Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 TCCS - Hệ thống pháp luật hoàn thiện là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật hoàn thiện cũng là một trong những yếu tố thể hiện đặc trưng của Nhà nước pháp quyền. Đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay, để quản lý xã hội, quản trị quốc gia tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, từ thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành, việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Mục tiêu là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đại biểu thuộc đơn vị bầu cử số 1, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội tiếp xúc cử tri các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng báo cáo kết quả Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV và lắng nghe các ý kiến, kiến nghị của cử tri_Ảnh: TTXVN

Tiếp nối chủ trương đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng ta từ trước đó, Đại hội XIII của Đảng đánh dấu những bổ sung, phát triển quan trọng trong quan điểm về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết nêu 8 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, nêu quan điểm và mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, khẳng định 3 trọng tâm, xác định 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

Về mục tiêu tổng quát, Nghị quyết số 27-NQ/TW chỉ rõ: Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng XHCN vào năm 2045.

Có thể thấy, mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là để góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong thời gian tới, trong kỷ nguyên mới, được Đảng ta xác định là kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. 

Mục tiêu này đã được nêu tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), về tổng quát, khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng được cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Trong 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà Cương lĩnh nêu, có một đặc trưng là có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Từ đó, với những thành tựu đạt được trong chặng đường vừa qua, giai đoạn hiện nay Đảng ta xác định, “Đại hội XIV là đại hội đánh dấu thời điểm đất nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”(1). Như đồng chí GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu, “Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại”(2). Do vậy, nhiệm kỳ Khóa XIV, trong các đột phá chiến lược được chú trọng, có đột phá chiến lược về thể chế, về hoàn thiện pháp luật; đồng thời, trong các phương hướng, giải pháp chiến lược, có giải pháp chiến lược về tinh gọn bộ máy tổ chức nhà nước. Cần đồng lòng, quyết liệt, tích cực, nỗ lực tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” khơi dậy khát vọng, khơi thông và thu hút được các nguồn lực cho sự phát triển của đất nước. Thông qua đó, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tất yếu có Nhà nước pháp quyền XHCN với mức độ hoàn thiện cao trên cả 8 đặc trưng mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã chỉ ra.

Thực trạng hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Hệ thống pháp luật hoàn thiện là một trong số các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong nỗ lực chung để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ngày càng đạt nhiều thành tựu. Xét trên phương diện chung, hệ thống pháp luật đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu đã được nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận.

Cụ thể, Luật cơ bản - Hiến pháp năm 2013 đã được ban hành, bên cạnh những quy định có tính kế thừa, có nhiều quy định mới mang tính đột phá, cần thiết, là cơ sở để hoàn thiện thể chế tạo động lực phát triển đất nước nhanh, bền vững. Các văn bản luật, pháp lệnh được kịp thời ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế(3). Giai đoạn 2005 - 2007, Quốc hội ban hành 63 luật, pháp lệnh; Khóa XII - nhiệm kỳ 2007 - 2011, Quốc hội ban hành 82 luật, pháp lệnh; Khóa XIII - nhiệm kỳ 2011 - 2016, tính hết kỳ họp thứ 10 vào tháng 11-2015, Quốc hội ban hành 110 luật, pháp lệnh(4); Khóa XIV, tính đến đầu Kỳ họp thứ 11, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 72 luật, 2 pháp lệnh; Khóa XV, tính đến tháng 6-2024, có 43 văn bản luật và 3 pháp lệnh đã được ban hành.

Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện. Tính từ ngày 1-7-2016 đến ngày 31-12-2023, Chính phủ đã ban hành 983 nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 353 quyết định; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; các bộ, ngành ban hành 37 thông tư liên tịch(5)

Cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nguồn bổ trợ là án lệ cũng được chú ý phát triển để bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động của các chủ thể pháp luật, bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền. Tính đến tháng 5-2024, đã có 72 án lệ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quyết định công bố.

Hệ thống pháp luật được xây dựng, hoàn thiện theo quy trình thủ tục ngày càng phù hợp, hiện đại, bảo đảm thể chế hóa đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng. Nội dung pháp luật về cơ bản đảm bảo tính bao trùm, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như trong các lĩnh vực của đời sống xã hội(6). Những kết quả, xếp hạng qua một số chỉ số đánh giá có liên quan cũng cho thấy rõ điều này. Theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) 2024, đối với nhóm chỉ số đầu vào, chỉ số về thể chế kể từ năm 2022 của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể so với các năm thuộc giai đoạn 2017 - 2021. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng 83/132 quốc gia, nền kinh tế; thứ hạng này lần lượt ở các năm tiếp theo như sau: năm 2022, xếp hạng 51; năm 2023, xếp hạng 54; năm 2024, xếp hạng 58(7).

Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể là:

Về tính toàn diện: Xét một cách tổng thể, hệ thống pháp luật toàn diện đòi hỏi sự đầy đủ các quy định pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống cần có pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, từ quy định của Hiến pháp năm 2013, một số quyền cơ bản đã hiến định vẫn chưa kịp thời ban hành được các văn bản luật nhằm cụ thể hóa. Một mặt, đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các chủ thể nhằm quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản luật, việc chậm, nợ văn bản vẫn chưa khắc phục được một cách triệt để. Một số quy định pháp luật bị lạc hậu so với yêu cầu thực tiễn vẫn chưa được kịp thời sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, thực tiễn xã hội diễn ra hết sức sinh động, các quan hệ xã hội biến đổi nhanh chóng, nhu cầu về pháp luật đối với một số lĩnh vực mới là cấp thiết, song vẫn chưa có hệ thống thể chế đầy đủ (đơn cử như hệ thống thể chế cho mô hình khu thương mại tự do FTZ). Bên cạnh đó, vẫn có sự chênh lệch trong các lĩnh vực khác nhau khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, số lượng văn bản luật ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung khá nhiều, song so với nhu cầu thực tiễn vẫn chưa đủ. Điều này dẫn đến việc có nhiều khuyến nghị dành cho Việt Nam khi thực hiện Báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát trước Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc, trong đó, có nhiều khuyến nghị hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật(8).

Về tính đồng bộ: Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự thống nhất, không mâu thuẫn chồng chéo, văn bản có giá trị pháp lý thấp không trái văn bản có giá trị pháp lý cao hơn và tất cả các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp. Đối với vấn đề này, vẫn còn các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo làm cho việc thực hiện không dễ dàng. Kể từ khi có Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật và Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012, công tác pháp điển hóa, hợp nhất văn bản được triển khai có kết quả đã góp phần khắc phục được hạn chế, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ cho hệ thống pháp luật; song, so với nhu cầu thực tiễn, vẫn cần nhiều nỗ lực hơn nữa. 

Về tính phù hợp, hiệu lực, thực tiễn, khả thi: Đối với yêu cầu này, các quy định pháp luật cần có sự phù hợp với trình độ, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa; bảo đảm sự thuận lợi, đạt mục tiêu trong thực thi; có nguồn lực bảo đảm hiệu lực; khi thực thi, phải tạo được động lực phát triển nhanh, bền vững. Hệ thống pháp luật hiện nay còn có các quy định, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước và chưa bắt kịp thời cơ, vượt qua thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những biến chuyển nhanh chóng của các quan hệ xã hội hiện nay, xuất hiện nhiều phương thức, mô hình sản xuất, kinh doanh, thanh toán mới trong lĩnh vực kinh tế, như kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, tiền điện tử… đòi hỏi pháp luật phải hoàn thiện hơn nữa để có quản lý hiện đại hơn, phù hợp hơn, khơi dậy khát vọng, khơi thông nguồn lực, bảo đảm an toàn cho các bên tham gia quan hệ pháp luật. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan những lĩnh vực này có độ ổn định chưa cao, có những văn bản nhanh chóng bị sửa đổi, bổ sung hoặc phải xem xét thời gian hiệu lực. Còn có những văn bản chưa kịp thời phát huy được hiệu lực do các điều kiện bảo đảm hiệu lực, các nguồn lực nhằm tổ chức thực hiện chưa được đầy đủ. Một số quy định chưa thể hiện được vai trò kiến tạo phát triển, chưa thực sự khơi thông được nguồn lực, còn cản trở việc thực thi(9).

Về tính công khai, minh bạch: Đây là yêu cầu nhằm bảo đảm khả năng tiếp cận nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ của các chủ thể pháp luật đối với các văn bản quy phạm pháp luật, từ khi đang ở dạng dự thảo, lấy ý kiến góp ý, cho đến khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, thực hiện truyền thông chính sách. Hiện nay, việc thu hút người dân, đối tượng chính sách, các nhà khoa học… tham gia ý kiến đối với các dự thảo văn bản thông qua đăng tải trên các cổng thông tin điện tử của cơ quan soạn thảo và Chính phủ, thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm... đã được các cơ quan chú trọng thực hiện nhưng khả năng thu hút chưa như mong đợi. Việc xử lý thông tin góp ý và giải trình tiếp thu ý kiến đóng góp chưa dựa được trên lợi thế công nghệ thông minh và có những văn bản chưa thực hiện đầy đủ. Khi các văn bản đã được ban hành, vẫn chưa khắc phục hoàn toàn được thực trạng có những quy định được hiểu thiếu thống nhất, được áp dụng khác nhau. 

Về tính đảng, mặc dù một vấn đề mang tính nguyên tắc đã được khẳng định, là chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật; song, thời gian qua, một số chủ trương, chính sách, thậm chí là chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng kết quả không khả thi(10).

Như vậy, thể chế vẫn là vấn đề mà Đảng ta xác định là một trong ba “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay (gồm thể chế, hạ tầng và nhân lực); trong đó, thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Theo đánh giá của (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) năm 2023 và năm 2024, chỉ số Chất lượng các quy định pháp luật chưa phản ánh rõ xu hướng cải thiện, năm 2021 Việt Nam xếp hạng 93/132 quốc gia, nền kinh tế, năm 2022 xếp hạng 83/132, năm 2023 giảm xuống vị trí 94/132, năm 2024 xếp hạng 95/133 quốc gia, nền kinh tế. Việt Nam cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải thiện thể chế, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. 

Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật. Trong đó, có thể kể đến một số nguyên nhân như: 1- Về phương diện lý luận, chưa nhận thức thống nhất, đầy đủ về yêu cầu, tiêu chuẩn của pháp luật Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam để hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá pháp luật và dựa vào đó xây dựng pháp luật đạt tiêu chuẩn. Trong tư duy xây dựng pháp luật vẫn còn có hiện tượng đặt vị thế của cơ quan công quyền, người quản lý cao hơn trong mối tương quan với đối tượng quản lý; tư duy kiến tạo phát triển chưa thực sự rõ nét. 2- Về phương diện thực tiễn, quy trình lập pháp, lập quy vẫn còn một số bất cập, rườm rà, khó xác định trách nhiệm trong trường hợp chất lượng dự thảo không cao. Chất lượng cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật chưa đồng đều, một số còn hạn chế. Mặc dù đã xác định đầu tư cho thể chế là đầu tư cho phát triển, nhưng sự đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật về cơ bản chưa tương xứng với vai trò đột phá chiến lược của thể chế. Có những trường hợp chưa gắn kết chặt chẽ việc thể chế hóa chủ trương của Đảng vào hoạch định chính sách với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn. Hơn nữa, bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp, nhanh chóng, nhiều trường hợp nằm ngoài khả năng dự báo. Đây cũng là thách thức cho hoạt động xây dựng pháp luật. Ngoài ra, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, trước yêu cầu của chuyển đổi số và nhu cầu mong đợi của người dân ngày càng cao, nhiều quy định pháp luật nhanh chóng bị lạc hậu, xuất hiện nhiều khoảng trống pháp lý, một số quy định pháp luật vì vậy đã cản trở hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội.

Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua luật, nghị quyết tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV_Ảnh: TTXVN

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hướng đến thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hệ thống pháp luật cần tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa với nhiều giải pháp mạnh mẽ, phù hợp; cụ thể là cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý.

Tư duy của con người - đặc biệt là lý luận khoa học - có sức mạnh to lớn trong thay đổi hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Về vai trò của tư duy, lý luận khoa học, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin từng khẳng định: “… lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”(11) và “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”(12). Nhận thức đúng đắn và tình cảm tích cực, từ đó hành động phù hợp với quy luật khách quan sẽ thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Hiện nay, các quan hệ xã hội phát triển, biến động nhanh, đa đạng, đa chiều, phức tạp, nguồn thông tin phong phú, trình độ dân trí ngày càng cao, dân chủ ngày càng được phát huy, đòi hỏi chất lượng xây dựng thể chế, pháp luật phải được nâng cao với tư duy mới. Do vậy, để hoàn thiện pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý theo tinh thần “tư duy sớm”, “tầm nhìn xa”, “4 kiên định, 5 tăng cường”. Trong đó:

+ “4 kiên định” đã được Đảng ta chỉ ra, gồm: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có công tác lãnh đạo Nhà nước tổ chức xây dựng, hoàn thiện pháp luật(13).

+ “5 tăng cường” gồm: tăng cường tư duy kiến tạo phát triển; tăng cường tư duy phát triển nhanh và bền vững; tăng cường tư duy hoàn thiện pháp luật phù hợp đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường tư duy “mở” trong tiếp nhận sáng kiến chính sách, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập; tăng cường tư duy bình đẳng, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Như vậy, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật là nhằm tạo lập hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo, khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. 

Hai là, giải pháp về hoạch định chính sách. 

Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách để góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chính sách công có các dạng biểu hiện cụ thể, trong đó phổ biến là thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật. Hoạch định chính sách có chất lượng là yếu tố quyết định đến chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, đổi mới các khâu trong quy trình hoạch định chính sách phù hợp với yêu cầu quản trị quốc gia theo hướng hiện đại. Các chính sách nếu hoạch định theo quy trình phổ biến trong mô hình quản lý truyền thống, tức là về cơ bản khép kín, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như tính đại diện, tính bao trùm, tính trách nhiệm, tính đáp ứng của chính sách. Về phương diện lý thuyết, quản trị quốc gia hiện đại có một số khác biệt so với quản lý truyền thống, trong đó có sự khác biệt trong quy trình hoạch định chính sách công. Về phương diện thực tiễn, quản trị quốc gia theo hướng hiện đại thể hiện ở tính “mở” của quy trình hoạch định chính sách. Theo đó, việc hoạch định chính sách không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của xã hội và người dân, mà còn coi trọng phát huy vai trò và sự tham gia của xã hội và công dân, trong đó có việc phát huy vai trò tư vấn, phản biện chính sách của các tổ chức tư vấn (think tank). Trong quy trình hoạch định chính sách, Nhà nước tiếp nhận, thu thập một cách rộng rãi các thông tin, tri thức của cá nhân, tập thể và các tổ chức tư vấn, tăng cường tính bao trùm của chính sách, tránh sai lầm về các quyết định, góp phần nâng cao chất lượng chính sách. 

Thứ ba, tăng cường truyền thông chính sách ngay từ khi xuất hiện các sáng kiến chính sách, truyền thông trong quá trình hoạch định và khi một chính sách đã được ban hành để góp phần làm cho các đối tượng chính sách hiểu, tham gia thực hiện chính sách thống nhất; đồng thời, có đủ thông tin góp phần không ngừng hoàn thiện chính sách.

Thứ tư, thực hiện tốt việc đánh giá tác động chính sách, tạo cơ sở khoa học, thuyết phục, nâng cao chất lượng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật.

Thứ năm, có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, các xu hướng cực đoan trong hoạch định chính sách, như: lồng ghép lợi ích cục bộ, tham nhũng chính sách trong xây dựng pháp luật; xa rời chủ trương, đường lối của Đảng; các chính sách cản trở sự phát triển; các chính sách làm phức tạp về thủ tục, tăng chi phí tuân thủ; các mục tiêu của chính sách mâu thuẫn; các chính sách có mục tiêu quá tham vọng; các chính sách phiến diện, không bảo đảm tính bao trùm, không được sự đồng thuận của đối tượng chính sách; xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, “cài cắm” lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội theo Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 27-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật”.

Ba là, giải pháp về ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật cả về nội dung, hình thức, kỹ thuật.

Thứ nhất, có giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Kịp thời thể chế hóa toàn diện, đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng vào chính sách, pháp luật. Có cơ chế phối hợp triển khai và có cơ chế kiểm tra, giám sát, phát hiện các thiếu sót, chậm trễ, sai khác (nếu có) trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục hoàn thiện các chế tài phù hợp, bảo đảm cơ chế áp dụng trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý để xử lý các vi phạm.

Thứ hai, bảo đảm hoàn thiện hệ thống pháp luật toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, có ưu tiên trọng tâm, trọng điểm trong điều kiện còn nhiều văn bản cần ban hành, sửa đổi, bổ sung, theo tinh thần phản ứng nhanh trước thực tiễn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo động lực mạnh cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của xã hội. Trong từng giai đoạn phát triển, cần bám sát thực tiễn, nắm bắt nhu cầu; từ đó, có chương trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật phù hợp và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.

Trong giai đoạn hiện nay, cần xác định đúng, trúng các trọng tâm, trọng điểm để xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Dựa trên những nhận diện về 3 điểm nghẽn, 7 định hướng chiến lược(14), trong thời gian tới, cần chú ý các trọng tâm, trọng điểm sau đây để xây dựng, hoàn thiện pháp luật: 

+ Pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo tinh thần của đổi mới hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm cơ sở pháp lý cho “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát”(15).

+ Pháp luật về quyền con người trong bối cảnh hội nhập; pháp luật về phát huy nguồn lực con người, khơi dậy khát vọng; pháp luật nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về nhân lực, trong đó có công tác cán bộ của hệ thống chính trị.

+ Pháp luật về kinh tế theo tinh thần kiến tạo phát triển nhằm khơi thông nguồn lực, phát triển bền vững; tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng; pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm an toàn trong xã hội số.

Thứ ba, cần tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng hiện đại hơn nữa, dựa trên lợi thế của công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ở cấp độ trung ương và địa phương trên cơ sở tham khảo cách đánh giá về thể chế trong các bộ chỉ số như: Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và cấp tỉnh (PII), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)…; đồng thời, bảo đảm tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW với các yêu cầu của hệ thống pháp luật như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. 

Thứ năm, đồng lòng, nhất quán, kiên trì, quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc khó khăn về pháp lý hiện đã nhận diện được, gồm cả những khó khăn vướng mắc trong văn bản quy phạm pháp luật và khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện pháp luật.

Hướng tới 100 năm thành lập Đảng, 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), để đất nước tự tin, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa, tranh thủ, khơi thông các nguồn lực, không bỏ lỡ cơ hội, nhận diện và vượt qua thách thức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN chính là một trong những nhiệm vụ, giải pháp hết sức quan trọng, cấp thiết./.

----------------------

Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

 TCCS - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của nhân dân trong công cuộc bảo vệ, phát triển đất nước và tính quyết định của công tác dân vận đối với việc củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác dân vận, thời gian qua, công tác dân vận đã phát huy tinh thần dân chủ, thu hút trí tuệ, cống hiến của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng, quản lý đất nước, là yếu tố bảo đảm sự vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân phường Lê Lợi, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên_Ảnh: TTXVN

1- Vận động quần chúng nhân dân thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là yếu tố quyết định chất lượng của mọi mục tiêu cách mạng, bởi “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(1); đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần gương mẫu, tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, tập hợp quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định công tác dân vận có vị trí then chốt đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện tốt công tác dân vận, đội ngũ cán bộ cần xây dựng được phương pháp khoa học, khéo léo, coi nhân dân là cội nguồn sức mạnh, “chìa khóa” đưa đến mọi thắng lợi vẻ vang, rằng “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”(2); mặt khác, dân vận “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”(3). Cùng với đó, với từng công việc cụ thể, Người yêu cầu xây dựng kế hoạch hợp lý, tránh tâm lý, thói quen tổ chức thực hiện hành động tùy tiện, làm lấy lệ, không đến nơi, đến chốn, “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy”(4).

Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục quan tâm, ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, phương châm, phương pháp tiến hành công tác dân vận trong tình hình mới; chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng trong hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện nhằm tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ(5). Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(6).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận góp phần tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước; thực hiện hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh; tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò của nhân dân trong tham gia, quyết định chính sách liên quan đến cuộc sống, vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước được phát huy; quyền con người, quyền công dân cũng được đề cao. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chú trọng tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, giải quyết kiến nghị, bức xúc của nhân dân, do đó quyền làm chủ của nhân dân được coi trọng, ngày càng đi vào thực chất thông qua các hình thức, như dân chủ trực tiếp, dân chủ ở cơ sở, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình,... Đặc biệt, quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở được đẩy mạnh, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vào cuộc sống dựa trên chủ trương, đường lối của Đảng(7).

Trong đó, ban dân vận các địa phương, đơn vị đã kịp thời tham mưu cho cấp ủy quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định, kết luận của Trung ương mới ban hành về công tác dân vận; tổ chức sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận và xây dựng đề án về công tác dân vận theo hướng dẫn của Ban Dân vận Trung ương và theo yêu cầu, nhiệm vụ; tham mưu cấp ủy ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận gắn với tình hình thực tiễn địa phương. Với phương châm bám sát cơ sở, đi vào thực tiễn, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận các cấp có nhiều cách làm hay, thiết thực, góp phần động viên, thu hút mọi tầng lớp nhân dân, nhất là lực lượng nhân sĩ, trí thức, già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo,... cùng nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ví dụ: Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được quán triệt, triển khai gắn với các phong trào thi đua yêu nước, ban dân vận nhiều tỉnh ủy, thành ủy đã có trang thông tin điện tử, ứng dụng công nghệ số, phối hợp tốt với các cơ quan báo, đài tại địa phương thực hiện việc phát hiện, giới thiệu tập thể, cá nhân, mô hình, điển hình “Dân vận khéo” để biểu dương, nhân rộng, lan tỏa việc làm mới, cách làm hay(8),... qua đó huy động nguồn lực trong xã hội, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng, góp phần thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; chăm lo đời sống của nhân dân ở địa phương, nhất là xã, phường trong thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến chung vui ngày hội đại đoàn kết cùng đồng bào các dân tộc xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, tháng 11-2022 _Nguồn: daidoanket.vn

Cùng với đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường tuyên truyền, vận động, tập hợp, tạo sự đồng thuận, khơi dậy tinh thần yêu nước, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; phát huy tích cực vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực; nhiều kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc được các cấp ủy, chính quyền tiếp thu, quan tâm chỉ đạo giải quyết. Đặc biệt, Ban Dân vận Trung ương phối hợp chặt chẽ với Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội có đảng đoàn để tổ chức thực hiện việc làm thiết thực, hiệu quả công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài; chú trọng thực hiện tốt việc hỗ trợ, bảo hộ công dân đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định, hội nhập vào xã hội sở tại và đối tượng kiều bào về nước sinh sống, làm việc; công tác thông tin tuyên truyền, vận động đồng bào ở nước ngoài trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp nguồn lực tri thức, kinh tế để phát triển đất nước cũng tiếp tục được quan tâm. 

Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh thành tựu đạt được, thời gian qua, công tác dân vận còn một số hạn chế. Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” chỉ rõ: Nhiệm vụ cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả chưa cao, chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng to lớn trong nhân dân. Mặt khác, một số chính sách chưa sát với thực tiễn, còn nhiều rào cản, vướng mắc trong thực hiện; đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn khó khăn; sự chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp nhân dân và các vùng, miền vẫn còn hiện hữu. Việc bảo đảm cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(9) có mặt còn hạn chế; công tác nắm bắt dư luận trước sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời(10).

Thêm vào đó, nhiệm vụ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các hội quần chúng, nhất là ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; thu nhập của một số cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động còn thấp. Tình hình an ninh chính trị tại các địa bàn trọng điểm vẫn tiềm ẩn yếu tố phức tạp, nguy cơ mất ổn định; tội phạm, tệ nạn xã hội, di cư tự do, vượt biên, truyền đạo trái pháp luật,... vẫn diễn ra và có xu hướng gia tăng. Trong khi đó, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta hết sức quyết liệt, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo cũng như khó khăn trong đời sống kinh tế của nhân dân và bất cập trong xã hội chưa được giải quyết kịp thời... hòng phá hoại lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc...

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Đắc Xú hướng dẫn cách cạo mủ cao su cho đồng bào thôn Kei Joi, xã Đắc Xú, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum_Ảnh: TTXVN

2- Trong bối cảnh mới, để tăng cường công tác dân vận, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh, cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, nghiêm túc triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong phát huy tinh thần dân chủ(11); thật sự tin tưởng, tôn trọng nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đặc biệt, tiếp tục tham mưu triển khai, tổ chức thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận mới của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư liên quan đến công tác dân vận và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”; Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30-7-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”,... Như vậy, công tác dân vận phải được cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đoàn thể và cả hệ thống chính trị cùng tham gia thực hiện, coi đó là trách nhiệm chính trị của mỗi tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức.

Thứ hai, từ Trung ương đến mỗi chi bộ, từ lãnh đạo cao cấp, người đứng đầu cấp ủy đến đảng viên đều phải làm tốt công tác vận động quần chúng theo chức trách, nhiệm vụ; nỗ lực tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác dân vận cho các cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân; nắm vững phương châm, phương pháp dân vận của Đảng, phải kiên trì, mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với đặc điểm tình hình, từng đối tượng, điều kiện và hoàn cảnh, tránh chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Thêm vào đó, phải xem “nêu gương” là một trong những nguyên tắc hàng đầu, có mức độ hữu hiệu và thiết thực trong tập hợp, thuyết phục, tạo niềm tin đối với quần chúng, nêu cao tinh thần sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, bởi “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(12). Thường xuyên đổi mới phương thức công tác dân vận; quan tâm củng cố mối quan hệ mật thiết, gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thứ ba, tiếp tục củng cố, xây dựng khối liên minh công - nông và đội ngũ trí thức gắn với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiến tạo nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đối với giai cấp công nhân, công tác dân vận phải góp phần xây dựng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; chú trọng động viên, nêu cao tinh thần tích cực học tập, rèn luyện, sự giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, nghề nghiệp,... để xứng đáng là giai cấp lãnh đạo, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với giai cấp nông dân, các cấp, các ngành cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo, đẩy mạnh tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình kinh tế - xã hội, tập trung thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành, nghề, quan tâm giải quyết việc làm, gia tăng nguồn thu nhập. Đối với đội ngũ trí thức, công tác dân vận phải góp phần tích cực tạo điều kiện, tiền đề bảo đảm đội ngũ trí thức cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc trên mọi phương diện; chú trọng mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài, khuyến khích nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế phục vụ đất nước. Đối với doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài,... công tác dân vận cần hết sức linh hoạt, đa dạng, có các hình thức phù hợp với từng hoàn cảnh, đối tượng và điều kiện cụ thể nhằm đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhận thức lẫn hành động để xây dựng phong trào cách mạng sâu rộng, bền vững.

Thứ tư, cấp ủy cần quan tâm xây dựng, kiện toàn, nâng cao năng lực công tác của Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân các cấp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; chú trọng và làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác vận động quần chúng có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh, uy tín và tâm huyết, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận gắn bó chặt chẽ với quần chúng, “vừa hồng, vừa chuyên”; đặc biệt, phải quan tâm hơn nữa đối với lực lượng cán bộ ở cơ sở, ở nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.      

Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình tư tưởng, đời sống trong các tầng lớp nhân dân để chủ động, kịp thời tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy về chủ trương, giải pháp liên quan đến công tác dân vận đáp ứng yêu cầu mới. Chủ động nắm chắc vấn đề dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng trọng điểm về quốc phòng - an ninh; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách an sinh, hỗ trợ cho đồng bào; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo để tham mưu cho cấp ủy, chính quyền có giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao đời sống cho đồng bào. Chú trọng công tác vận động, phát huy vai trò của chức sắc, chức việc tôn giáo, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số đi đầu trong công tác tuyên truyền, vận động đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.

------------------------

Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới

 TCCS - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của nhân dân trong công cuộc bảo vệ, phát triển đất nước và tính quyết định của công tác dân vận đối với việc củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác dân vận, thời gian qua, công tác dân vận đã phát huy tinh thần dân chủ, thu hút trí tuệ, cống hiến của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng, quản lý đất nước, là yếu tố bảo đảm sự vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân phường Lê Lợi, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên_Ảnh: TTXVN

1- Vận động quần chúng nhân dân thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là yếu tố quyết định chất lượng của mọi mục tiêu cách mạng, bởi “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(1); đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần gương mẫu, tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, tập hợp quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định công tác dân vận có vị trí then chốt đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện tốt công tác dân vận, đội ngũ cán bộ cần xây dựng được phương pháp khoa học, khéo léo, coi nhân dân là cội nguồn sức mạnh, “chìa khóa” đưa đến mọi thắng lợi vẻ vang, rằng “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”(2); mặt khác, dân vận “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”(3). Cùng với đó, với từng công việc cụ thể, Người yêu cầu xây dựng kế hoạch hợp lý, tránh tâm lý, thói quen tổ chức thực hiện hành động tùy tiện, làm lấy lệ, không đến nơi, đến chốn, “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy”(4).

Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục quan tâm, ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, phương châm, phương pháp tiến hành công tác dân vận trong tình hình mới; chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng trong hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện nhằm tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ(5). Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(6).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận góp phần tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước; thực hiện hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh; tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò của nhân dân trong tham gia, quyết định chính sách liên quan đến cuộc sống, vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước được phát huy; quyền con người, quyền công dân cũng được đề cao. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chú trọng tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, giải quyết kiến nghị, bức xúc của nhân dân, do đó quyền làm chủ của nhân dân được coi trọng, ngày càng đi vào thực chất thông qua các hình thức, như dân chủ trực tiếp, dân chủ ở cơ sở, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình,... Đặc biệt, quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở được đẩy mạnh, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vào cuộc sống dựa trên chủ trương, đường lối của Đảng(7).

Trong đó, ban dân vận các địa phương, đơn vị đã kịp thời tham mưu cho cấp ủy quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định, kết luận của Trung ương mới ban hành về công tác dân vận; tổ chức sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận và xây dựng đề án về công tác dân vận theo hướng dẫn của Ban Dân vận Trung ương và theo yêu cầu, nhiệm vụ; tham mưu cấp ủy ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận gắn với tình hình thực tiễn địa phương. Với phương châm bám sát cơ sở, đi vào thực tiễn, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận các cấp có nhiều cách làm hay, thiết thực, góp phần động viên, thu hút mọi tầng lớp nhân dân, nhất là lực lượng nhân sĩ, trí thức, già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo,... cùng nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ví dụ: Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được quán triệt, triển khai gắn với các phong trào thi đua yêu nước, ban dân vận nhiều tỉnh ủy, thành ủy đã có trang thông tin điện tử, ứng dụng công nghệ số, phối hợp tốt với các cơ quan báo, đài tại địa phương thực hiện việc phát hiện, giới thiệu tập thể, cá nhân, mô hình, điển hình “Dân vận khéo” để biểu dương, nhân rộng, lan tỏa việc làm mới, cách làm hay(8),... qua đó huy động nguồn lực trong xã hội, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng, góp phần thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; chăm lo đời sống của nhân dân ở địa phương, nhất là xã, phường trong thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến chung vui ngày hội đại đoàn kết cùng đồng bào các dân tộc xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, tháng 11-2022 _Nguồn: daidoanket.vn

Cùng với đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường tuyên truyền, vận động, tập hợp, tạo sự đồng thuận, khơi dậy tinh thần yêu nước, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; phát huy tích cực vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực; nhiều kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc được các cấp ủy, chính quyền tiếp thu, quan tâm chỉ đạo giải quyết. Đặc biệt, Ban Dân vận Trung ương phối hợp chặt chẽ với Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội có đảng đoàn để tổ chức thực hiện việc làm thiết thực, hiệu quả công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài; chú trọng thực hiện tốt việc hỗ trợ, bảo hộ công dân đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định, hội nhập vào xã hội sở tại và đối tượng kiều bào về nước sinh sống, làm việc; công tác thông tin tuyên truyền, vận động đồng bào ở nước ngoài trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp nguồn lực tri thức, kinh tế để phát triển đất nước cũng tiếp tục được quan tâm. 

Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh thành tựu đạt được, thời gian qua, công tác dân vận còn một số hạn chế. Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” chỉ rõ: Nhiệm vụ cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả chưa cao, chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng to lớn trong nhân dân. Mặt khác, một số chính sách chưa sát với thực tiễn, còn nhiều rào cản, vướng mắc trong thực hiện; đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn khó khăn; sự chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp nhân dân và các vùng, miền vẫn còn hiện hữu. Việc bảo đảm cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(9) có mặt còn hạn chế; công tác nắm bắt dư luận trước sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời(10).

Thêm vào đó, nhiệm vụ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các hội quần chúng, nhất là ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; thu nhập của một số cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động còn thấp. Tình hình an ninh chính trị tại các địa bàn trọng điểm vẫn tiềm ẩn yếu tố phức tạp, nguy cơ mất ổn định; tội phạm, tệ nạn xã hội, di cư tự do, vượt biên, truyền đạo trái pháp luật,... vẫn diễn ra và có xu hướng gia tăng. Trong khi đó, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta hết sức quyết liệt, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo cũng như khó khăn trong đời sống kinh tế của nhân dân và bất cập trong xã hội chưa được giải quyết kịp thời... hòng phá hoại lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc...

