Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024
BÁT NHÁO “THỢ SĂN” TEMU
Nhân đạo hóa con người
Không ngẫu nhiên
mà từ nhiều năm nay, nhân loại lấy ngày 8-5 hằng năm là Ngày Chữ thập đỏ và
Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế, với mong muốn tôn vinh và chia sẻ, lan tỏa những
việc làm nhân đạo, tốt đẹp dành cho con người.
Văn học nghệ thuật chân chính luôn đặt việc nhân đạo
hóa con người vào vị trí trung tâm. Là tiếng nói của tình cảm, văn chương lấy
hình tượng đậm chất cảm xúc làm phương tiện để đánh thức và nhân lên cảm xúc
nhân văn nên phải lấy con người làm gốc. Trước nay một tác phẩm giá trị luôn
hướng con người đến cái cao cả, cái thiện, cái tốt, cái đẹp. Tình yêu con người
vừa là động lực, vừa là mục tiêu cũng là nguồn cảm hứng căn bản nhất thúc đẩy
các nhà văn miêu tả, phản ánh, sáng tạo.
Ngày nay thế giới coi sự biết lắng nghe nhau là một
yếu tố của khoan dung hòa giải văn hóa. Đó cũng là một biểu hiện của tính
người, là sự thể hiện cụ thể tinh thần dân chủ, bình đẳng giữa người với người.
Nhưng biết lắng nghe là cả một năng lực văn hóa bởi về
bản chất đấy là một quá trình tiếp nhận, do vậy, phải có vốn sống, vốn tri
thức, chính trị… để phân tích, tiếp nhận, phản biện. Trong cuộc đối thoại văn
hóa toàn cầu thì nghe và biết lắng nghe là những cơ sở mang tính nền tảng quan
trọng. Vì có thấu hiểu về nhau mới thấu cảm lòng nhau. Hồ Xuân Hương là nhà thơ
nhân đạo lớn ở chỗ bà đã chứng minh một quy luật nghệ thuật, nghệ sĩ trước hết
phải biết lắng nghe bước đi, dù nhỏ nhất của sự vật mới có thể nắm bắt được bản
chất cuộc sống. Điều này lý giải thơ bà rất nhạy cảm với hình tượng âm thanh.
Hai chữ văng vẳng không chỉ văng vẳng trong thơ mà còn văng vẳng cái đau khổ,
cái bất lực, cái khát khao bị kìm nén ở thời đại ấy: Tiếng gà văng vẳng
gáy trên bom; Canh khua văng vẳng trống canh dồn; Văng vẳng tai nghe tiếng khóc
chồng. Và còn biết bao nhiêu từ tượng thanh khác, có bài được âm thanh hóa từ
sự vật vô thanh: Mõ thảm không khua mà cũng cốc/ Chuông sầu chẳng đánh cớ
sao om. Đấy là Hồ Xuân Hương lắng nghe tiếng lòng mình cay đắng để mà đối thoại
với “thân” chưa chịu già. Vì vậy mà hình tượng không gian đêm khuya lại xuất
hiện nhiều trong thơ “Bà Chúa thơ Nôm”...
Do phải sống trong 4 bức tường nhà lao nên người tù Hồ
Chí Minh tiếp xúc với thế giới bên ngoài chủ yếu bằng thính giác, cũng đồng
thời lắng nghe mình nhiều nhất nên âm thanh trong “Nhật ký trong tù” là một
hình tượng đặc biệt. Trong đêm tối xà lim người tù vĩ đại bỗng nghe thấy một
tiếng sáo nhớ quê. Âm thanh ấy trở thành khúc đồng vọng của những tâm hồn. Nước
non xa cách ngàn trùng, nỗi nhớ khôn nguôi, cảm thương vô hạn, vợ người tù bước
lên một tầng lầu nữa, cố nhìn trong vô vọng hình bóng người chồng. Truyền
thuyết nước Việt kể nàng “Vọng phu” trèo lên tận đỉnh núi cao ngóng chồng trong
khắc khoải chờ đợi mỏi mòn bao năm tháng. Cùng hoàn cảnh ấy, tâm trạng ấy, nàng
“Vọng phu” phương Bắc cũng cố trèo lên lầu cao. Với sự đồng cảm sâu sắc nhà thơ
Hồ Chí Minh đã tạc bằng ngôn ngữ thơ một hình tượng “nàng Tô Thị” xứ Trung Hoa.
