một lần nữa cho thấy, việc thực hiện bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, mang ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước; thông qua việc phát huy cao nhất khả năng, sức mạnh của mỗi người, cùng tham gia xây dựng một cuộc sống mới, từng bước vươn tới xã hội cộng sản - mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, công bằng và dân chủ là điều kiện tiền đề của nhau, có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Nếu như công bằng xã hội là hệ giá trị văn hóa bao gồm nhiều giá trị khác nhau thì dân chủ, quyền con người chiếm một vị trí đặc biệt. Cũng như công bằng, dân chủ cũng là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Đồng thời, tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể của khái niệm “công bằng xã hội” cũng tương đồng với khái niệm “dân chủ”. Thực hiện công bằng xã hội đầu tiên và quan trọng nhất là thực hiện ở trong lĩnh vực kinh tế. Muốn đạt được một nền dân chủ ngày càng hoàn thiện thì đầu tiên phải không ngừng phát triển trong lĩnh vực kinh tế để đạt tới một xã hội mới tiến bộ.

Muốn thực hiện được công bằng xã hội, biện pháp quan trọng nhất là chống được tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước và những tổ chức có quyền lực trong xã hội. Để chống được tham nhũng, tiêu cực, thì người dân cần tham gia giám sát, phản biện hiệu quả. Mặt khác, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật - không chỉ được khẳng định mà còn được thực hiện trên thực tế, được bảo đảm sự tự chủ về đời sống kinh tế của mình, từ sở hữu đến nghề nghiệp. Để đạt được những tiêu chí đó, công bằng xã hội đòi hỏi một chế độ dân chủ thực sự. Do vậy, không thể có một nhóm người hay một tổ chức nào, dưới bất cứ danh nghĩa gì, tự coi mình đứng lên trên xã hội và luật pháp để áp đặt ý chí của mình cho những người khác.

Ở nước ta, nói tới công bằng là nói tới quyền lợi công bằng, cơ hội công bằng, quy tắc công bằng. Xây dựng quyền lợi công bằng, cơ hội công bằng, quy tắc công bằng làm nội dung chủ yếu của hệ thống bảo đảm công bằng xã hội chính là tạo ra môi trường xã hội công bằng, bảo đảm cho quyền lợi tham dự dân chủ và phát triển bình đẳng của nhân dân. Các nguyên tắc thực hiện công bằng ở nước ta hiện nay đã thể hiện rất rõ những giá trị của dân chủ - những quyền cơ bản của con người.

Công bằng là một yêu cầu tất yếu của CNXH Việt Nam mà Đảng ta đang lãnh đạo toàn thể nhân dân hướng đến xây dựng. Thực hiện công bằng là một trong những giá trị cốt lõi của CNXH. Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế và thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, công bằng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển toàn diện, lành mạnh và hài hòa. Nó giúp sắp xếp các chế độ và dựa trên sự sáng tạo xã hội mới, trở thành nguyên tắc cơ bản điều chỉnh mối quan hệ giữa các tầng lớp xã hội; đồng thời, củng cố sức mạnh đoàn kết xã hội và là biểu tượng quan trọng để tập hợp và kêu gọi xã hội. Chỉ khi thực hiện được công bằng, người dân mới có điều kiện phát triển, các mối quan hệ xã hội mới được điều chỉnh hợp lý, tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của người dân mới được phát huy; từ đó, xã hội mới đạt được sự ổn định và hài hòa, toàn thể nhân dân mới cùng đồng lòng xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

Thứ ba, dân chủ là một trong những tiêu chí, thước đo trình độ văn minh

Văn minh là tiêu chí quan trọng của một xã hội tiến bộ. Theo nghĩa rộng, văn minh bao gồm văn minh vật chất, văn minh thần, văn minh chính trị, văn minh xã hội, văn minh sinh thái… Theo nghĩa hẹp, văn minh có nội dung về phương diện tinh thần, về tư tưởng, lý luận, đạo đức, văn học, nghệ thuật, giáo dục và khoa học, những sinh hoạt xã hội của nhân loại. Xét cho cùng, tiêu chí của văn minh là sự tiến bộ ở đỉnh cao(17).

Ở Việt Nam, “văn minh” được Đảng ta xác định là một trong những mục tiêu cao nhất trong hệ mục tiêu của CNXH Việt Nam, là tiêu chí phản ánh trình độ phát triển cao nhất của các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng”. Nội hàm “văn minh” của CNXH Việt Nam thể hiện ở việc không ngừng phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng, xoá bỏ áp bức, bất công về mặt xã hội, không ngừng phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nếp sống và lối sống văn minh. Đó là nền văn minh toàn diện và nhân bản, không chỉ là văn minh vật chất - kỹ thuật, mà còn là văn minh tinh thần, không chỉ văn minh trong quan hệ giữa người với thiên nhiên, mà còn là văn minh trong quan hệ giữa người với người, văn minh trong tổ chức xã hội, văn minh trong chất lượng cuộc sống và lối sống. Đó là nền văn minh của một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ”, nền văn minh của một xã hội do nhân dân làm chủ. 

