Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

TỔ CHỨC PHẢN ĐỘNG "VIỆT TÂN" LẠI XUYÊN TẠC VỤ RƠI MÁY BAY TRONG HUẤN LUYỆN CỦA KHÔNG QUÂN VIỆT NAM

 

Sự việc rơi máy bay trong huấn luyện của Lực lượngkhông quân thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam vào ngày8-11  sự cố rủi do,  thể xảy ra. Không chỉ ở Việt Nam, Quân đội các nước lớn như MỹNgachâu Âu đều từnggặp phải những sự cố như vậyngay cả khi trang bị của họthuộc hàng tiên tiến nhất thế giớiẤy vậy  "Việt Tânlạilu loa xuyên tạc hình ảnh của lực lượng Quân đội nhân dânViệt Nam, quả thực rất ức chếHuấn luyện quân sự  côngviệc khó khănnguy hiểmkhông phải chỉ cần " tiềnlàm được an toàn tuyệt đối.

Còn chuyện quân đội “nhận tiền để làm ” thì thật buồn cườiHọ không ngồi chơi xơi nước  thực hiệnnhiệm vụ bảo vệ đất nướcngày đêm luyện tập để sẵn sàngứng phó với mọi tình huống. Ai cũng hiểunếu không lực lượng quân đội vững mạnh thì ai sẽ đảm bảo cho cuộcsống yên bình của mọi ngườiVậy nênviệc “thắc mắc” vềngân sách quốc phòng kiểu này chỉ  cách cố tình gieonghi ngờ.

Nói thẳng ranhững luận điệu xuyên tạc như của "ViệtTân thiếu hiểu biết   . Ai cũng thấynhững ngườilính vẫn kiên cường đứng đầu gió bãoluôn đặt nhiệm vụlên trên hếtkể cả khi gặp phải nguy hiểmHọ  dám làmđiều tương tự không, hay chỉ giỏi ngồi phán xét  tung tin bịa đặtVậy nênđể cho  ràngcứ để quân đội làm việccủa họ để mọi người yên tâm, tin tưởng vào nhữngngười bảo vệ đất nước./.

THỰC CHẤT CỦA ĐA NGUYÊN ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ

 

Gần đây, các thế lực thù địch vẫn ra sức tuyên truyền, cổ súy cho cái gọi là “đa nguyên chính trị”, coi đây là “biện pháp cứu cánh” suy cho cùng cho dân chủ, nhân quyền ở các quốc gia tiến bộ trong đó có Việt Nam. Vậy thực chất “đa nguyên chính trị” là gì và thực sự trên thế giới có “đa nguyên chính trị”?

“Đa nguyên chính trị” là một khuynh hướng xã hội học - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu tranh chống độc quyền, bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, “đa nguyên chính trị” mất dần ý nghĩa ban đầu, trở thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phong “dân chủ” che đậy sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản.

Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, “đa nguyên chính trị” trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp tư sản chống các nhà nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân và các trào lưu tiến bộ trên thế giới bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân chủ vô chính phủ, chống nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng, nhằm vô hiệu hóa và từng bước đẩy Đảng Cộng sản khỏi vị trí lãnh đạo xã hội, đòi xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản - bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm, đảng phái đối lập, nhưng thực chất đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản.

Đề cập đến đến “đa nguyên chính trị” là nói đến hệ thống chính trị có nhiều cực, có nhiều đảng phái đại biểu cho những lợi ích đối lập nhau được tự do hoạt động, đó là một chế độ đa đảng. Chế độ đa đảng không phải là dấu hiệu của dân chủ, chế độ một đảng không phải là nguyên nhân của mất dân chủ. Cái gốc để bảo đảm dân chủ hay không dân chủ là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai. Dưới chủ nghĩa xã hội tư liệu sản xuất nằm trong tay nhân dân lao động và họ là người làm chủ xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản tư liệu sản xuất nằm trong tay một thiểu số nhà tư bản, nền dân chủ đó là quyền làm chủ của một nhóm tư bản độc quyền. Còn quần chúng nhân dân chỉ là những người bị thống trị.

Chế độ đa đảng trong hệ thống chính trị tư sản chỉ là sự phân chia quyền lực giữa các phe cánh của một đảng lớn duy nhất là đảng của những nhà tư bản độc quyền. Không có một nhà nước nào không phải là nhà nước chuyên chính của một giai cấp. Chỉ có giai cấp tư sản không dám công khai thừa nhận điều đó mà thôi. Thực chất, chế độ đa đảng ở phương Tây, kể cả nước Mỹ cũng dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, vì tất cả các đảng cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản, cho giai cấp tư sản. Qua tổng tuyển cử, đảng có đa số phiếu thì lập chính phủ điều hành công việc, các đảng khác là đối lập, mà chính các học giả tư sản gọi là đối lập trung thành, nghĩa là không thách thức các thể chế chủ yếu của chế độ tư bản, chỉ phê phán và phản đối một số chính sách cụ thể của chính phủ. Rõ ràng, tính nhất nguyên chính trị của nhà nước tư sản càng khẳng định không bao giờ được lãng quên tính giai cấp của nền dân chủ tư sản.

Như vậy, “đa nguyên chính trị” chỉ tồn tại trên lý thuyết, không có thật trong hiện thực. Các luận điểm cổ súy cho “đa nguyên chính trị” thực chất là đang tung hô cho “cái trên mây” chứ không phải “cái tồn tại thật”. Đó là điều phi lý.

VĂN HÓA XIN LỖI VÀ NHẬN LỖI

 

Chúng ta đều biết, văn hóa xin lỗi và nhận lỗi là một yếu tố quan trọng, góp phần làm nên văn hóa ứng xử của mỗi con người. Lời xin lỗi không đơn giản là biết lỗi và nhận lỗi mà nó còn thể hiện ý thức trách nhiệm của con người với cuộc sống, biết nhận trách nhiệm của mình đối với hậu quả do mình gây ra.

Thực tiễn cuộc sống hằng ngày, biết nói lời cảm ơn và xin lỗi là một nét văn hóa ứng xử, là hành động cần thiết trong cuộc sống.

Những người biết nói lời "xin lỗi" và biết nhận lỗi chân thành là những người có hiểu biết, có nhân cách và có trách nhiệm đối với xã hội. Còn những kẻ không biết xin lỗi, không dám nhận lỗi thường là những người kiêu ngạo, nhận thức kém, bảo thủ, ích kỷ, cố chấp và ý thức cộng đồng thấp. Đây là nguyên nhân rất dễ dẫn đến suy thoái về đạo đức lối sống, phai nhạt lý tưởng, tham ô tham nhũng, tiêu cực...Thời gian qua đã có một số cán bộ thực hiện sai các quy định của Nhà nước, vi phạm pháp luật, làm những việc có hại cho dân, khi bị phát hiện thì bao biện, lấp liếm khuyết điểm, hay tìm mọi cách chạy chọt để được giảm tội. Trong cuộc sống đời thường, nhiều người mắc lỗi lại không chịu nói lời "xin lỗi", mà còn gây sự, thách thức, làm mất đoàn kết nội bộ, bất ổn trong khu dân cư, trong đơn vị.

Người Việt Nam từ xưa đến nay đều răn dạy con trẻ phải biết “cảm ơn” khi được ai đó quan tâm, giúp đỡ và phải biết “xin lỗi” khi mắc phải những lỗi lầm, khuyết điểm. Đây là nét văn hóa trong phong cách ứng xử của con người. Biết nói lời xin lỗi là tự nhắc nhở mình trước những sai phạm, đồng thời hứa với người khác hành động này không còn tái diễn nữa.

Thời gian qua, nhiều tổ chức đảng, chính quyền đã có phong trào xây dựng nếp sống văn hóa công sở, sẵn sàng xin lỗi dân khi giải quyết các thủ tục hành chính chậm trễ, thái độ ứng xử chưa đúng mực hoặc có những sai lầm, khuyết điểm. Những việc làm này đã củng cố niềm tin trong nhân dân, góp phần xây dựng lề lối làm việc văn hóa, văn minh nơi công sở.

Chúng ta đều hiểu, một lời xin lỗi vụng về vẫn tốt hơn im lặng. Nhận ra lỗi lầm để sửa chữa, mong được tha thứ sẽ làm dịu cơn giận dữ hoặc nỗi đau của người khác. Lời xin lỗi chân thành có thể cứu vãn được sự việc đáng tiếc có thể đã xảy ra, nó giúp cho cuộc sống của chúng ta được an lành, hạnh phúc hơn.

Còn nhớ, tại Hội nghị lần thứ X, BCH Trung ương Đảng khóa II (tháng 11-1956), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Chính phủ thẳng thắn nhận khuyết điểm trước Quốc hội về những sai sót trong cải cách ruộng đất. Các kỳ đại hội sau này, Đảng ta cũng dũng cảm nhận một số khuyết điểm trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, khai mạc ngày 24 tháng 11 năm 2021, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, phát biểu tại Hội nghị, nhiều lần khẳng định vai trò lớn của văn hóa: "Văn hóa còn thì dân tộc còn". Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng mong muốn sau hội nghị này, công tác văn hóa sẽ có bước chuyển biến, tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên con đường chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc đã thành công tốt đẹp, là điều kiện rất tốt nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Vì thế, xây dựng văn hóa xin lỗi, nhận lỗi chính là góp phần xây dựng con người mới-con người có tri thức, đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao với xã hội, phục vụ tốt cho công cuộc phát triển và hội nhập của đất nước.

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN CHƯA BAO GIỜ LỖI THỜI

 

Thế giới ngày nay biến động vô cùng phức tạp, khoa học - công nghệ với những bước phát triển nhảy vọt đã làm thay đổi nhận thức nhiều giá trị lịch sử, đòi hỏi bất luận ở trong nước hay quốc tế đều phải tìm câu trả lời xác đáng cả về lý luận và thực tiễn để tự chuẩn bị cho mình về chính trị.

Trong bối cảnh như vậy, các chính đảng lấy chủ nghĩa Mác-LêNin làm nền tảng tư tưởng luôn phải đứng trước những thách thức lớn của thực tiễn và những vấn đề rất nan giải về lý luận. Các thế lực thù địch cho rằng chủ nghĩa Mác-Lê Nin đã lỗi thời, không còn vai trò chỉ đạo, soi đường đối với cách mạng và kiến thiết mà chỉ là học thuyết ảo tưởng về một xã hội không có thực, rằng chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là “giá trị đích thực”, là nấc thang tiến bộ nhất của nhân loại.

Vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin có phải đã lỗi thời?

Nhưng rõ ràng chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học xã hội, khoa học nhân văn, vì thế, nó mang đặc trưng tích lũy, kế thừa, chứ không mang đặc trưng thay thế như những tri thức thuộc ngành khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Do vậy, nói chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời là một sự quy chụp không có căn cứ. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ hiện đại ngày nay vốn không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản; ngược lại, nó làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm sâu sắc. Điều này được biểu hiện cụ thể trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại, như mâu thuẫn giữa tư bản và lao động tiếp tục tồn tại và gia tăng, khoảng cách giàu - nghèo mở rộng, phân phối của cải không công bằng, nạn thất nghiệp tăng lên, nhiều vấn đề xã hội trở nên trầm trọng... Trong khi đó, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ở xã hội xã hội chủ nghĩa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ sẽ góp phần nâng cao năng lực, phẩm chất và cơ hội phát triển tự do, toàn diện cho con người, đồng thời là cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết mở, luôn tiếp nhận những thành tựu lý luận mới và không ngừng hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn cuộc sống.

Trung thành với chủ nghĩa Mác-LêNin, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua đã “đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”, góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn nữa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê Nin.

VĂN HÓA XẤU ĐỘC LÀ KẺ THÙ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục âm mưu “đầu độc” nhân dân Việt Nam bằng phương thức, thủ đoạn mới với mục tiêu không thay đổi, bởi mục tiêu cuối cùng của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa Việt Nam phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

Để thực hiện hiệu quả âm mưu này, chúng đã lợi dụng tối đa những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại để phán tán, phổ biến sản phẩm văn hóa xấu độc trên không gian mạng nhằm đầu độc nhân dân ta, nhất là trên mạng internet và mạng xã hội với nhiều chiêu thức mới, tinh vi, xảo quyệt, thông các thủ đoạn chủ yếu như:

Chúng sử dụng các trang web, blog, các tài khoản mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo, các diễn đàn, báo điện tử, đài phát thanh để khuếch trương thanh thế, cổ xúy các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai cùng những hành vi phản nhân văn, phi tiến bộ để tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích những ham muốn vật chất tầm thường của mỗi người nhất và nhu cầu sử dụng internet và mạng xã hội. Qua đó, từng bước làm thay đổi ý thức xã hội, đạo đức, lối sống, làm cho một số người sao nhãng nghĩa vụ, trách nhiệm, phẩm chất đạo đức cách mạng để ngược lại khơi dậy bản năng thấp hèn, chạy theo lạc thú, lợi ích vật chất, chủ nghĩa cá nhân, chỉ lo “cái tôi” làm mờ nhân cách, chệch đạo lý, phi đạo nghĩa, quay lưng lại với truyền thống, thuần phong, mỹ tục và những giá trị hiện hữu tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta đã xây dựng hằng nghìn năm qua.

Thực chất đây là một phương thức tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Chúng tìm mọi cách phủ định hoặc làm hạn chế đến mức thấp nhất các giá trị tinh hoa văn hoá Việt Nam vốn là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay như: Phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa, làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước...

Tác động của các sản phẩm văn hóa xấu độc trên không gian mạng hết sức nguy hiểm, và có thể rất nghiêm trọng, nó làm thay đổi dần dần nhận thức của con người hiện nay và đến một giai đoạn nào đó sẽ thay đổi nhận thức là tất yếu, nên mỗi chúng ta cần có nhận thức nguy hại của văn hóa phẩm xấu độc đó là:

Một là, nhận thức một số bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiện nay có sự nhầm lẫn, sự ngộ nhận, hoang mang, dao động, thiếu niềm tin vào thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa, ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Hai là, tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, nguyên nhân làm băng hoại đạo đức, lối sống của một bộ phận trong xã hội, làm cho không ít cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí, hoang mang, dao động, xuất hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ nhận thức đến hành động.

Ba là, dưới tác động của mạng xã hội, thế giới ảo, thần tượng, ảo giác đã làm nảy sinh các “giang hồ mạng”, các nhân vật mang biểu tượng xấu, các sản phẩm phi đạo đức, phản văn hóa, đặc biệt nguy hiểm xuất hiện hiện tượng“đám đông” cực đoan, khó kiểm soát.

Bốn là, nguy cơ đồng nhất về văn hóa, lối sống và làm cho con người, nhất là thế hệ trẻ dễ bị thay đổi thói quen, thị hiếu, dễ tự “đánh mất” gốc gác văn hóa, truyền thống, lịch sử tổ tiên của ông cha mình đã đúc kết qua hằng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Năm là, Mấy năm trở lại đây, đã xuất hiện không ít hoạt động văn hóa giải trí có yếu tố nước ngoài, trong đó nhiều chương trình có biểu hiện lai căng, trái với thuần phong mỹ tục dân tộc, dễ làm cho công chúng ngộ nhận, mất phương hướng thẩm mỹ tích cực, thậm chí bị “tiêm nhiễm” những “vi-rút văn hóa độc hại” mà không hề hay biết. Thậm chí đội lớp văn hóa nghệ thuật để vận động, từ thiện nhưng thực chất đúng đằng sau đó là phần tử cơ hội, phản động để xuyên tạc sự thật, hạ thấp các cơ quan chức năng của Nhà nước; công kích bóp méo sự kiện sự thật thong qua hiệu ứng đám động….làm mất ổn định chính trị xã hội của nước ta.

Với sự phát triển mạnh mẽ của thời đại mới, đứng trước những tác động tiêu cực của các loại văn hóa độc hại đang xuất hiện và xâm nhập ngày càng nhiều, bên cạnh sự nỗ lực của các cơ quan, ban, ngành chức năng, hơn ai hết mỗi người trong chúng ta nhất là cán bộ, đảng viên kiên trung với lý tưởng cách mạng; hãy tự nâng cao tinh thần cảnh giác, không tiếp cận, sử dụng và kiên quyết đấu tranh chống mọi hành vi sáng tác, sản xuất, tán phát các loại văn hóa độc hại. Có như vậy, những giá trị văn hóa truyền thống, cũng chính là sự vững mạnh, giàu đẹp của đất nước mới được trường tồn theo thời gian.

VĂN HÓA CÒN LÀ DÂN TỘC CÒN

 

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII khai mạc sáng 24/11 tại Hà Nội. Tham dự Hội nghị có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng...

Khẳng định ý nghĩa đặc biệt của Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng bí thư nhấn mạnh rất vui mừng, vinh dự và hào hứng được dự hội nghị này.

Ghi nhận vai trò quan trọng của văn hóa, Tổng bí thư nói lâu nay văn hóa chưa được một bộ phận cán bộ và người dân nhận thức đầy đủ vai trò “soi đường cho quốc dân đi”.

Mượn lời tiền nhân: “Văn hóa là bản sắc của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”, Tổng bí thư nhấn mạnh sự đồng tình với quan điểm “văn hóa còn thì dân tộc còn”. Văn hóa làm nên hồn cốt của dân tộc nên mất văn hóa là mất dân tộc.

Điều này được Tổng bí thư khẳng định nhiều lần trong suốt bài phát biểu.

Tổng bí thư dẫn ra nhiều khái niệm văn hóa mang tính học thuật của các nhà nghiên cứu và cũng chia sẻ quan niệm giản dị của mình về văn hóa với hội nghị. Theo đó, văn hóa rất gần gũi với đời sống, khi người dân được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ công bằng… ấy chính là văn hóa.

Ngược lại, những xấu xa, bỉ ổi chính là vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa.

Tổng bí thư lược lại lịch sử để cho thấy quan điểm xuyên suốt của Đảng về văn hóa ngay từ ngày đầu thành lập tới nay chính là văn hóa phải được đặt ngang hàng chính trị, kinh tế, xã hội, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.

Không chỉ quan tâm phát triển văn hóa, Đảng ta đặc biệt chú trọng phát triển văn hóa quần chúng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tổng bí thư khẳng định đây chính là điểm ưu việt của Đảng ta.

THAM NHŨNG CŨNG LÀ MỘT THỨ GIẶC

 

Tham nhũng là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự ra đời và phát triển của bộ máy Nhà nước. Các quốc gia có các điều kiện về xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế khác nhau quan niệm về tham nhũng cũng khác nhau. Ở Việt Nam, theo Luật Phòng, chống tham nhũng thì "tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.

Hiện nay, tham nhũng là vấn đề mang tính toàn cầu nhưng đồng thời nó cũng chứa đựng những yếu tố đặc thù gắn với từng quốc gia. Về cơ bản mỗi quốc gia có những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng riêng. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở xem xét nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng của các nước trên thế giới, thấy rằng tuy có điểm riêng nhưng cũng có một số nguyên nhân, điều kiện mang tính chất chung, tương đồng, đó là: Sự phát triển của các hình thái Nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế, chính trị tạo ra tiền đề khách quan cho tham nhũng nảy sinh, phát triển. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: Quyền lực công và lòng tham cá nhân. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước trước hết đại diện cho quyền lực của một giai cấp nhất định, nó có chức năng điều hòa những lợi ích của các giai cấp khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Quyền lực của Nhà nước khi được trao cho những con người cụ thể, những người đại diện cho Nhà nước thực thi quyền lực công, nếu không có cơ chế kiểm soát dễ dẫn tới sự lợi dụng quyền lực hoặc lạm quyền. Sự gặp nhau giữa quyền lực công khi không được chế ước với nhu cầu cá nhân vượt quá giới hạn cho phép, lòng tham, đã dẫn tới việc sử dụng quyền lực công phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Đó chính là cơ sở nảy sinh tham nhũng. Tham nhũng còn được coi là “sản phẩm của sự tha hóa quyền lực”.

Cũng phải nói thêm rằng, vấn nạn tham nhũng xuất hiện hầu hết ở mọi chế độ xã hội, mọi thời đại, mọi quốc gia, dân tộc…trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư. Vì vậy, chúng ta phải khẳng định rằng những luận điệu trong thời gian gần đây của các đối tượng phản động, bất mãn cho rằng thể chế chính trị ở Việt Nam sinh ra tham nhũng, hay Đảng “ bao che cho đảng viên tham nhũng, lợi ích nhóm” là hoàn toàn sai trái và phản động và xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng mà Đảng ta đang tiến hành.

Chúng ta cũng đã nhận diện rõ vấn nạn tham nhũng và cho đó là một trong bốn nguyên nhân làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Báo cáo Chính trị của BCH Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Chúng ta đang đấu tranh phòng, chống tham nhũng rất quyết liệt, bài bản, có chiến lược và bước đi phù hợp và rất kiên quyết, thực tế các vụ án được đưa ra xét xử, những bản án nghiêm minh đã thể hiện phương châm “không có vùng cấm”. Chúng ta cũng tin tưởng rằng với quyết tâm chính trị to lớn, và sự ủng hộ của nhân dân, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phát huy những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, công tác phòng, chống tham nhũng sẽ gặt hài được nhiều kết quả hơn nữa, mang lại niềm tin và góp phần to lớn trong việc làm trong sạch bộ máy công quyền và toàn xã hội.

MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ TRONG QUÂN ĐỘI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÂN CÁCH QUÂN NHÂN

 

Việc xây dựng môi trường văn hóa quân sự là việc làm thiết thực góp phần tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn đông đảo thanh niên hăng hái tự nguyện, tự giác thực hiện nghĩa vụ quân sự, đồng thời có tác dụng trực tiếp hình thành xu hướng nghề nghiệp quân sự trong chiến sĩ, đặc biệt là trong sĩ quan trẻ, làm cho sĩ quan trẻ yêu mến môi trường quân đội, yên tâm phục vụ quân đội lâu dài.

Môi trường văn hoá quân sự mà quân đội ta xây dựng hiện nay cần phải căn cứ vào hệ thống các chuẩn mực văn hóa Việt Nam. Đó là cái cốt lõi của văn hóa dân tộc được vận dụng và thể hiện trong lĩnh vực hoạt động đặc thù - hoạt động quân sự, tạo nên quan niệm sống, chỉ đạo những hành vi ứng xử cơ bản của quân nhân. Đó là lòng yêu nước thương nòi và tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam; là những giá trị cao đẹp của lý tưởng xã hội tiến bộ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong đấu tranh cho tư tưởng xã hội tiến bộ được vận dụng và xây dựng trong điều kiện của hoạt động quân sự.

Môi trường văn hóa quân sự phải giàu tính lý tưởng, phải đưa chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa nhân văn trở thành tính trội, làm đối trọng để loại bỏ sự tác động, xâm nhập của môi trường không lành mạnh ngoài xã hội. Đồng thời, phải làm cho nó thích nghi với cơ chế thị trường, không thuần lý tưởng một cách duy ý chí, thoát ly đời sống hiện thực. Nghĩa là phải quan tâm đến lợi ích chính đáng của quân nhân, thông qua việc giải quyết những lợi ích chính đáng của quân nhân, làm cho mỗi quân nhân thấy được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự thương yêu đùm bọc và chăm sóc chu đáo của nhân dân, từ đó yên tâm phục vụ quân đội, tự hào với nghề nghiệp vinh quang và cao cả của mình.

Một môi trường văn hóa quân sự giàu tính lý tưởng đòi hỏi phải có thẩm mỹ quân sự. Do đó, phải đưa thẩm mỹ vào quân sự. Cuộc sống, ăn, mặc, ở, sinh hoạt của bộ đội phải đẹp và hấp dẫn. Doanh trại và hệ thống cảnh quan phải khang trang, có dáng vẻ của văn hóa sinh thái. Muốn vậy, phải mạnh dạn đầu tư, không sợ tốn kém, dĩ nhiên là phải tiến hành từng bước thích hợp trong điều kiện nền kinh tế cho phép.

Xây dựng môi trường văn hóa quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng một môi trường trong đó mọi quân nhân tự giác chấp hành kỷ luật quân sự, thể hiện "quân lệnh như sơn", luôn luôn phát huy và phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp, vừa chiến đấu, vừa xây dựng của quân đội ta… Những truyền thống đó đã trở thành đặc trưng và cốt cách của "Bộ đội Cụ Hồ". Tuy nhiên, để xây dựng môi trường văn hóa quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng quân đội, thì phải làm cho các truyền thống cực kỳ quý báu do thế hệ đi trước kiến tạo có sức sống trường tồn, được chính giới trẻ quân đội hôm nay tiếp nhận, bảo tồn và phát huy lên một trình độ mới.

NẾU CÁN BỘ NÀO CŨNG VÌ DÂN

 

Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII "Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung" vừa ban hành được dư luận xã hội đánh giá rất cao, xem đây là đòn bẩy quan trọng, thể hiện quyết tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Người dân đang kỳ vọng rằng, nếu cán bộ từ cơ sở đến Trung ương lúc nào cũng nghĩ cho dân, cho nước thì chúng ta không có lý do gì không tạo nên những kỳ tích trong phát triển kinh tế, đổi mới đất nước.

 Nhìn lại 35 năm đổi mới, những thành tựu đất nước có được như ngày hôm nay một lần nữa khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, tinh thần năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có đóng góp rất quan trọng của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý với bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực tổng kết thực tiễn sắc bén, tư duy đổi mới sáng tạo, khả năng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Phải nói rằng: Nhiều lãnh đạo từ cấp cơ sở đến Trung ương rất năng động, sáng tạo, luôn đau đáu lo cho dân được ấm no, hạnh phúc, đất nước ngày một phồn vinh với giải pháp, cách làm tâm huyết như: Các cấp lãnh đạo đẩy mạnh gặp gỡ doanh nghiệp, trao đổi, tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, sản xuất hiệu quả; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư; tham khảo mô hình hay, cách làm sáng tạo ở tỉnh bạn, ngành bạn, đưa về áp dụng ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình, cốt yếu là mang lại cuộc sống đầy đủ hơn về vật chất, tinh thần cho nhân dân, đổi thay diện mạo trên quê hương. Những cán bộ ấy luôn trăn trở cùng dân, lo trước nỗi lo của dân, vui sau niềm vui của dân.

Tuy nhiên, có một bộ phận cán bộ chỉ lo vun vén cho cá nhân, gia đình, “nhóm lợi ích” của mình; tham ô, tiêu cực trong đấu thầu, chỉ định thầu đến cất nhắc, ưu ái cho doanh nghiệp thân quen, người thân trong gia đình. Số cán bộ này, cái gì có lợi cho mình thì ra sức làm, ra sức bảo vệ; cái gì không thu được lợi cho mình thì thờ ơ, phó mặc.

Cho nên, cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn nghĩ cho dân, cho nước là trên hết, trước hết. Cán bộ cấp xã phải thấy có lỗi với dân khi nhìn dân mình khóc trên ruộng của gia đình do bị doanh nghiệp ép giá; cán bộ cấp huyện phải tự vấn bản thân khi thấy trên địa bàn không thu hút được dự án đầu tư nào, không có một nhà máy, xí nghiệp nào để tạo việc làm cho nhân dân; cán bộ cấp tỉnh phải biết băn khoăn trước dân, trước địa phương khác khi địa phương mình đất rộng, người đông, tài nguyên phong phú mà năm nào cũng phải lên Trung ương xin "cứu trợ", hỗ trợ kinh phí...

CẢNH GIÁC VỚI MẠNG XÃ HỘI - ĐỪNG ĐỂ “LỢI BẤT CẬP HẠI”

Trong thời đại khoa học công nghệ 4.0, mạng Internet đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Mỗi người đều có thể dễ dàng nắm bắt được các thông tin từ rất nhiều nguồn khác nhau trên Internet, nhất là thông qua mạng xã hội, với tốc độ lan truyền nhanh chóng. Mạng xã hội mang lại cho con người rất nhiều lợi ích và có tác động tích cực nếu mỗi người biết cách sử dụng chúng một cách hợp lý, phục vụ cho công việc, tìm kiếm thông tin, thiết lập các mối quan hệ cá nhân hay giải trí lành mạnh.

Tuy nhiên, mạng xã hội cũng chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro tiềm ẩn có thể ảnh hưởng xấu tới công việc, mối quan hệ cá nhân và cuộc sống của người sử dụng. Việc kiểm soát thông tin trên mạng xã hội rất khó khăn, các nguồn thông tin thật, giả, đúng, sai lẫn lộn, đã được kiểm chứng hay chưa được kiểm chứng, tốc độ tán phát, chia sẻ rộng rãi, nhanh chóng thông qua rất nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm hơn, nếu thông tin không chính xác, xuyên tạc, vu khống, bịa đặt, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân; hay thông tin, hình ảnh phản cảm, nhạy cảm... được đăng tải lên thì ngay lập tức có thể bị tán phát rộng rãi và tác động ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều người cùng một lúc.

Bên cạnh đó, mạng xã hội còn là môi trường để các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu lợi dụng thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Hiện nay, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng mạng xã hội để tuyên truyền những quan điểm sai trái, phản động chống Đảng, Nhà nước và đưa những thông tin sai trái, tiêu cực, thậm chí xuyên tạc, bịa đặt, vu khống hết sức trắng trợn nhằm làm giảm sút lòng tin của các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng, nhen nhóm hình thành các tổ chức phản động, gây mất ổn định chính trị đất nước.

Đối với Quân đội ta, trong thời gian qua, việc tham gia nhiều các mạng xã hội của cán bộ, chiến sĩ hiện nay diễn ra tương đối phổ biến, với hình thức đa dạng, phong phú. Nhìn chung, đa số cán bộ, chiến sĩ khi tham gia mạng xã hội đã ý thức được những tác động, ảnh hưởng của nó, chủ yếu sử dụng vào mục đích chính đáng như: giao lưu, kết nối với người thân, bạn bè; chia sẻ tâm tư, tình cảm, sở thích, trao đổi kinh nghiệm cuộc sống, tiếp thu, trao đổi thông tin có chọn lọc...

Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ nhận thức chưa đầy đủ tính chất phức tạp của mạng xã hội cũng như chưa quán triệt nghiêm túc các quy định nên tham gia “quá sâu” vào hoạt động trên mạng xã hội; chia sẻ trên mạng xã hội những thông tin cá nhân như: hình ảnh chân dung, tiểu sử bản thân, đơn vị công tác; đăng tải thông tin, hình ảnh về hoạt động nội bộ của đơn vị, nội dung có yếu tố bí mật quân sự... Một số nội dung, hình ảnh phản cảm của quân nhân đăng tải trên mạng xã hội đã bị tán phát rộng rãi và trở thành chủ đề bị đưa ra bình luận đa chiều trên mạng. Một số hình ảnh cá nhân của quân nhân đăng tải trên mạng Facebook bị các đối tượng xấu lợi dụng để lồng ghép, đính kèm các thông tin trái chiều, xuyên tạc, bôi nhọ, gây ảnh hưởng tới danh dự, uy tín quân nhân và hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ", tạo dư luận không tốt trong nhân dân về quân đội… 

“TỰ SOI, TỰ SỬA, TỰ CHỮA “BỆNH CHỦ QUAN”

 

Nhận diện đúng và chủ động đấu tranh phòng, chống bệnh chủ quan, duy ý chí có ý nghĩa rất quan trọng trong đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phòng tránh và khắc phục “bệnh công thần”, “kiêu ngạo cộng sản”, chủ nghĩa cá nhân và mọi thói hư, tật xấu cản trở sự phát triển, tiến bộ, trưởng thành của cán bộ, đảng viên; đẩy lùi nguy cơ đe dọa uy tín, danh dự của Đảng.

Biểu hiện rõ nhất của bệnh chủ quan, duy ý chí là đề cao cái “tôi”, ngộ nhận mình ở thế trên, luôn dựa vào thế mạnh của tuổi tác, chức quyền, tự cao, tự đại, tự mãn, tự cho mình “cái gì cũng biết, cũng hay”, mình là hiện thân của “chân lý”, muốn người khác phải phục tùng ý kiến của mình; thậm chí áp đặt ý chí, thiên kiến của mình lên người khác một cách cứng nhắc, bảo thủ; không chịu lắng nghe ý kiến của người khác dù có lý, có tình. Hệ quả không thể tránh khỏi là nó sản sinh thêm bệnh bè phái, cục bộ, sùng bái cá nhân.

Bác Hồ khẳng định bệnh chủ quan, duy ý chí là khuyết tật của tư tưởng phong kiến còn rớt lại, là “căn bệnh trầm kha” của người lười rèn luyện, tu dưỡng, xa rời quần chúng. Bệnh chủ quan, duy ý chí không chỉ gây hại cho bản thân cán bộ, đảng viên mà còn làm tổn thương, gây hại cho phong trào cách mạng. Vì vậy, cần “phải dùng trí khôn và tấm lòng cộng sản” để nhận diện đúng, có biện pháp hữu hiệu để trị bệnh cứu người, “vạch mặt, chỉ tên” bản chất, nguồn gốc bệnh chủ quan, duy ý chí; không để nó lây lan, truyền nhiễm, làm khổ người khác. Dấu hiệu của bệnh chủ quan, duy ý chí là “phớt lờ thực tế khách quan”, không có cái nhìn biện chứng, xem xét sự vật, hiện tượng phiến diện, một chiều, “bất động”. Người mắc bệnh chủ quan, duy ý chí thường “nhìn đời bằng mắt nhắm, mắt mở” với tâm thế xem xét, giải quyết mọi việc đều thiên lệch, sơ sài, đại khái, qua loa; không thấy mối quan hệ đan cài, chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động, chi phối lẫn nhau giữa chúng. Họ “nhìn thấy cây mà không thấy rừng”, “chỉ biết một mà không biết hai”. Do đó, giống như “con ếch ngồi đáy giếng”, phán xét mọi việc bằng đôi mắt nhìn trời qua vòm giếng, thiếu tính bao quát, tính tổng thể, không có sự khái quát, bao trùm, không nhận rõ bản chất và tính quy luật của hiện thực khách quan. Vì vậy mỗi chúng ta những người đảng viên, người cán bộ trong Quân đội hơn hết và trước hết cần phải ra sức rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu, nêu cao tinh thần “Tự soi, tự sửa, tự rèn” hoàn thiện bản thân, xứng đáng với danh hiệu cao quý nhà nhân dân đã trao tặng “Bộ đội cụ Hồ”, mang hết tinh thần và trách nhiệm để phục sự Tổ quốc, phục sự nhân dân.

 

BÌNH TĨNH, TỈNH TÁO TRƯỚC TIN ĐỒN THẤT THIỆT

Thời gian gần đây, nhiều tin đồn thất thiệt được đăng tải trên mạng xã hội, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến uy tín của nhiều tổ chức, cá nhân. Bên cạnh sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, người dân cũng cần tỉnh táo, bình tĩnh trước những loại hình thông tin này. Khi có tin đồn thất thiệt, cần ngay lập tức cần nhanh chóng cắt đứt tin đồn, lời đàm tiếu bằng cách tham gia đấu tranh ngay trước khi mọi thứ bị lan truyền đi quá xa (nguyên tắc là trước 72 giờ sau khi tin đồn đầu tiên bị phát tán). Và để ngăn chặn những tin đồn thất thiệt, cần tập trung thực hiện một số biện pháp, như cơ quan Nhà nước phải chủ động thông tin đúng đắn, chính xác; người dân cần phải tỉnh táo trước những tin đồn thất thiệt. Để ngăn chặn những tin đồn thất thiệt, trước hết các cơ quan quản lý nhà nước phải nắm bắt thông tin một cách kịp thời, nhanh chóng có phát ngôn chính thống để bác bỏ các tin đồn thất thiệt.                                         

Khi có tin đồn thất thiệt thuộc lĩnh vực bộ, ngành nào quản lý, nhất thiết phải cử cơ quan chuyên ngành xác minh kịp thời, truy nguyên nguồn gốc, diễn biến hình thành tin đồn, đưa ra kết luận để công bố trước công luận, không thể để chậm trễ, nhằm chủ động ngăn chặn sự lan rộng của nó, hạn chế tác động tiêu cực. Nhanh chóng cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về sự kiện đang xảy ra tin đồn thất thiệt. Việc công bố có thể thực hiện ngay thông qua thông cáo báo chí trên các phương tiện truyền thông để người dân nắm được. Đồng thời có những biện pháp xử lý kiên quyết những đối tượng cố tình tung tin đồn thất thiệt để trục lợi, phá hoại. Về phía người dân, cần bình tĩnh, tỉnh táo trước những tin đồn thất thiệt là điều cần thiết. Thực tế, nhiều người do không rõ thông tin thực hư và cũng không có điều kiện tìm hiểu, đã hành động theo thói quen, theo cảm tính hoặc theo phong trào. Trước những tin đồn thất thiệt, người dân phải thực sự bình tĩnh, tự mình thẩm định, đánh giá thông tin hoặc chờ tin chính thống được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Những người cán bộ, đảng viên trong quân đội luôn có lập trường chính trị vững vàng khi có thông tin thất thiệt cần bình tĩnh nhận định đánh giá đúng xử lí kịp thời, khôn khéo, linh hoạt kiên quyết đấu tranh các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, nhận thức không đúng từ đó định hướng dư luận theo đúng đường lối chính sách quan điểm của Đảng, Nhà nước. 

CẢNH GIÁC VỚI QUẢNG CÁO CỦA NGƯỜI NỔI TIẾNG

 

Việc hàng loạt nghệ sĩ Việt mới đây đồng loạt đăng bài quảng cáo xem bói tử vi trên các trang mạng xã hội khiến nhiều người dân hết sức ngạc nhiên. Ðiều đáng nói khi tìm đến các trang được giới thiệu thì họ mới vỡ lẽ đây chỉ là một "chiêu trò truyền thông" với mục đích là bán đồ phong thủy. Thực tế cho thấy nếu như trước đây, người tiêu dùng thường tiếp nhận thông tin về các nhãn hàng, sản phẩm qua nội dung quảng cáo trên các phương tiện truyền thông chính thống như truyền hình, báo in, tạp chí, phát thanh,…, thì hiện nay họ thường bị cuốn vào các quảng cáo xuất hiện trên nền tảng mạng xã hội, nhất là khi các sản phẩm được người nổi tiếng giới thiệu, "cam kết về chất lượng".

Tuy nhiên hình thức quảng cáo này đang xuất hiện nhiều tiêu cực, bất ổn. Tiêu biểu như việc hàng loạt nghệ sĩ bị tố cáo khi tham gia quảng cáo các loại "thần dược" có thể chữa được bệnh nan y, tuy nhiên, thực tế những "thần dược" này chỉ là thực phẩm chức năng bình thường. Hay việc một số người nổi tiếng đăng tải thông tin quảng cáo về tiền ảo mà theo các chuyên gia đây là loại tiền vô danh, liên quan đến nhóm đầu tư coin (tiền điện tử) đa cấp từng bị cảnh báo là lừa đảo.

Cách đây một năm, dư luận cũng từng rất bàng hoàng và bất bình khi một Facebooker được mệnh danh là "hot boy ảnh thẻ" sở hữu hơn 2 triệu lượt theo dõi ngang nhiên quảng cáo cho một ứng dụng "đen" có nội dung vi phạm pháp luật như đánh bạc, khiêu dâm…. Cùng với đó xuất hiện hàng loạt các "chiến thần reviewer", TikToker "triệu view" nhưng thực chất là quảng cáo bừa bãi, sai sự thật về đủ loại hàng hóa, từ quán ăn, mỹ phẩm, quần áo, thuốc chữa bệnh đến khóa học bán hàng online giúp đổi đời khiến nhiều người tiêu dùng nhẹ dạ, cả tin để rồi chịu cảnh "tiền mất, tật mang".

Hình thức quảng cáo thông qua người nổi tiếng đã có từ lâu, song có thể thấy giai đoạn hiện nay xuất hiện nhiều biến tướng và nảy sinh không ít tiêu cực, gây bức xúc dư luận. Có thể lý giải hiện tượng này là bởi: nếu trước đây, hoạt động quảng cáo chủ yếu là trên các kênh truyền thông chính thống, và phải đáp ứng nhiều điều kiện, thủ tục nhằm bảo đảm nội dung quảng cáo đúng với sản phẩm thì hiện nay sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội đã kéo theo một sự chuyển dịch mạnh mẽ trong hoạt động quảng cáo.

Mỗi cá nhân đều có thể tự rao bán sản phẩm mà thiếu sự kiểm duyệt, nhờ vậy không ít người đã thu lợi lớn từ các hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội. Song điều này đã dẫn tới một thực tế: có những cá nhân, bao gồm cả người nổi tiếng đã vô tình hoặc cố tình "nhắm mắt làm ngơ" tiếp tay quảng cáo cho những sản phẩm kém chất lượng, sản phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, sản phẩm bị cấm kinh doanh để trục lợi.

Nhiều người nổi tiếng dễ dàng bị thuyết phục bởi những hợp đồng hấp dẫn nên đồng ý tham gia quảng cáo sản phẩm, không cần biết sản phẩm đó như thế nào. Chưa kể có người còn cho rằng việc xuất hiện thường xuyên dù trên mạng xã hội cũng là một cách làm gia tăng thêm danh tiếng và biến họ thành một hình ảnh "được nhận diện dễ dàng hơn" nên sẵn sàng tận dụng sự nổi tiếng để kiếm tiền bằng mọi cách.