Thì ra văn chương không có biên giới bởi cùng một mẫu số chung là tình thương.
Nhà thơ nghe thấy tiếng khóc của đứa bé nửa tuổi, khóc
trong tù ngục nên tiếng khóc trở nên đặc biệt. Vì “Cha trốn không đi lính nước
nhà!”. Bao ý nghĩa toát lên từ hình tượng này: Là sự mỉa mai đả kích xã hội
thật thiếu công bằng; là phê phán thói dã man đối với phụ nữ; là lên án đả kích
xã hội phi nhân tính bắt cả đứa trẻ mới đẻ vào tù. Phải có một tâm hồn giàu yêu
thương, giàu lòng trắc ẩn, khoan dung và luôn tôn trọng con người mới có thể
biết lắng nghe lòng con trẻ… Không có sự mẫn cảm của một thiên tài nghệ thuật
không thể nghe được như vậy. Nhà thơ Hồ Chí Minh sâu sắc, tinh tế và nhân ái
biết bao!
Đó là những tiếng thơ làm con người lớn lên về lòng
yêu thương, về tình người, lòng cảm thông, sự sẻ chia...
Làm gì để văn chương hôm nay “nhân đạo hóa” con người
đậm đà hơn, tinh tế hơn? Phải đằm sâu vào cuộc đời lấy cái tốt đẹp nhân lên cái
tốt đẹp, lấy sự yêu thương nhân lên sự yêu thương. Phải biết nâng đỡ những mảnh
đời thiếu may mắn. Phải tìm thấy vẻ đẹp vàng ngọc trong những tấm lòng chân
chất chân quê. Phải tránh xa, tẩy trừ những thứ văn chương rẻ rúng, hạ thấp con
người...
Có thể khẳng định rằng, thời nào cũng vậy, nhân đạo
hóa con người-đó là sứ mệnh cao cả và cái đích đến của văn chương.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐẢNG TỪ "SỔ TAY ĐẢNG VIÊN ĐIỆN TỬ"
Một ngành công nghiệp không chỉ mang giá trị kinh tế
Một ngành công nghiệp thường tạo ra các sản phẩm mang giá trị thuần túy về mặt kinh tế. Nhưng CNVH mang tới hai giá trị: Kinh tế và tinh thần. Hai giá trị này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Văn hóa là điều kiện, cơ sở để thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, kinh tế tạo ra tiềm lực vật chất để phát triển văn hóa, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Trong ngành CNVH, giá trị kinh tế có thể đong đếm bằng con số, còn giá trị tinh thần là không có giới hạn. Một sản phẩm văn hóa có khả năng tác động mạnh mẽ tới nền tảng tinh thần xã hội. Một biểu tượng văn hóa có thể làm thay đổi cả lối sống, tư duy, tình cảm của cả một thế hệ. Vì thế, xây dựng một ngành CNVH với mục tiêu kép (phát triển kinh tế và bảo vệ nền tảng xã hội lành mạnh) là xu hướng tất yếu trong thời kỳ Việt Nam tăng tốc phát triển bền vững.
Đi sau về xây dựng, phát triển CNVH nhưng Việt Nam vẫn có thể trở thành một trung tâm công nghiệp sáng tạo văn hóa tầm cỡ khu vực. Nhiều chuyên gia cho rằng, tiềm năng và cơ hội phát triển CNVH ở Việt Nam được ví như “mỏ vàng” cần sớm được khai thác. Hiện nay, với quy mô dân số hơn 96 triệu người, trong đó, lực lượng lao động khoảng hơn 50 triệu người; hằng năm, trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, đây là nguồn lực chính trong quá trình lao động sáng tạo, tạo ra lượng sản phẩm văn hóa dồi dào ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, nhất là thủ công mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống (gốm, lụa, tranh, gỗ), các loại hình nghệ thuật dân gian, văn hóa ẩm thực… ở nước ta. Dân số đông, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm văn hóa lớn tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, phong phú, kích thích thị trường phát triển sôi động. Cùng đó, dù chưa thực sự mạnh mẽ nhưng hoạt động xuất khẩu văn hóa của Việt Nam cũng có những bước phát triển khá nhanh chóng. Trong đó, đặc biệt là sản phẩm thời trang Việt đã gây được tiếng vang tại những “kinh đô thời trang” thế giới. Hay văn hóa ẩm thực Việt đang tạo ra những “cơn sốt” tại nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ.
Để phát triển ngành CNVH, điều kiện đầu tiên, mang ý nghĩa quyết định là khả năng đầu tư. Hiện nay, ở nước ta, mức chi cho hoạt động văn hóa chiếm khoảng 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm. Nhà nước hỗ trợ tài chính cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật bằng cách đầu tư từ nguồn ngân sách và xây dựng những thiết chế văn hóa gián tiếp hỗ trợ cho các hoạt động nghệ thuật thông qua chính sách về thuế. Theo đó, những tổ chức xã hội, nghề nghiệp hay những cá nhân đóng góp tài chính cho các hoạt động văn hóa đều được khấu trừ thuế, được hưởng miễn thuế tài sản và miễn thuế thu nhập khi đóng góp cho Nhà nước. Tuy nhiên, để ngành CNVH phát triển thì đầu tư xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ, kịch bản có chất lượng là cần thiết, nhưng cũng cần quan tâm đến việc tạo nên lực lượng công chúng có nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật đông đảo. Khi sức “cầu” tăng mạnh, tất yếu nguồn “cung” cũng tăng tương xứng.
Một vài năm gần đây, các chính sách về phát triển văn hóa ở ta đã chú ý hơn tới việc đào tạo công chúng nghệ thuật. Tuy nhiên, thực tế hoạt động này còn thiếu tính bài bản và tương đối nhỏ lẻ. Vì thế, trong chiến lược phát triển CNVH rất cần xem trọng hơn hoạt động giáo dục-đào tạo nhằm tạo sự phát triển từ cả hai phía cung-cầu.
Cũng ở lĩnh vực đầu tư, cùng hoạt động đầu tư bằng ngân sách nhà nước, chúng ta cần có thêm những chính sách khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước vào phát triển ngành CNVH. Thực tế, tại khu vực tư nhân đang xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp văn hóa, tập trung vào các ngành: Điện ảnh, xuất bản, nghệ thuật biểu diễn... Tuy nhiên, các doanh nghiệp văn hóa tư nhân chủ yếu mang quy mô nhỏ, chưa có khả năng tập hợp để tạo thành một trào lưu văn hóa, nghệ thuật nào đó. Bởi vậy, để bảo đảm và khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia ngành CNVH, ngoài các chính sách ưu đãi trong đầu tư, điều đặc biệt cần thiết là hoàn thiện hệ thống luật bảo hộ bản quyền. Sự yếu kém trong hệ thống luật bảo hộ hiện tại khiến các sản phẩm văn hóa Việt Nam không được bảo đảm các quyền cơ bản để cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, cản trở việc phát huy khả năng sáng tạo văn hóa.
Ở góc độ giao lưu, hợp tác quốc tế, trong giai đoạn hội nhập sâu, rộng như hiện nay, ngành CNVH Việt Nam không thể “một mình một chợ”. Nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa cần đẩy mạnh việc xây dựng, triển khai các chương trình quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp văn hóa Việt Nam tại các hội chợ quốc tế, liên hoan quốc tế; lồng ghép các chương trình quảng bá phát triển CNVH gắn với các sự kiện ngoại giao. Từ đó, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài.
Để gìn giữ, phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, sự gắn kết chặt chẽ chiến lược phát triển kinh tế với chiến lược phát triển văn hóa phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Bởi lẽ, văn hóa không đứng ngoài kinh tế, phát triển kinh tế bền vững không thể thiếu nền tảng văn hóa ổn định. Mặt khác, văn hóa không chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, mà còn là "hệ điều tiết" cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Năm 1943, từ khi cách mạng Việt
Nam còn trong trứng nước, Đảng ta đã có Đề cương Văn hóa với những nguyên tắc
có sức sống trường tồn. Đề cương Văn hóa năm 1943 lúc đó tập trung vào nhiệm vụ
cách mạng trước mắt là đưa văn hóa Việt Nam ra khỏi ảnh hưởng nô dịch của văn
hóa thực dân và phát xít, biến văn hóa Việt Nam từ chỗ bị động và tiêu cực trở
thành một nhân tố tinh thần lớn mạnh trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Đề
cương đã gắn liền nhiệm vụ giải phóng kinh tế, chính trị cho xã hội với nhiệm vụ
giải phóng cho con người.
Tháng 11-1946, tại Hội nghị Văn
hóa toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức ở Nhà hát Lớn Hà Nội, trong diễn văn
khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nhiệm vụ của văn hóa mới là phải lấy hạnh phúc
của đồng bào, sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh, đồng thời
phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa
mới Việt Nam với 3 tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Người nêu rõ vị
trí, ảnh hưởng của văn hóa, nghệ thuật trong việc giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng
con người Việt Nam yêu nước, độc lập, tự cường, tự chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đưa ra luận điểm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này trở thành
nguyên tắc chi phối, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá
trình phát triển văn hóa Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ nhận thức sâu sắc về một trong
những đặc điểm ưu việt của chủ nghĩa xã hội là tính nhân văn, trong sự nghiệp của
mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng văn hóa, xây dựng con người.
Và đó cũng là cơ sở lý luận-thực tiễn quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH).
Trong giai đoạn mới của sự nghiệp
cách mạng, Đảng ta tiếp tục tiếp thu quan điểm về văn hóa, con người của Hồ Chí
Minh, đồng thời sáng tạo, bổ sung một số tiêu chí mới phù hợp yêu cầu phát triển.
Đó là “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người
Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, “Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người
với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”. Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày
22-10-2018, của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã khẳng
định, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu
quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn
của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Trong thời kỳ đổi mới chúng ta
đã đi qua, văn hóa ngày càng có được sự gắn kết chặt chẽ hơn với các lĩnh vực của
đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị và tạo
nên những thành tựu về KT-XH, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… của đất nước. Tuy
nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng: So với yêu cầu ngày càng cao của
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những thành tựu và
tiến bộ mà chúng ta đã đạt được trong lĩnh vực phát triển văn hóa chưa thực sự
vững chắc; văn hóa chưa khẳng định được sức mạnh tạo dựng một nền tảng tinh thần
xã hội có khả năng miễn nhiễm trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường,
trước sự xâm nhập của các luồng văn hóa ngoại lai. Những sản phẩm văn hóa “made
in Vietnam” còn thiếu sức cạnh tranh, thậm chí bị lấn át ngay tại thị trường nội
địa. Những luồng văn hóa-tư tưởng ngoại lai vẫn tác động tiêu cực đến lối sống
của một số lượng không nhỏ người dân Việt, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu
niên. Từ đó, phát sinh ra nhiều hành vi phản văn hóa, ảnh hưởng đáng kể tới
công cuộc xây dựng nền tảng tinh thần xã hội.