Dân chủ là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh mức độ văn minh tiến bộ của xã hội, vì văn minh là mục tiêu nhằm tạo một môi trường tốt nhất cho phát triển con người, phản ánh trình độ phát triển của một xã hội. Một xã hội văn minh là một xã hội có sự tôn trọng các giá trị nhân văn, tự do, bình đẳng, và pháp quyền, nơi mà mọi người đều có cơ hội phát triển và sống trong một môi trường lành mạnh và công bằng. Dân chủ, với các nguyên tắc như quyền tham gia chính trị, tự do ngôn luận và minh bạch, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu văn minh. Do đó, một xã hội thiếu dân chủ là một xã hội phản tiến bộ, thiếu văn minh. Chính vì vậy, thành tố “văn minh” được xác định ngay từ nhiệm kỳ đầu của đổi mới, là một trong những thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu phát triển đất nước.

Dân chủ là thước đo trình độ văn minh của một chế độ xã hội. Bởi lẽ, để đạt được mục tiêu văn minh, vai trò của nhà nước vô cùng quan trọng. Trước hết, nhà nước phải trong sạch, hiện đại, thường xuyên đổi mới, trong đó đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức khi thực thi nhiệm vụ không có thói hách dịch, cửa quyền với người dân, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chỉ lo làm lợi cho cá nhân mình; tính nghiêm minh của pháp luật phải được bảo đảm; nhà nước phải thừa nhận sự tồn tại, đầy đủ, khách quan của cả 3 yếu tố trụ cột là nhà nước pháp quyền, KTTT và xã hội dân chủ.

Dân chủ khuyến khích sự tham gia của người dân vào các vấn đề chính trị và xã hội; từ đó, nâng cao nhận thức và giáo dục lý luận chính trị. Người dân trong một xã hội dân chủ thường có kiến thức tốt hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, cũng như các vấn đề xã hội quan trọng. Điều này giúp xây dựng một xã hội có nền tảng văn minh hơn, nơi mà công dân không chỉ được giáo dục về các giá trị cơ bản, mà còn về các quyền và nghĩa vụ của mình trong xã hội.

Với quan điểm trên, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới, thực tiễn của đất nước để tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó quán triệt sâu sắc việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; coi đây “là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(18) ở nước ta; được tiến hành đồng bộ với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

So với các nghị quyết về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các hội nghị trung ương trước đây và các văn kiện Đại hội Đảng từ khóa VI đến khóa XIII, Nghị quyết số 27-NQ/TW khóa XIII đã thể hiện rõ tư duy mới, đột phá, toàn diện của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, nhận thức của Đảng ta về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam sáng tỏ, đầy đủ và toàn diện hơn: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”(19)

Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Đảng là phải hướng đến mục tiêu, động lực hoạt động của Nhà nước; tất cả để phục vụ nhân dân, vì lợi ích và hạnh phúc, ấm no của nhân dân, xây dựng xã hội văn minh. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi thể chế, thiết chế vận hành của Nhà nước và “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(20). Thiết kế tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được mục tiêu, động lực vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, thể hiện được khát vọng phát triển đất nước và quan trọng hơn, điều này không chỉ thể hiện trên văn bản mà pháp luật phải được thực thi trên thực tế bởi nhà nước pháp quyền.

Theo chiều ngược lại, văn minh là kết quả của trình độ phát triển dân chủ cao. Một xã hội văn minh sẽ tạo điều kiện, hỗ trợ cho sự phát triển của dân chủ. Một nền tảng văn hóa và xã hội vững chắc, với các giá trị như tôn trọng quyền con người, sự khoan dung và hợp tác, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dân chủ. Các quy chuẩn văn hóa và đạo đức có thể giúp nâng cao nhận thức của người dân về quyền lợi và nghĩa vụ của họ; qua đó, tăng cường sự tham gia và trách nhiệm trong các hoạt động chính trị. Mặt khác, một nền kinh tế văn minh thường đi kèm với các kết cấu hạ tầng phát triển, hệ thống giáo dục và đào tạo chất lượng cao và các dịch vụ xã hội tốt. Những yếu tố này không chỉ hỗ trợ sự phát triển kinh tế, mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của dân chủ.

Sự phát triển của dân chủ đi đôi với sự phát triển của văn minh xã hội, khi mà các giá trị nhân quyền, tự do ngôn luận và tôn trọng sự khác biệt được đề cao. Một xã hội dân chủ là môi trường lý tưởng cho sự phát triển văn hóa và đạo đức xã hội. Văn minh là mục tiêu nhằm tạo dựng một môi trường tốt nhất cho phát triển con người; dân chủ là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh văn minh, tiến bộ của xã hội. Dân chủ đã tạo ra địa bàn để phát huy mọi tiềm lực, tập hợp các xu h­ướng lành mạnh trong dân tộc làm gia tăng và phát huy thế và lực của đất n­ước và cũng vì thế, vai trò động lực của dân chủ có giá trị to lớn và bền vững. Nền văn minh XHCN ở Việt Nam là kết quả của sự kế thừa những thành tựu của văn minh nhân loại, kết hợp với sự kết tinh, phát triển những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Theo đó, xã hội XHCN Việt Nam mà toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu xây dựng sẽ phải là một xã hội hiện đại, văn minh, tiến bộ, mang đậm giá trị bản sắc dân tộc; trong đó, con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh./.

----------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét