Thứ Ba, 5 tháng 11, 2024

Đấu tranh chống thủ đoạn phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

         Thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng nước ta, trên lĩnh vực tư tưởng chính trị các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh chống âm mưu thủ đoạn xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là vấn đề tất yếu, là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Với âm mưu thủ đoạn thâm độc, nhằm hạ thấp bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đơn thuần là nhắc lại tư tưởng của C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin và các nhà tư tưởng khác chứ không có tư tưởng riêng của mình hoặc tư tưởng không trở thành một hệ thống… Một hướng tuyên truyền, chống phá nữa là, chúng đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng lại đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản…Các quan điểm chống phá trên chỉ là những lời lẽ phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh vô căn cứ, bởi vì tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam, bằng tài năng của mình, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lênin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nướcViệt Nam và các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Đảng ta đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam đoàn kết một lòng, bằng ý chí, quyết tâm giữ gìn sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ nền độc lập, tự do trường tồn của dân tộc, đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh để giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.Đại hội IV của Đảng (12/1976), khẳng định: Thắng lợi to lớn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế…Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cho sự nghiệp của Đảng và của dân tộc, làm rạng rỡ non sông đất nước ta, để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau những di sản bất diệt”.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đất nước tađã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thắng lợi đó, bắt nguồn từ sự kiên định mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, những người cố tình bịa đặt, xuyên tạc, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng  “Nhân dân Việt Nam đi theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh là sai lầm, là đi vào ngõ cụt” là cố tình đi ngược lại lợi ích dân tộc và xu thế phát triển của thời đại cần phải bị vạch mặt, đấu tranh, lên án.

Đồng thời,tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực sự hiệu quả, thiết thực trong việc học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tquốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết và chỉ đạo thực tiễn để giải quyết hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra; thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ.Góp Phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn, đy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ./.

LỜI BÁC DẠY NGÀY 04/11

 


 “… Muốn thắng, thì ta phải tích cực, tự động, bí mật, mau chóng, kiên quyết, dẻo dai. Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch...”.

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi các cán bộ, chiến sĩ chủ lực và dân quân du kích trong Chiến dịch Hòa Bình”, Người viết tháng 11 năm 1951.

Đây là thời điểm Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thị xã Hòa Bình, đập tan phòng tuyến sông Đà và tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ. Đây là sự chỉ đạo sát sao, sự động viên khích lệ của Bác, thể hiện nhãn quan chính trị, quân sự thiên tài nhạy bén của Người đã đánh giá đúng tình hình địch, ta, phán đoán trước được âm mưu, hành động xảo quyệt của những tên đế quốc, thực dân xâm lược. Đó còn là phương châm, tư tưởng, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của chiến dịch, đồng thời phản ánh rõ nét tư tưởng “đánh chắc thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một tư tưởng đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo cao nhất, đem lại niềm tin, nguồn sức mạnh chính trị, tinh thần to lớn để tiếp thêm sức mạnh và ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các chiến sĩ ngoài mặt trận.

Đấu tranh chống thủ đoạn xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch hiện nay

 

Hiện nay, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh chống âm mưu thủ đoạn xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là vấn đề tất yếu, là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Với âm mưu thủ đoạn thâm độc, chúng đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng lại đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản…Các quan điểm chống phá trên chỉ là những lời lẽ phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh vô căn cứ, bởi vì tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam, bằng tài năng của mình, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lênin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nướcViệt Nam và các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Đảng ta đã khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Thắng lợi to lớn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh..Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đất nước tađã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thắng lợi đó, bắt nguồn từ sự kiên định mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, những người cố tình bịa đặt, xuyên tạc, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng  “Nhân dân Việt Nam đi theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh là sai lầm, là đi vào ngõ cụt” là cố tình đi ngược lại lợi ích dân tộc và xu thế phát triển của thời đại, vì vậy, chúng ta cần phải  vạch mặt, đấu tranh, lên án để bảo vệ tư tưởng HCM và thường xuyên xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Góp Phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn, đy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ./.

"NHỮNG THÔNG ĐIỆP CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH ĐÃ TRUYỀN CẢM HỨNG MẠNH MẼ".



 Theo Chinhphu.vn - Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam vừa kết thúc tốt đẹp chuyến thăm 3 nước Trung Đông với tinh thần mở đường, tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, coi trọng "thời gian" và "trí tuệ". Qua đó đã đưa ra các thông điệp truyền cảm hứng, góp phần huy động những nguồn lực mới phát triển đất nước.

Điểm nhấn đặc biệt quan trọng của chuyến thăm là thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư với cả ba nước nói riêng và khu vực vùng Vịnh, Trung Đông nói chung. Thủ tướng đã phát biểu, chuyển tải nhiều thông điệp quan trọng tại các cuộc hội đàm, cuộc gặp với các nhà lãnh đạo, các hội nghị, sự kiện và có hàng loạt cuộc gặp gỡ với các Bộ trưởng, Quốc vụ khanh các bộ phụ trách kinh tế, đầu tư, công nghiệp, năng lượng, ngoại thương... của UAE, Saudi Arabia và Qatar.

Thủ tướng Chính phủ đã tham dự Hội nghị Sáng kiến đầu tư tương lai lần thứ 8 (Hội nghị FII8) do Saudi Arabia tổ chức với chủ đề "Chân trời vô tận: đầu tư hôm nay, định hướng tương lai". Trong bài phát biểu quan trọng, Thủ tướng gửi thông điệp về Việt Nam đổi mới, năng động và sẵn sàng cùng các nước trao đổi, chia sẻ, đưa ra các sáng kiến thúc đẩy đầu tư vì một tương lai phát triển bền vững và thịnh vượng.

Thủ tướng nhấn mạnh, là một trong những nước chịu nhiều đau thương, mất mát nhất kể từ sau Đại chiến Thế giới thứ II, liên tục bị tác động bởi chiến tranh, bao vây, cấm vận trong nhiều thập kỷ, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam đã gác lại quá khứ, biến thù thành bạn, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng đến tương lai.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, sau gần 40 năm đổi mới, hội nhập và phát triển, từ một nước bị bao vây, cấm vận, nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, quy mô GDP của Việt Nam đã tăng lên 430 tỷ USD năm 2023, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD. Trong những năm gần đây, mặc dù tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, bất ổn, tăng trưởng nhiều nền kinh tế và đầu tư toàn cầu suy giảm, nhưng tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt mức gần gấp đôi mức tăng trưởng bình quân toàn cầu, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.

Thủ tướng nêu rõ, Việt Nam mong muốn các đối tác, cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư ba nước, vùng Vịnh và thế giới tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động hợp tác, đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và với các đối tác Việt Nam, nhất là làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.

Thủ tướng khẳng định: "Việt Nam luôn kiên định chính sách tăng cường thu hút mọi nguồn lực từ bên trong và bên ngoài, nhất là hợp tác công tư, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư", với "thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh".

Cùng với nỗ lực đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, có tính cạnh tranh cao trong khu vực, toàn cầu, không ngừng cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính, ưu tiên các ngành, lĩnh vực mới nổi, tháo gỡ khó khăn cho đầu tư, kinh doanh, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: "Việt Nam đang tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, logistics để tiết giảm chi phí, thời gian, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm và hạ tầng y tế, giáo dục để bảo đảm phúc lợi cho nhà đầu tư" và "Việt Nam luôn hết sức quan tâm đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, gắn với phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả đầu tư".

Đồng thời, "Việt Nam đầu tư củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, tạo nền tảng vững chắc để bảo đảm an ninh, an toàn và gìn giữ môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư". Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định.

Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã tận dụng tối đa thời gian và cơ hội để giới thiệu, quảng bá về những tiềm năng, thế mạnh, cơ hội hợp tác đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam - một trong những nền kinh tế năng động, sáng tạo, tăng trưởng nhanh của khu vực và thế giới. Thủ tướng đã chỉ rõ và đề nghị thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác trong nhiều lĩnh vực, các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam và của ba nước với các nhà lãnh đạo và các tập đoàn, quỹ đầu tư hàng đầu thế giới.

Các nhà lãnh đạo, các doanh nghiệp, nhà đầu tư ba nước đánh giá cao những thông tin, thông điệp mà Thủ tướng chia sẻ về môi trường đầu tư kinh doanh, chiến lược, cơ chế, chính sách ưu tiên thu hút đầu tư của Việt Nam; đồng thời nêu rõ sẵn sàng thúc đẩy hợp tác, mở rộng đầu tư tại Việt Nam trong thời gian tới. Như đánh giá của Bộ trưởng Công nghiệp và Khoáng sản của Saudi Arabia: "Những thông điệp của Thủ tướng Phạm Minh Chính đã truyền cảm hứng 

Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU VỀ CỤC DIỆN THẾ GIỚI ĐỐI MỖI QUỐC GIA

 

Nhìn lại bức tranh toàn cảnh của thế giới hiện nay, có thể nhận thấy rằng, mọi sự vận động của đời sống và quan hệ quốc tế đều có thể tác động tới sự hình thành và thay đổi cục diện thế giới, và ngược lại, mọi sự biến đổi dù lớn hay nhỏ của cục diện thế giới đều tác động trực tiếp đến các mối quan hệ quốc tế, từ đó làm thay đổi tư duy phát triển, dẫn đến việc điều chỉnh chính sách của các quốc gia. Như vậy đủ thấy rằng, việc nghiên cứu cục diện thế giới, cục diện khu vực mang tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.

Hiện nay, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh… của thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, và như vậy, cùng với tình hình đó, cục diện thế giới cũng đổi thay không ngừng. Cuộc chạy đua về khoa học công nghệ với sự gia tăng của các phát minh, sáng chế khoa học công nghệ và tốc độ ứng dụng chúng trong sản xuất và sinh hoạt của con người; quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ được nhận định là một hiện tượng ngày càng phổ biến, một tiến trình không thể đảo ngược; trào lưu dân chủ hóa đời sống quốc tế, sự hợp tác ngày càng có hiệu quả của các tổ chức khu vực và liên khu vực; sự thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước lớn; sự đổi mới tư duy về phát triển, chuyển từ tăng trưởng sang phát triển và phát triển bền vững…là những nhân tố chính dẫn đến sự dịch chuyển tương quan sức mạnh toàn cầu. Nâng cao tri thức lý luận để nhận diện đời sống thế giới là vấn đề cực kỳ quan trọng, giúp mỗi Quốc gia có chiến lược đúng đắn giải quyết những vấn đề của thế giới và từng quốc gia./.

GIANG VĂN MINH - SỨ THẦN “BẤT NHỤC QUÂN MỆNH”

 



 Trong lịch sử dân tộc, ngoài những chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm phương Bắc, còn ghi nhận những chiến thắng về ngoại giao vừa mềm dẻo, khôn khéo vừa kiên định để tránh cho đất nước khỏi họa xâm lăng. Lịch sử còn ghi lại những câu chuyện về các vị quan làm công tác ngoại giao, các sứ thần của nước Việt rất đỗi thông minh, có tài ứng đối như: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Thân Nhân Trung... trong đó, nổi bật là thám hoa Giang Văn Minh, vị sứ thần đời vua Lê Thần Tông.

Giang Văn Minh sinh năm 1573 tại Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá (nay là xã Đường Lâm, Thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Ông thi đỗ Thám hoa khóa Mậu Thìn, đời Vua Lê Thần Tông năm 1628. Khoa thi này không có người đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn chỉ có danh hiệu Thám hoa. Ông là người học rộng, tài cao, là nhà ngoại giao uyên bác, khảng khái, dũng cảm. Ông được mệnh danh là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua) vì đã dám đối đáp thẳng thắn trước triều đình nhà Minh. Chỉ trong hai năm thực hiện sứ mệnh ngoại giao cho đất nước, sứ thần Giang Văn Minh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường không chịu khuất phục của nhân dân An Nam trước sự bành trướng hống hách của nhà Minh.

Ngày 30/12 năm Dương Hòa thứ ba (1637), Giang Văn Minh được vua Lê Thần Tông cử làm Chánh sứ cùng 4 phó sứ dẫn đầu đoàn sứ bộ sang nhà Minh. Khi mới sang, những tên quan đại thần nhà Minh còn tỏ ý khinh thường sứ thần An Nam, chúng không thèm tiếp và luôn miệng hạch sách. Giang Văn Minh hết sức căm phẫn, một mặt ông luôn nghĩ trong đầu cách đối phó với nhà Minh, mặt khác vẫn cố gắng làm tròn sứ mệnh của vua Lê đã giao. Một hôm, nhân ngày tiết khánh thọ của vua Minh, tất cả sứ thần các nước đều mũ áo chỉnh tề, mang theo lễ vật, riêng sứ thần An Nam lại nằm khóc lóc thảm thiết, cố ý để việc này lọt được đến tai vua. Được tin báo, vua Minh bèn cho gọi ông Minh vào chầu. Khi được hỏi nguyên cớ, sứ thần Giang Văn Minh bèn tâu: “Theo lệnh vua Lê, sứ thần được sang triều cống quý quốc thấm thoát đã hàng năm lưu lạc trên đất khách quê người nhưng vẫn chưa làm tròn trọng trách, còn lòng dạ đâu mà vui được. Nay đã đến ngày giỗ vị tằng tổ của thần mà thần vẫn chưa được về quê hương đèn hương tưởng niệm, như vậy chẳng là đắc tội với tiên tổ hay sao?”, rồi lại ôm mặt mà khóc. Nghe rõ sự tình, vua Minh liền cười mà phán rằng: “Nhà ngươi quả là một người trung hiếu vẹn toàn. Những tưởng chuyện gì chứ việc ông tổ đã ba đời rồi đến nay còn gì ràng buộc tình cảm nữa mà phải lo mang tiếng với người đời chỉ vì không về được quê hương tưởng niệm”. Nghe xong vua Minh phán, biết kế sách của mình đã đi đúng hướng, sứ thần Giang Văn Minh liền tâu rằng: “Thần cũng nghĩ vậy, nhưng khốn nỗi, người đời có nghĩ thế đâu! Ngay như việc Thiên triều bắt dân tôi năm nay lại phải cống người vàng để trả “nợ Liễu Thăng” mà Liễu Thăng thì đã chết cách hơn 200 năm rồi. Chuyện cũ đã mờ, mà dân tôi hằng năm cũng vẫn còn chưa được Thiên triều xoá bỏ lệ cũ. Hơn nữa vua tôi nhà Lê có tội gì đâu mà hằng năm Thiên triều vẫn đòi lễ cống! Đó chẳng phải là một việc vô lý, trái với đạo lý và thể diện của Quốc vương tôi sao? Ngày nay, Thiên triều khuyên thần đừng thương nhớ người đã quá cố, thì thần cũng xin Thiên triều noi theo mệnh lớn mà từ nay miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống nữa. Đó chẳng phải là một việc tốt để gây lại mối giao hảo bền vững giữa hai nước láng giềng?”.Trước lời tâu chân tình, lý lẽ đanh thép và đầy sức thuyết phục đó, vua Minh cũng tự thấy việc bắt dân An Nam hằng năm vẫn phải dâng lệ cống người vàng để trả “nợ Liễu Thăng” là vô lý, nên đã ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng và cũng từ đây hằng năm dân ta chấm dứt được cái việc “trả nợ Liễu Thăng”.

Cũng trong lần đi sứ này, biết Thám hoa Giang Văn Minh là người thông minh, vua nhà Minh có ý thử tài sứ thần nước Việt nên ra một vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Dịch nghĩa: Cột đồng đến nay đã phủ kín rêu phong).Vế đối của Vua Minh có ý ngạo mạn, nhắc đến việc Mã Viện xưa sang xâm lược nước ta, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã cho dựng cột đồng khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (nghĩa là: cột đồng mà gãy thì dân Giao Chỉ diệt vong).

Nghe xong, mặc dù Thám hoa Giang Văn Minh rất căm giận nhưng ông vẫn bình tĩnh đối lại bằng một vế đối vô cùng xuất sắc: "Đằng giang tự cổ huyết do hồng" (Dịch nghĩa: Sông Bạch Đằng từ ngàn xưa máu vẫn còn đỏ).Vế đối đanh thép, tỏ rõ khí phách anh hùng và lòng tự hào dân tộc, nhắc cho Vua Minh nhớ lại ba lần sông Bạch Đằng nhuốm máu quân xâm lược phương Bắc: Chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền (năm 938), chiến thắng quân Tống của Lê Đại Hành (năm 981) và chiến thắng quân Nguyên Mông của Trần Hưng Đạo (năm 1288).

Tưởng làm nhục được sứ thần nước Việt, ngờ đâu bị Thám hoa Giang Văn Minh làm nhục nên bất chấp luật lệ bang giao, vua Minh đã hèn hạ sai quân lính mổ bụng ông xem “Sứ thần An Nam to gan lớn mật thế nào”.Dù nghĩa vụ đi sứ dở dang, đoàn sứ bộ do thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đã tỏ rõ khí phách hiên ngang của người dân Đại Việt không khuất phục trước ách đô hộ của triều đình phương Bắc.

Sau khi Thám hoa Giang Văn Minh mất (năm 1638), thương tiếc và cảm phục một sứ thần tài trí, dũng cảm, không chịu khuất phục trước uy vũ kẻ thù, vua Lê Thần Tông đã đến bái kiến linh cữu ông, đồng thời ban tặng đôi câu đối: "Sứ bất nhục quân mệnh/ Khả vi thiên cổ anh hùng", nghĩa là: Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng danh anh hùng thiên cổ. Đồng thời truy tặng ông chức Công Bộ Tả thị lang, tước Vinh Quận công.Hiện nay, ngôi mộ của Thám hoa Giang Văn Minh vẫn được họ tộc chăm chút cẩn thận tại thôn Mông Phụ, còn ngôi quán - nơi làm lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là quán Giang để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã làm vẻ vang cho đất nước.

Tấm lòng kiên trung, bất khuất của Giang Văn Minh mãi là bài học để các thế hệ người Việt Nam noi theo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không chịu khuất phục trước cái ác, cái xấu, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ lợi ích, danh dự của quốc gia, dân tộc.

HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG TAI NẠN GIAO THÔNG HIỆN NAY

 

Hiện nay tai nạn giao thông (TNGT) là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất, nguyên nhân chủ yếu là ý thức giác ngộ, tinh thần chấp hành luật lệ an toàn giao thông của một số người chưa nghiêm túc. TNGT tăng cao nguyên nhân chính là do người điều khiển phương tiện giao thông gây ra chủ yếu là phóng nhanh, vượt ẩu, tranh giành rước khách, uống rượu say, ùn tắc giao thông…Từ thực trạng vấn đề trên, tôi xin đề xuất những giải pháp và hoạt động sau nhằm đảm bảo an toàn giao thông và giảm thiểu TNGT:

Đối với lực lượng cảnh sát giao thông là lực lượng nòng cốt đảm bảo trật tự an toàn giao thông, cho nên việc nâng cao trình độ nghiệp vụ, giáo dục ý thức trách nhiệm, chấn chỉnh thái độ tác phong khi tiếp xúc với nhân dân là việc làm cần thiết nhất bên cạnh việc hiện đại hóa trang thiết bị, phương tiện làm việc, đổi mới nâng cao chất lượng tuần tra theo hướng tăng cường cơ động, tuần tra kiểm soát dọc tuyến đường mình phụ trách để khi phát hiện sai phạm là lập tức giải quyết. Cần quyết liệt cưỡng chế giao thông đối với xe ôtô đỗ sai quy định, thông qua tuần tra trên các tuyến đường, khi phát hiện xe ôtô đỗ sai quy định cảnh sát giao thông phải nhanh chóng tiến hành lập hồ sơ, chụp ảnh, xác định vị trí xe đỗ và in biên lai dán vào kính xe. Có như vậy mới tạo được tính bất ngờ và hạn chế sự chủ quan của người tham gia giao thông. Mục đích là để tạo thói quen cho người tham gia giao thông chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về an toàn giao thông. Bên cạnh đó cần quyết liệt chấm dứt tình trạng xin xỏ, thậm chí tiêu cực trong quá trình xử lý vi phạm giao thông vì các hiện tượng trên làm cho người dân mất lòng tin vào sự nghiêm minh của pháp luật thế nên mới có hiện tượng người dân chỉ sợ cảnh sát giao thông mà không sợ luật.

- Xử lý triệt để các lỗi là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông như: xe chở quá số người, chạy quá tốc độ quy định; tránh, vượt sai quy định; đi không đúng phần đường; xe hết niên hạn sử dụng, xe không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật. Phạt thật nặng những người điều khiển phương tiện giao thông có nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép. Ngoài việc xử phạt người điều khiển phương tiện (đặc biệt là ô tô) sai phạm do kỹ thuật, chở quá khổ, quá tải, chở chất cháy, chất nổ, hàng lậu, hàng cấm... theo quy định, đeo biển số giả thì cũng cần phải làm rõ xem chiếc ô tô đó đã chạy qua bao nhiêu địa phương, qua bao nhiêu trạm kiểm soát giao thông trước đó và xem xe đó có kiểm tra xử phạt không, hình thức xử phạt thế nào, nhằm truy tìm tận gốc xem tại sao xe đó sai phạm mà vẫn được chạy, từ đó tìm ra và kỷ luật người đứng đầu trạm kiểm soát, người thực hiện nhiệm vụ kiểm soát của các trạm đó vì biết xe sai phạm mà vẫn giải quyết cho chạy.

- Cần phải phạt nặng tất cả đối tượng gây ảnh hưởng đến an toàn giao thông như họp chợ, mua bán, chăn thả gia súc, phơi rơm rạ, thóc lúa... trên các trục đường. Đồng thời cũng chỉ rõ trách nhiệm quản lý cho các ngành, các địa phương có trục lộ đi qua. Nếu cán bộ của ngành, của địa phương nơi có trục lộ đi qua không làm tròn trách nhiệm cũng phải bị xử lý kỷ luật và thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

-  Những xe không đảm bảo an toàn nên cấm tuyệt đối. Để giải quyết hài hoà mâu thuẫn trên, đề nghị nhà nước thu mua số xe đó (dưới dạng phế liệu để tái chế lại)  với giá hỗ trợ đối với những chủ phương tiện thực sự khó khăn để họ chuyển đổi nghề nghiệp, hoặc mua phương tiện mới giống như đã hỗ trợ kinh phí để tiêu hủy gia súc, gia cầm bị bệnh dịch. Bên cạnh đó cần thống nhất các quy định, biển báo giao thông để tránh hiểu nhầm như ở thành phố lớn cho phép rẽ phải khi đèn đỏ nhưng ở các tỉnh thì không, như vậy sẽ dẫn đến tình trạng người ở thành phố về tỉnh cứ rẽ phải khi đèn đỏ, tạo nên sự lộn xộn trong chấp hành Luật Giao thông.

- Tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông: thông qua các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền về tình hình trật tự an toàn giao thông; cần đổi mới hình thức và nội dung tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông như triển lãm panô ảnh, phát tờ rơi tuyên truyền…. Bên cạnh đó, thường xuyên khảo sát, phát hiện những bất cập mới phát sinh trong công tác tổ chức giao thông, có biện pháp khắc phục kịp thời, bổ sung hệ thống cọc tiêu, biển báo nguy hiểm, hạn chế tốc độ nhất là các tuyến, nút trọng điểm có nguy cơ ùn tắc, các “điểm đen” về TNGT; xây dựng lộ trình giảm phương tiện giao thông cá nhân song song với việc mở mang đường xá vì hiện nay hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ chưa đáp ứng tốt các nhu cầu. Bên cạnh đó khi xảy ra ùn tắc giao thông, thông qua các phương tiện đại chúng cơ quan nhà nước có trách nhiệm nhanh chóng thông báo cho các lái xe ô tô biết nơi nào ùn tắc để đi đường khác, báo lực lượng chức năng đến giải quyết.

- Kết hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành trong giáo dục, và giải quyết những vụ vi phạm TNGT nghiêm trọng theo đúng pháp luật./.

 

 

CÁN BỘ VÀ VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ CHIẾN DỊCH, CHIẾN LƯỢC

 

Đội ngũ cán bộ chiến dịch, chiến lược là nguồn lực quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ mới, vị thế và vai trò của họ ngày càng được nâng cao bởi nhiệm vụ, trọng trách càng nặng nề. Nâng cao năng lực tư duy cán bộ chiến dịch, chiến lược là một quá trình, phải qua nhiều bước, với nhiều hình thức khác nhau, phải kết hợp đào tạo, bồi dưỡng tại các nhà trường và tự bồi dưỡng trong thực tế của cán bộ, kết hợp chặt chẽ giữa việc lựa chọn và đào tạo, bồi dưỡng và thử thách, giữa nỗ lực chủ quan với cơ chế, tổ chức, chính sách của Đảng, Nhà nước và quân đội.

Đội ngũ cán bộ chiến dịch, chiến lược phần lớn đã được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy và có nhiều thành tích và kinh nghiệm thực tiễn. Đã trực tiếp đóng góp trí tuệ và tài năng của mình vào quá trình hoạch định các chủ trương, quyết sách xây dựng lực lượng vũ trang, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trên từng nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trong thời kỳ mới, đội ngũ cán bộ cũng còn bộc lộ những yếu kém, nhất là về năng lực tư duy. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chiến dịch, chiến lược một cách thường xuyên, nhất là về năng lực tư duy của họ. Chỉ có làm tốt vấn đề này, mới bảo đảm cho đội ngũ cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, quân đội giao phó trong thời kỳ mới./.

QUÂN ĐỘI TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

         Công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội là một nội dung công tác đảng, công tác chính trị; khâu cơ bản, quan trọng của công tác bảo vệ an ninh Quân đội, góp phần bảo đảm cho Quân đội luôn vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt hơn nữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội.

          Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội thời gian qua được cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chặt chẽ, hiệu quả theo đúng nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội được đẩy mạnh. Tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; bảo đảm bí mật, an toàn cho mọi hoạt động, hiệu quả công tác quản lý tình hình chính trị nội bộ của các đơn vị được nâng cao. Công tác thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị, nhất là vấn đề chính trị hiện nay đối với cán bộ, đảng viên được tiến hành chặt chẽ, có chất lượng tốt. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, làm trong sạch nội bộ phục vụ công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,… góp phần quan trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

          Tuy nhiên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội thời gian qua vẫn còn những điểm tồn tại, hạn chế. Nhận thức về yêu cầu, nhiệm vụ công tác bảo vệ chính trị nội bộ của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị chưa đầy đủ, sâu sắc; chất lượng nắm, quản lý tình hình chính trị nội bộ, quản lý con người còn hạn chế; thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự có lúc, có nơi vẫn còn sơ hở, mất cảnh giác.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi và cả khó khăn, thách thức đan xen. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ; chúng gia tăng các hoạt động móc nối, cài cắm vào nội bộ, thu thập tình báo trên các lĩnh vực trọng yếu, cơ mật,... nhất là trong dịp chuẩn bị nhân sự đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới công tác bảo vệ an ninh Quân đội nói chung, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội nói riêng cần tập trung thực hiện tốt những nội dung như:

          Một là,tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

          Hai là,tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự quản lý của cán bộ chủ trì các cấp đối với công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

          Ba là,thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, kỹ lưỡng công tác rà soát, thẩm định, thẩm tra, xác minh và kết luận tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên,      Bốn là,thường xuyên nắm và quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nhất là vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên.

          Năm là,quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội về công tác bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật quân sự; xây dựng đơn vị an toàn, địa bàn an toàn.

          Sáu là,xây dựng cơ quan và đội ngũ cán bộ chuyên trách vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

 

Hiện nay, có một số người băn khoăn về nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa…Song chúng ra cần phải khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, nghi hoặc.

Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch hiện nay.

Tính chất nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa

 

Một là, các thế lực thù địch đánh phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo để phá rã niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ, làm cho toàn xã hội hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng đòi thay đổi chế độ XHCN. 

Hai là, với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” thông qua tác động trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điểm mị dân, lừa bịp, dễ làm cho đối phương mất cảnh giác, dễ bị cám dỗ, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dễ dàng truyền bá các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị. 

Ba là, với nhiều thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên Việt Nam bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, cổ xúy lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan chính trị, xa rời lý tưởng; tạo ra một tầng lớp đông đảo “phi chính trị hóa”, để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị, dùng bạo loạn lật đổ và cướp chính quyền. 

Bốn là, thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các nước đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua giao lưu hợp tác về văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí... để thâm nhập, thu thập tin tức tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước ta. 

Năm là, với hình thức tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động, thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những lực lượng xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận rõ tính chất nguy hiểm của âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch hiện nay./.

HƯỚNG TỚI NGÀY PHÁP LUẬT VIỆT NAM 9/11

 



 Ngày 9/11 được coi là một điểm mốc lịch sử, là sợi chỉ đỏ kết nối xuyên suốt, có sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Nhắc nhở, giáo dục mọi công dân ý thức tôn trọng pháp luật để không chỉ là một ngày pháp luật mà sẽ là ba trăm sáu mươi lăm ngày trong một năm, mọi tổ chức, mọi cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, thực hiện khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

Quốc hội đã quyết định lựa chọn ngày 9/11 là ngày pháp luật vì vào ngày này cách đây 78 năm, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (Hiến pháp năm 1946). Đây là một sự kiện chính trị-pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mở đầu cho con đường phát triển mới của lịch sử lập hiến dân tộc ta. Ngày 09/11/1946 là ngày mà bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ban hành. Sau Hiến pháp năm 1946, nước ta đã có thêm 4 bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 với những giá trị về dân chủ, về quyền con người, về quyền công dân; tổ chức nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 là xuyên suốt tất cả các Hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật của nước ta. Chính vì vậy, mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của Ngày Pháp luật là để nhân dân thể hiện tinh thần tôn vinh các giá trị, vai trò đặc biệt quan trọng của Hiến pháp, pháp luật trong cuộc sống của mỗi con người với sự phát triển của quốc gia, sự hưng thịnh của dân tộc, đồng thời qua đó làm cho tinh thần thượng tôn pháp luật thực sự thấm sâu vào ý thức, hành vi và hoạt động với tinh thần tự giác của mọi người dân, của cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội.

Ngày Pháp luật được tổ chức hằng năm nhằm tôn vinh Hiến pháp và pháp luật, đề cao giá trị của Hiến pháp và pháp luật trong nhà nước pháp quyền, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội. Với ý nghĩa đó, mọi tổ chức, cá nhân nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, góp phần đưa các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, từ đó lan tỏa sâu rộng để tất cả các ngày trong năm đều là Ngày Pháp luật; từ đó xây dựng niềm tin, tình cảm, thái độ ứng xử phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ, bảo đảm quyền - lợi ích cho mỗi cá nhân, hành vi ứng xử phù hợp với quy định của hệ thống pháp luật, ý thức bảo vệ pháp luật của toàn dân; đề cao giá trị con người, xây dựng nhân cách, đề cao ý thức làm chủ, tôn trọng kỷ luật, tự do trong khuôn khổ pháp luật; coi trọng các giá trị đạo đức tốt đẹp; ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, xây dựng lối sống, nếp sống văn hoá; bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại là những điều kiện quan trọng góp phần hình thành con người về mặt tâm hồn, nhân cách, để mỗi con người tự ý thức về mình, về cộng đồng, về dân tộc, về đất nước. Đây chính là yếu tố tạo nên sự bền vững của ý thức pháp luật, của kỷ cương, phép nước; nâng cao hiệu quả xây dựng, phổ biến, giáo dục pháp luật và thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; hướng tới xây dựng nền văn hóa pháp lý: Văn hóa pháp luật rất hiện hữu, được thể hiện hàng ngày ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, cá nhân và xã hội, trong nội dung, thực hành, áp dụng Hiến pháp, pháp luật, trong tất cả những vấn đề liên quan đến con người, quyền công dân, tự do, trách nhiệm của con người. Để hình thành nền văn hóa pháp luật, cần phải xây dựng lối sống tôn trọng pháp luật. Lối sống theo pháp luật thể hiện thường xuyên, mỗi ngày, được tạo lập từ các ứng xử theo pháp luật ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh và trở thành thói quen của mỗi chúng ta.

Do vậy, Ngày Pháp luật có ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo dục và đề cao giá trị của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, hướng mọi tổ chức, các cá nhân tính tích cực tham gia với hành vi, thái độ xử sự pháp luật đúng đắn, đề cao quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân công dân trong học tập, tìm hiểu pháp luật và tự giác chấp hành pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức và niềm tin pháp luật, từng bước xây dựng và củng cố các giá trị văn hóa pháp lý trong cuộc sống xã hội. Với phương châm “Hiểu pháp luật, để sống đúng, sống hạnh phúc”./.

BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA VIỆT TÂN VỀ VIỆC CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

 


Sáng ngày 31/10, tại phiên thảo luận tổ ở Quốc hội, góp ý xây dựng dự thảo Nghị quyết thí điểm chính quyền đô thị tại TP Hải Phòng và việc thành lập TP Huế trực thuộc Trung ương; Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra ý kiến về bộ máy nhà nước hiện nay quá cồng kềnh, kìm hãm sự phát triển, tới đây sẽ tiếp tục tinh gọn hiệu quả. Ngay lập tức thông qua nhận định này, trên trang cá nhân của Việt tân đăng tải dòng trạng thái xuyên tạc, bịa đặt hòng bôi nhọ và chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Phát biểu ý kiến thảo luận ở tổ, Tổng Bí thư Tô Lâm Tổng Bí thư nhấn mạnh, từ Đại hội XII, nghị quyết của Trung ương đã đánh giá bộ máy nhà nước cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, phải sắp xếp, tinh gọn. Dẫn chứng ngân sách đang chi khoảng gần 70% để trả lương, chi thường xuyên, phục vụ cho hoạt động, Tổng Bí thư cho rằng nếu điều hành ngân sách như vậy sẽ không còn tiền chi cho đầu tư phát triển. Hiện nay mới sáp nhập từ dưới lên như xã, huyện còn tỉnh chưa làm; mới thực hiện sắp xếp ở một số vụ, cục, tổng cục của bộ, ngành còn Trung ương chưa làm, đây là vấn đề rất lớn, sắp tới phải bàn. Trung ương, các ban của Đảng, Quốc hội, Chính phủ phải gương mẫu. “Không tinh gọn bộ máy không phát triển được”.

Nhân cơ hội này, Việt tân tiếp tục bới móc, chọc ngoáy, xuyên tạc chủ trương của Đảng về tinh gọn bộ máy Nhà nước hòng bôi nhọ và chống phá Đảng ta. Chúng cho rằng, tiền của nhân dân là để nuôi bộ máy cồng kềnh của Chính phủ, chứ không phải để xây dựng đất nước. Đây là một quan điểm phiến diện và thiếu hiểu biết của Việt tân về việc sử dụng “tiền của dân”.

Thuế là một nguồn thu quan trọng giúp Nhà nước có nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế và vào các lĩnh vực quan trọng khác như giáo dục, y tế, giao thông, bảo vệ môi trường, … Những lĩnh vực này có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống và cơ hội phát triển của người dân. Các khoản ngân sách từ thuế được dành cho các bệnh viện công, trường học và các chính sách bảo trợ xã hội nhằm hỗ trợ người nghèo, người yếu thế và người lao động. Đây là những minh chứng rõ ràng cho việc sử dụng nguồn thuế đúng mục đích và hợp lý. Thực tế, nhiều người dân, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn, đã được hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ về y tế, giáo dục và an sinh xã hội do ngân sách nhà nước tài trợ.

Một phần ngân sách từ thuế được dành cho việc đảm bảo quốc phòng và an ninh – yếu tố quan trọng để bảo vệ đất nước và giữ gìn môi trường ổn định cho người dân làm ăn, sinh sống. Chi phí cho quốc phòng không chỉ là bảo vệ lãnh thổ mà còn là bảo vệ lợi ích của nhân dân trước các mối đe dọa, cả từ trong và ngoài nước, từ đó tạo nên môi trường an toàn cho người dân làm ăn, sinh sống và phát triển. Việc đóng thuế không chỉ là nghĩa vụ mà còn là sự đóng góp của mỗi cá nhân, tổ chức vào sự phát triển của xã hội, để mọi người được hưởng các dịch vụ và tiện ích công cộng. Việc chỉ trích rằng “tiền của nhân dân là để nuôi các bộ máy cồng kềnh của Chính phủ” là thiếu cơ sở.

Để bảo đảm tính pháp lý, sử dụng ngân sách Nhà nước có hiệu quả, Nhà nước đã quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính… cũng như các bộ, ban, ngành trong thực hiện công tác chi ngân sách Nhà nước, mức chi ngân sách Nhà nước; lộ trình, quy định, thời gian quyết toán ngân sách Nhà nước… rất công khai, minh bạch, có căn cứ, cơ sở rõ ràng… không có chuyện ai muốn chi gì và ai muốn đề xuất chi như thế nào là được như thế, tất cả phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt và phải theo quy định của pháp luật.

Hơn nữa, Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp mạnh mẽ nhằm cải cách hành chính, giảm bớt biên chế và tinh gọn bộ máy. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm ngân sách mà còn nâng cao hiệu quả làm việc của bộ máy công quyền, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Những cải cách này là minh chứng cho thấy Chính phủ đang từng bước tối ưu hóa và sử dụng ngân sách một cách hiệu quả. Do đó, những quan điểm cho rằng bộ máy nhà nước cồng kềnh và tiêu tốn tiền thuế của dân là không phù hợp với thực tế và không nhìn nhận sự tiến bộ của hệ thống hành chính hiện nay.

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, khi tiếp cận những thông tin trên mạng internet, mạng xã hội nói chung, thông tin về chi ngân sách Nhà nước nói riêng, hãy nêu cao tinh thần cảnh giác, biết chọn lọc thông tin, chủ động, tích cực đấu tranh, phản bác với những thông tin xấu độc… để qua đó góp phần bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ nhân dân; hãy tin tưởng vào chính sách và đường lối của Đảng, Nhà nước ta.

SỰ KIỆN LỊCH SỬ NGÀY NÀY NĂM XƯA

 


 Cách đây 78 năm, Ngày 05/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo văn kiện quan trọng “Công việc khẩn cấp bây giờ” trong đó xác định hai nội dung quan trọng là “Kháng chiến kiến quốc” và “Trường kỳ kháng chiến”, coi đó là hai tư tưởng quán triệt toàn bộ công cuộc bảo vệ nền độc lập vào thời điểm nghiêm trọng này với những định hướng cụ thể: “Tổ chức du kích khắp nơi. Tăng gia sản xuất khắp nơi. Dù phải rút khỏi các thành phố, ta cũng không cần. Ta sẽ giữ tất cả thôn quê. Khi chỉ có hai bàn tay trắng, với một số đồng chí bí mật, le lói trong rừng, ta còn gây nên cơ sở kháng Nhật, kháng Pháp. Huống gì bây giờ, ta có quân đội, có nhân dân. Nam Bộ, địa thế khó, chuẩn bị kém, mà kháng chiến đã hơn một năm. Ta địa thế tốt, lực lượng nhiều hơn, nhất định kháng chiến được mấy năm, đến thắng lợi”.

Văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” của Bác là cơ sở quan trọng để Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong bối cảnh đất nước cực kỳ khó khăn sau khi giành được độc lập năm 1945; góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gianh thắng lợi vẻ vang.

Kỷ niệm 78 năm Ngày Bác Hồ soạn thảo văn kiện quan trọng “Công việc khẩn cấp bây giờ” (05/11/1946 - 05/11/2024), là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, nhân viên, chiến sĩ tiếp tục bày tỏ lòng thành kính, tri ân, niềm tự hào, niềm tin son sắt về Đảng quang vinh, về sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dân tộc Việt Nam anh hùng; khẳng định vai trò, sứ mệnh, sự cống hiến của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc, dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bày tỏ khát vọng, lòng yêu chuộng hòa bình và quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục vượt qua khó khăn, thách thức, chung sức đồng lòng, nỗ lực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; thi đua lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Quân đội lần thứ XII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

NGHỆ THUẬT DỤNG BINH THẦN TỐC, TÁO BẠO CỦA QUANG TRUNG-NGUYỄN HUỆ

 


Không ngạo nghễ như Caesar - một vị hoàng đế La Mã cổ đại - nhưng Quang Trung hoàng đế có một niềm tin mạnh mẽ vào chiến thắng cuối cùng mà đội quân của ông có thể giành được trước kẻ thù. Đó là những chiến thắng được xây dựng từ nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo và nắm chắc thời cơ.

Thế kỷ 16, Đại Việt chìm trong chia cắt: hết cuộc chiến giữa tập đoàn phong kiến Trịnh-Mạc cho đến cuộc đối đầu triền miên giữa dòng họ Trịnh-Nguyễn. Cuối thế kỷ, cục diện đàng trong đàng ngoài chính thức hình thành và kéo dài mãi từ đó đến gần hai thế kỷ sau.

Đất nước lâm nguy, vua chúa cả hai miền chỉ lo vơ vét của cải, ăn chơi hưởng lạc, khiến nhân dân lầm than. Trong bối cảnh ấy, không ít cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Tuy nhiên, chưa cuộc khởi nghĩa nào thắng lợi.

Năm 1771, trên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (An Khê, Gia Lai ngày nay), 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa. Được nhân dân ủng hộ, trong vòng 12 năm, từ 1777-1789, nghĩa quân Tây Sơn liên tiếp lập nên những chiến công hiển hách: lật đổ 2 tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn; đánh tan 5 vạn quân Xiêm và đè bẹp 29 vạn quân Thanh Xâm lược.

Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ đã không chỉ chứng tỏ mình là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc mà còn là một nhà cầm quân tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được.

Táo bạo - Đòn phủ đầu không ngờ

Một trong những điểm nổi bật trong cách dụng binh của Nguyễn Huệ là sự kết hợp giữa tài chỉ huy quân sự và tính cách cá nhân: táo bạo, thần tốc và vô cùng tự tin.

Trong cuộc phản kích tiêu diệt quân Xiêm (1785), thay vì chọn khúc sông Mỹ Tho có địa hình thuận lợi cho việc phục kích như đoạn từ Cái Bè đến Bình Chánh Đông, ông lại chọn khúc Rạch Gầm - Xoài Mút - một khúc sông rộng và địa hình trắc trở hơn để đặt phục binh.

Còn trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long tiêu diệt 29 vạn quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung - chọn cách tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố phòng cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì chúng đinh ninh rằng mình ít có khả năng bị tấn công, thế nên ông đã quyết định ra đòn phủ đầu.

Đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất chóng vánh: chỉ trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi tiêu diệt hoàn toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết).

Biến thần tốc thành sức mạnh

Nhưng sự táo bạo chỉ phát huy được sức mạnh của nó nếu cuộc tấn công được triển khai nhanh chóng, thần tốc và bất ngờ.

Bốn năm sau trận chiến một ngày ở Rạch Gầm - Xoài Mút, đội quân của Nguyễn Huệ lại làm nên một điển hình mẫu mực trong lần truy diệt 29 vạn quân Thanh năm 1789.

Nếu không tính đến cuộc hành quân nhanh kỳ lạ và đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi của đội quân Tây Sơn từ Phú Xuân ra Bắc, thì chỉ nguyên cuộc phản kích quân Thanh trong vòng 6 ngày Tết Kỷ Dậu 1789 cũng đã là một bài học tuyệt vời trong kho tàng nghệ thuật quân sự.

Đêm 30 tết, quân Tây Sơn bí mật vượt sông Gián Khẩu, tiêu diệt gọn địch ở đồn tiền tiêu và cả nhóm quân do thám. Đêm mồng 3 tết, quân của ông bí mật vây đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Quân giặc bất ngờ, hoảng sợ hạ khí giới đầu hàng. Mờ sáng 5 tết, trong khi cánh quân Tây Sơn do đích thân Quang Trung chỉ huy bắt đầu tấn công đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) thì một cánh quân Tây Sơn khác nhắm thẳng vào đồn Đống Đa (Hà Nội).

Cùng lúc với hai chiến thắng đó là hàng loạt chiến thắng khác: chiến thắng Đại Áng, chiến thắng Đầm Mực, chiến thắng Nhân Mục, chiến thắng Hạ Yên Quyết. Các cuộc tấn công trên đều diễn ra một cách nhanh chóng và dồn dập đến độ quân Thanh không kịp trở tay. Chúng không còn có thời gian để thông báo, hỗ trợ hay ứng cứu nhau.

Cách đánh bất ngờ, thần tốc này luôn là tâm điểm trong binh pháp của ông. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần. Hơn thế nữa, không chỉ là người "nhạy cảm" với thời cơ, ông còn biết cách tạo ra thời cơ để tận dụng tối đa thế mạnh của mình.

Nắm chắc thời cơ

Cuối năm 1788, quân Thanh đưa quân vào nước ta dưới danh nghĩa giúp nhà Lê dẹp loạn. Với sự bảo trợ của vua Lê Chiêu Thống, cánh quân Thanh được nhiều nhân sĩ trung thành với nhà Lê ủng hộ, nhân dân Thăng Long chưa biết nên theo ai: Tây Sơn hay vua Lê. Tình thế hoàn toàn bất lợi cho quân Tây Sơn.

Nhận được tin Lê Chiêu Thống "mời giặc vào nhà", Nguyễn Huệ nhanh chóng làm lễ, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngay sau đó, ông tập hợp quân đội, Bắc tiến, diệt quân Thanh. Tất cả những chuyện lên ngôi hoàng đế, triệu tập quân đội, rồi xuất binh chỉ diễn ra trong vòng.. 1 ngày.

Với một vị tướng nhiều kinh nghiệm trận mạc, hoàng đế Quang Trung đã nhìn thấy: đây là thời cơ tốt để chinh phục lòng dân và tiêu diệt địch.

Sau này, trên đường ra bắc, ông đã dừng lại ở Nghệ An để lấy thêm quân và tham khảo ý kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp về thời cơ và cách đánh quân Thanh. Câu trả lời của Nguyễn Thiếp khiến Nguyễn Huệ rất ưng ý. Nguyễn Thiếp nói: "Quân Thanh đến từ xa không biết tình hình quân ta mạnh hay yếu thế nào, không biết thế nên chiến hay nên thù thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp không quá 10 ngày sẽ phá tan; nếu trì hoãn một chút thì khó lòng được nó".

Hơn thế nữa, quân Thanh sẽ sớm lộ rõ âm mưu xâm lược. Đó là lúc đội quân Tây Sơn sẽ có được sự ủng hộ và giúp sức của nhân dân.

Về phía giặc, sau khi vào Thăng Long dễ dàng, quân Tây Sơn thì đã rút mãi về tận Tam Điệp (Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hóa), lại thêm được nhiều quan quân nhà Lê ủng hộ, càng gần Tết, quân Thanh càng khinh đối thủ.

Tất cả những điều đó góp phần khẳng định: đó là thời cơ tốt nhất để tận diệt quân Thanh. Cùng với việc củng cố quân đội, đốc thúc việc hành quân nhanh chóng, ông còn lưu tâm đến việc làm kiêu binh địch, khiến địch ngày càng chủ quan, tự mãn. Sự thất bại của quân thù chỉ còn là vấn đề thời gian.

Lúc tuyển thêm binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã đưa lời dụ tướng sĩ:

"Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chính luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng tri hữu chủ"

Ông hối thúc ba quân hãy đánh sao cho quân thù không còn mảnh giáp, đánh sao cho chúng không còn đường về, đánh sao cho chúng nhận ra rằng nước Nam là có chủ. Và đội quân "cốt tinh, không cốt đông" của ông tiến vào Thăng Long đúng với khí thế ấy.

Hoàng Lê nhất thống chí miêu tả sự thất bại của quân Thanh: "Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết ..., thây ngổn ngang đầy đồng, máy chảy thành suối. Quân Thanh đại bại".

Những mũi tấn công sắc sảo của quân Tây Sơn luôn giáng cho quân địch những đòn chí mạng. Bởi thế, chỉ một trận Rạch Gầm - Xoài Mút mà quân Xiêm sau này "sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Còn nhà Thanh cũng tắt luôn âm mưu xâm lược nước Nam từ trận đại bại đó.

BÓC MẼ CHIÊU THỨC BÔI ĐEN HÌNH ẢNH BỘ ĐỘI CỤ HỒ NHẰM MƯU ĐỒ “PHI ĐẢNG HÓA” QUÂN ĐỘI

 


Trong thời gian vừa qua, tiếp tục lợi dụng một số quân nhân cấp tá, cấp tướng bị xử lý hình sự do vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, các thế lực thù địch, phản động ra sức rêu rao, vu cáo "Quân đội ta đã thoái hóa, biến chất...". Từ đó, chúng ra sức tuyên truyền rằng, “không cần phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ vì vô nghĩa”.

Đây là một trong những chiêu thức này vẫn chủ yếu là “Bổn cũ soạn lại”, cũ rích nhưng lại rất nguy hiểm được các thế lực thù địch ưu tiên khai thác, triệt để sử dụng nhằm tấn công trực diện để hạ bệ “thần tượng Hồ Chí Minh” trong Quân đội-một sự biến dạng đầy gian xảo của âm mưu, thủ đoạn "phi đảng hóa", “phi chính trị hóa” Quân đội.

Trong tâm thức Bộ đội Cụ Hồ và người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đẹp nhất, là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, vị lãnh tụ rất đỗi gần gũi, thân thương. Bác không chỉ là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mà còn là lãnh tụ tinh thần, niềm tin yêu, biểu tượng cao quý, thiêng liêng, nguồn cội của sự quy tụ, tập hợp, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; dẫn dắt quân và dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhờ có Bác, nhân dân ta có được cuộc sống hòa bình, hạnh phúc; đất nước ta có cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế to lớn như ngày nay.

Bộ đội ta rất vinh dự, tự hào được mang tên Bác kính yêu. Quân đội ta được thừa hưởng những tài sản đồ sộ và vô giá, được Bác trao truyền, để lại, luôn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của người quân nhân cách mạng, được cô đọng, kết tinh trong danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ trọn đời vì nước, vì dân. Vì lẽ đó, phẩm chất và hình tượng Bộ đội Cụ Hồ mang giá trị biểu trưng độc đáo, đặc sắc, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của Quân đội và nhân dân ta.

Với tầm ảnh hưởng sâu rộng và sự lan tỏa ngày càng to lớn của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế, điều đó đã làm cho các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị lo sợ, bất an. Họ hiểu rằng, chừng nào ở nước ta còn có Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, thì chừng ấy, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, "phi đảng hóa", “phi chính trị hóa” Quân đội không thể thực hiện được.

Hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức sâu sắc sự cần thiết phải đấu tranh, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi đảng hóa”, "phi chính trị hóa" Quân đội ta. Bài học kinh nghiệm về xây dựng quân đội trên thế giới kể từ khi chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu từ những năm 90 của thế kỷ 20 luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta hãy đề cao cảnh giác, không cho phép các thế lực thù địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc hình ảnh, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ dưới mọi hình thức; không được phép để xảy ra hiện tượng “phi đảng hóa”, "phi chính trị hóa" Quân đội trước mọi tình huống.

Việc đấu tranh, làm thất bại âm mưu "phi đảng hóa", “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch nhất thiết phải gắn chặt với việc bền bỉ giữ vững, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong tình hình mới. Điều đó đặt ra vô cùng cấp bách, cần thiết đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam; đặc biệt quan tâm hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.

Đây là nhiệm vụ “xây” trong mối quan hệ mật thiết với “chống”, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự khẳng định “còn Đảng còn mình”, “còn Bộ đội Cụ Hồ là còn chân lý, niềm tin và lẽ phải”, bởi nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, lợi ích quốc gia, dân tộc và uy tín, vị thế, danh dự Bộ đội Cụ Hồ.

Có thể nói rằng, “xây” đi đôi với “chống” vừa là áp lực, đồng thời là động lực để Quân đội ta hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Kết quả thực hiện nhiệm vụ này được quy định bởi chất lượng, hiệu quả phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và đấu tranh phòng, chống "phi đảng hóa", “phi chính trị hóa” Quân đội trong tình hình mới. Sự non kém của mặt này sẽ làm suy giảm mặt kia và ngược lại.

Cho nên, giữ gìn, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và đấu tranh phòng, chống "phi đảng hóa", “phi chính trị hóa” Quân đội là hai nhiệm vụ song hành, chung một mục tiêu, làm cho Quân đội ta luôn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đó là cái gốc vững chắc nhất, vũ khí sắc bén nhất, tạo nên sức mạnh nội sinh vô cùng mạnh mẽ để Quân đội ta bách chiến, bách thắng trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp trong tình hình mới.

CHÁN KHÔNG MUỐN TRẢ LỜI

 


Việt Tân đưa ra một câu hỏi thế mà mà ngay cả một giảng viên như tôi cũng cảm thấy là khá ngô nghê: "Tướng Công an làm Tổng Bí thư. Tướng Quân đội làm Chủ tịch nước. Kinh tế đất nước rồi sẽ đi về đâu?"

Như chúng ta cũng đã biết, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã bầu đồng chí Lương Cường - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2021-2026. Như vậy, tính đến thời điểm này, đất nước chúng ta có ba nhà lãnh đạo cấp cao trong tứ trụ từ lực lượng vũ trang.

Trở lại câu hỏi của Việt Tân, họ thắc mắc rằng: "Kinh tế đất nước rồi sẽ đi về đâu?". Thoạt nghe cứ tưởng họ lo cho vận mệnh của đất nước thật, nhưng hóa ra là trào lộng, châm chọc và có phần sợ hãi vì Công an, Quân đội lên lãnh đạo đất nước thì họ làm gì có cửa để "phục quốc".

Tôi không quá rành về câu chuyện chính trị, nhưng tôi biết chắc chắn chính trị phải được đặt lên hàng đầu, sau mới đến kinh tế và đất nước Việt Nam đã và đang là niềm mơ ước của rất nhiều quốc gia khác, đặc biệt là vấn đề về an ninh chính trị. Việt Nam đã trở thành niềm cảm hứng cho nhiều quốc gia khác trên thế giới noi theo.

Một đất nước mà cứ suốt ngày loạn lạc thì lấy đâu mà phát triển kinh tế được. Ở một số quốc gia trên thế giới như Ukraine, Isarel... là những minh chứng cụ thể, rõ ràng.

Còn cái việc "Kinh tế đất nước rồi sẽ đi về đâu?" thì xin lỗi tôi không cần trả lời. Tôi chỉ biết, khi chính trị đất nước ổn định thì tự khắc kinh tế sẽ phát triển.

 

MỘT SỐ BÀI HỌC TRONG THỰC HIỆN 
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI  CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI


Đường lối, chính sách đối ngoại của một Nhà nước quốc gia là tổng thể các quan điểm xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại mà quốc gia đó thể hiện trong quan hệ với các Nhà nước quốc gia và các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế nhằm mục đích thực hiện thắng lợi những lợi ích của quốc gia dân tộc và của giai cấp cầm quyền trong từng giai đoạn lịch sử. 
Đối với Việt Nam, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc chân chính, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của Nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Gần 40 năm đổi mới đã chứng mjnh công tác đối ngoại đã góp phần đưa đất nước đi đúng xu thế của thời đại, góp phần kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Với các nước lớn, Việt Nam đã xây dựng được các khuôn khổ quan hệ ổn định, cùng có lợi, phù hợp với lợi ích của đất nước về lâu dài. Các nước lớn cũng đặt Việt Nam ở vị trí ngày càng cao trong chiến lược của họ ở khu vực và trên thế giới. Với các nước láng giềng, chúng ta đã giữ được phên dậu, giữ được hòa hiếu, đã tìm ra hướng đi chung với láng giềng, kể cả trong những lĩnh vực nhạy cảm (ví dụ như trong vấn đề Mê-công với Lào). Với các cơ chế đa phương, Việt Nam đã mở ra không gian rộng lớn hơn để có thể tham gia ngày càng sâu rộng, chủ động hơn, có thể đóng vai trò lớn hơn, đóng góp thực chất hơn, đồng thời phục vụ thiết thực với việc bảo vệ lợi ích quốc gia. Công tác đối ngoại đã đồng đều hơn và có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các lĩnh vực (ngoại giao chính trị, kinh tế, văn hóa) trên các kênh (ngoại giao Đảng, Nhà nước, Quốc hội, đối ngoại nhân dân).
Tính đến thời điểm hiện nay, mạng lưới đối tác chiến lược/đối tác toàn diện chiếm 59% dân số, 61% GDP, 68% thương mại toàn cầu, đóng vai trò quan trọng đối với an ninh và phát triển của ta. Các đối tác này chiếm 8/10 thị trường xuất khẩu chính, với 60,7% tổng giá trị xuất khẩu; 9/10 thị trường nhập khẩu chính với 74,7% tổng giá trị nhập khẩu; 76,7% tổng lượng du khách; đóng góp 74% FDI tại Việt Nam.. Về trung và dài hạn, Việt Nam được dự báo là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trở thành nền kinh tế có mức thu nhập trung bình cao vào khoảng 2030. Theo dự báo của OECD, Việt Nam có khả năng gia nhập nhóm các nước phát triển OECD vào khoảng 2050. 
Từ thực tiễn hoạt động đối ngoại gần 40 năm qua với những thành tựu và hạn chế, có thể rút ra một số bài học sau:
Thứ nhất, mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là vì lợi ích quốc gia – dân tộc.
Thứ hai, kết hợp hài hòa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dân tộc với quốc tế.
Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế.
Thứ tư, kiên định về nguyên tắc chiến lược nhưng mềm dẻo, cơ động, linh hoạt, sáng tạo trong xử lý tình huống theo tinh thần “ngoại giao cây tre”.
Thứ năm, triển khai hoạt động đối ngoại một cách toàn diện.
Trong thế giới ngày nay, quá trình toàn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới và khu vực đã đặt ra những hoàn cảnh mới của việc chúng ta theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc. Hoạt động đối ngoại sẽ diễn ra trên mọi lĩnh vực, đòi hỏi những vấn đề mới đối với việc hoạch định và triển khai công tác đối ngoại.. Do vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước./.

Hoàng Sâm - Người đội trưởng mưu lược, quyết đoán

 

Thiếu tướng Hoàng Sâm tên thật là Trần Văn Kỳ - là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cộng sản kiên trung, mẫu mực, người con ưu tú của dân tộc ta. Qua nhiều cương vị lãnh đạo, chỉ huy, chiến đấu và công tác, ông luôn tập trung tinh thần, trí tuệ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó.

Thiếu tướng Hoàng Sâm là “một cán bộ chính trị, quân sự song toàn, có đạo đức, có tài năng, một đảng viên ưu tú của Đảng Lao động Việt Nam, một cán bộ chỉ huy giỏi của Quân đội ta”(1) thời đại Hồ Chí Minh. Ông là người được Bác đặt cho bí danh này và cũng được Bác chọn lựa, chỉ định làm Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Mưu lược, tài chỉ huy vô cùng khéo léo, quyết đoán của ông khi còn làm Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã được thực tiễn lịch sử khẳng định, không thể phủ nhận.

Thứ nhất, dẫn đầu và chỉ huy một đội quân 34 người, kể cả ông trong điều kiện thiếu thốn về vũ khí trang bị, đạn dược ít, khó khăn về lương thực, thực phẩm; lại hầu như chưa được huấn luyện bài bản về kỹ chiến thuật chiến đấu; chỉ sau hai ngày thành lập mà liên tiếp giành được thắng lợi trong hai trận Phai Khắt, Nà Ngần trước một đội quân được huấn luyện bài bản hơn, đông hơn, được vũ khí trang bị tốt hơn do những viên sĩ quan Pháp của quân đội nhà nghề trực tiếp chỉ huy.

Quân ta đã thắng địch bằng mưu trí, chứ không hoàn toàn dựa vào sức mạnh của vũ khí, đạn dược. Trong điều kiện thực lực quân ta chưa mạnh, vũ khí, đạn dược ít, lại phải đối mặt đánh với đội quân được huấn luyện bài bản, vũ khí trang bị hơn gấp bội mà giành được thắng lợi. Tiếp đó, dưới sự chỉ huy tài tình, khéo léo của ông, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không chỉ duy trì, bảo tồn được thực lực mà còn không ngừng phát triển, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Xứng đáng “là đội quân đàn anh… Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”(2) đúng như kỳ vọng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Vũ khí ngày đầu thành lập, Đội chỉ có 2 khẩu súng thập, 17 khẩu súng trường, 14 khẩu súng kíp. Ngoài ra, có 1 khẩu súng tiểu liên Mỹ Sub Machine-gun, 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, 1 hộp bom nổ chậm, 5.000 đồng Đông Dương.

Điều kiện con người, vật chất chỉ có vậy; trong khi Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh là “Ra quân trận đầu nhất định phải thắng”, nên áp lực của “thành công” phụ thuộc vào tài chọn phương án tác chiến phù hợp với khả năng và sát tình thế. Ông cùng lãnh đạo Đội chọn tập kích là hình thức tác chiến chính vào hai đồn Phai Khắt, Nà Ngần. Tuy nhiên, nhấn mạnh phải thật bí mật, bất ngờ.

Mưu trí của Ban Chỉ huy Đội là sử dụng trinh sát đồn Phai Khắt - một thiếu niên tên Hồng chỉ mới 12 tuổi, lợi dụng công việc mang bánh, rượu cho tên đồn trưởng, tránh cho tên đồn trưởng và đội quân đồn Phai Khắt không nghi ngờ, mất cảnh giác để nắm sát tình hình địch, ra báo cáo đúng, kịp thời với Ban Chỉ huy đội. Tài cải trang, nghi binh lừa địch của Đội cũng đạt tới nghệ thuật. Toàn Đội cải trang thành lính dõng và một số lính tập mang theo Giấy đi tuần giả do đồng chí Võ Nguyên Giáp đánh máy bên Tòa soạn báo Việt Nam Độc lập chia thành ba toán xâm nhập đồn địch trót lọt, không gặp bất cứ trở ngại nào. Giấy này có dấu giả, chữ ký khéo bắt chước tới mức, quân địch không hề nghi ngờ gì.

Tuy nhiên, để bảo đảm yếu tố bí mật và thành công cho trận đánh đồn Nà Ngần, sự linh hoạt trong công tác cải trang đã được chỉ huy Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đổi khác nhanh chóng. Ba du kích quân đóng giả người Dao bị quân du kích bắt được, trói giải lên đồn. Khi quân ta bằng giấy giả lọt được vào đồn trót lọt thì tên quản khố đỏ đã dậy sớm ngồi vào bàn làm việc, bị bắt đầu hàng, nhưng y sử dụng súng ngắn kháng cự lại và bị đồng chí Thu Sơn dùng tiểu liên tiêu diệt, bốn tên lính kháng cự cũng bị quân ta tiêu diệt bằng sáu viên đạn súng trường. Phương thức tác chiến của Đội khi đánh đồn Nà Ngần vẫn là cải trang thành lính địch đi tuần, tập kích bất ngờ, binh vận, dụ hàng, chỉ diệt địch khi cần. Nếu ở Phai Khắt, quân ta chỉ bất ngờ nổ súng diệt viên sĩ quan đồn trưởng Pháp, thì ở Nà Ngần, tình thế đã buộc quân ta phải nổ súng diệt một tên sĩ quan và bốn lính kháng cự. Trận đánh đồn Nà Ngần diễn ra vẻn vẹn trong dăm phút. Toàn Đội rút lui an toàn. Hàng binh địch xin trở về quê hương làm ăn được trợ cấp lộ phí.

Nhờ mưu trí tổ chức trinh sát mục tiêu và cải trang lừa địch hiệu quả; công tác chuẩn bị khoa học, chu đáo, chặt chẽ đã tạo cho Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thế tiến công địch hoàn toàn bất ngờ để đột nhập đồn, diệt địch, thu vũ khí. Tiểu đội trưởng Thu Sơn mặc bộ kaki lính tập, xách tiểu liên đi đầu, đưa “giấy đi tuần”. Một tiểu đội đi theo tiến thẳng vào kho súng. Tiểu đội khác nhanh chóng tỏa ra bao vây đồn Phai Khắt. Đồng chí Thu Sơn hô tiếng Pháp “Rátsămmăng” (tập hợp). 17 lính và 1 cai tập hợp lại. Các chiến sĩ Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân chĩa súng, buộc địch đầu hàng. Trong lúc đó, tên đồn trưởng Pháp đang trên đường Nguyên Bình - Phai Khắt về đồn, bị một chiến sĩ ta nổ súng tiêu diệt. Sau khi thu chiến lợi phẩm, động viên nhân dân, Đội tổ chức rút lui an toàn. Toàn đội đã thực hiện đúng căn dặn của Lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với Đội khi tiễn đồng chí Võ Nguyên Giáp trở về tổng Hoàng Hoa Thám để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân: “Phải nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng là ở Tây. Lai vô ảnh, khứ vô hình” (3).

Hai chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã biểu hiện rõ nét tinh thần “Quyết chiến, quyết thắng”; mưu lược, tài chỉ huy vô cùng khéo léo, quyết đoán của Đội trưởng Hoàng Sâm; lòng yêu nước và dũng khí toàn thể đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân; mở đầu truyền thống đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của Quân đội ta; góp phần thực hiện được phương châm “Lấy chiến thắng để tuyên truyền vũ trang. Lấy tuyên truyền vũ trang để giành chiến thắng mới” như Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị.

Thứ hai, Chỉ đạo, chỉ huy Đội Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không chỉ bảo tồn được thực lực mà còn không ngừng phát triển, cùng với các đội vũ trang cách mạng khác hợp nhất trở thành Việt Nam Giải phóng quân.

Sau những trận thắng đầu tiên đó, thực dân Pháp tiếp theo là phát xít Nhật đã thực thi trăm phương ngàn kế nhằm tiêu diệt đội quân chủ lực này, nhưng đội quân chủ lực này được đồng bào các dân tộc chở che, giúp đỡ; sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng; sự dẫn dắt, chỉ huy tài ba của Đội trưởng Hoàng Sâm tiếp tục trụ vững và không ngừng phát triển. Lực lượng Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không còn chỉ là vài trung đội, đại đội mà đã phát triển thành nhiều đại đội.

Cuối tháng 4 năm 1945, các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã giải phóng hầu hết các xã, châu, huyện ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang. Ngày 20 tháng 4 năm 1945, cánh Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân gặp Cứu quốc quân ở Bảo Lạc, Thất Khê xuống cùng đánh chiếm Văn Mịch. Ngày 1 tháng 5, tiếp tục giải phóng Bằng Mạc. Cánh quân của Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân trên đường tiến từ Bảo Lạc về Thất Khê đã tước được hàng nghìn khẩu súng (có cả súng cối, súng máy, đại bác) và rất nhiều lừa, ngựa của các đoàn quân Pháp nối nhau chạy qua biên giới Việt - Trung.

Có những bộ phận quân Pháp ngoan cố chống cự đã bị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đánh bại, tước toàn bộ vũ khí như ở Trà Lĩnh, Mã Phục (Cao Bằng). Tiến đến đâu, các đội quân đều phối hợp với cơ sở cứu quốc địa phương tước vũ khí lính dõng, thu bằng, triện của bọn tổng lý, trừng trị bọn việt gian đầu sỏ, thành lập chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển các hội cứu quốc, xây dựng các đội tự vệ chiến đấu và du kích để bảo vệ chính quyền cách mạng mới được thành lập.

Trước tình thế cách mạng chín muồi, ngày 15 tháng 4 năm 1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng chủ trì, quyết định thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân cùng các tổ chức vũ trang khác, thành lập Việt Nam Giải phóng quân để cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Ngày 15 tháng 5 năm 1945, tại Định Biên Thượng, Chợ Chu, Thái Nguyên, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được hợp nhất với các đơn vị Cứu quốc quân thành đội chủ lực của Việt Nam Giải phóng quân. Lực lượng lên tới 13 đại đội. Ở một số tỉnh, huyện cũng tổ chức nhiều trung đội, đại đội Giải phóng quân khác. Đó là một đội ngũ vũ trang được rèn luyện trong lò lửa đấu tranh cách mạng. Hầu hết đội viên Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã trở thành những cán bộ chỉ huy tài ba của Quân đội ta sau này. 

Như vậy, do yêu cầu của bối cảnh, điều kiện cách mạng đã chín muồi, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Và dưới sự chỉ huy mưu lược, tài ba, quyết đoán của Đội trưởng Hoàng Sâm. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã không ngừng phát triển, khẳng định vị thế của đội quân chủ lực đầu tiên và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của Trung ương Đảng và nhân dân giao phó. Tháng 1 năm 1948, Đội trưởng Hoàng Sâm khi đó giữ chức vụ Khu trưởng Chiến khu II đã được phong hàm Thiếu tướng ngay đợt đầu tiên phong tướng của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.