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Đắc Xú hướng dẫn cách cạo mủ cao su cho đồng bào thôn Kei Joi, xã Đắc Xú, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum_Ảnh: TTXVN

2- Trong bối cảnh mới, để tăng cường công tác dân vận, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh, cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, nghiêm túc triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong phát huy tinh thần dân chủ(11); thật sự tin tưởng, tôn trọng nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đặc biệt, tiếp tục tham mưu triển khai, tổ chức thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận mới của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư liên quan đến công tác dân vận và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”; Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30-7-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”,... Như vậy, công tác dân vận phải được cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đoàn thể và cả hệ thống chính trị cùng tham gia thực hiện, coi đó là trách nhiệm chính trị của mỗi tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức.

Thứ hai, từ Trung ương đến mỗi chi bộ, từ lãnh đạo cao cấp, người đứng đầu cấp ủy đến đảng viên đều phải làm tốt công tác vận động quần chúng theo chức trách, nhiệm vụ; nỗ lực tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác dân vận cho các cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân; nắm vững phương châm, phương pháp dân vận của Đảng, phải kiên trì, mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với đặc điểm tình hình, từng đối tượng, điều kiện và hoàn cảnh, tránh chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Thêm vào đó, phải xem “nêu gương” là một trong những nguyên tắc hàng đầu, có mức độ hữu hiệu và thiết thực trong tập hợp, thuyết phục, tạo niềm tin đối với quần chúng, nêu cao tinh thần sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, bởi “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(12). Thường xuyên đổi mới phương thức công tác dân vận; quan tâm củng cố mối quan hệ mật thiết, gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thứ ba, tiếp tục củng cố, xây dựng khối liên minh công - nông và đội ngũ trí thức gắn với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiến tạo nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đối với giai cấp công nhân, công tác dân vận phải góp phần xây dựng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; chú trọng động viên, nêu cao tinh thần tích cực học tập, rèn luyện, sự giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, nghề nghiệp,... để xứng đáng là giai cấp lãnh đạo, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với giai cấp nông dân, các cấp, các ngành cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo, đẩy mạnh tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình kinh tế - xã hội, tập trung thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành, nghề, quan tâm giải quyết việc làm, gia tăng nguồn thu nhập. Đối với đội ngũ trí thức, công tác dân vận phải góp phần tích cực tạo điều kiện, tiền đề bảo đảm đội ngũ trí thức cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc trên mọi phương diện; chú trọng mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài, khuyến khích nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế phục vụ đất nước. Đối với doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài,... công tác dân vận cần hết sức linh hoạt, đa dạng, có các hình thức phù hợp với từng hoàn cảnh, đối tượng và điều kiện cụ thể nhằm đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhận thức lẫn hành động để xây dựng phong trào cách mạng sâu rộng, bền vững.

Thứ tư, cấp ủy cần quan tâm xây dựng, kiện toàn, nâng cao năng lực công tác của Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân các cấp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; chú trọng và làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác vận động quần chúng có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh, uy tín và tâm huyết, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận gắn bó chặt chẽ với quần chúng, “vừa hồng, vừa chuyên”; đặc biệt, phải quan tâm hơn nữa đối với lực lượng cán bộ ở cơ sở, ở nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.      

Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình tư tưởng, đời sống trong các tầng lớp nhân dân để chủ động, kịp thời tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy về chủ trương, giải pháp liên quan đến công tác dân vận đáp ứng yêu cầu mới. Chủ động nắm chắc vấn đề dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng trọng điểm về quốc phòng - an ninh; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách an sinh, hỗ trợ cho đồng bào; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo để tham mưu cho cấp ủy, chính quyền có giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao đời sống cho đồng bào. Chú trọng công tác vận động, phát huy vai trò của chức sắc, chức việc tôn giáo, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số đi đầu trong công tác tuyên truyền, vận động đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.

------------------------

Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 TCCS - Hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là khẳng định mục tiêu phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc của Đảng ta trên thực tế; sự đúng đắn của đường lối chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi cách mạng, của mọi sự phát triển đất nước; tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên thực tế. Đồng thời, hiện thực hóa hệ mục tiêu này còn góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nâng cao uy tín, vị thế của Đảng và đất nước ta trên trường quốc tế; thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm phòng thực hành giáo dục STEM tại Trường Trung học phổ thông Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp_Ảnh: TTXVN

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) đã bổ sung đặc trưng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa như là hệ mục tiêu, vừa như là đặc trưng bản chất đầu tiên của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Hệ mục tiêu này bao gồm các thành tố dân giàu về vật chất, tinh thần; nước mạnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao; xã hội dân chủ, ở đó người dân là chủ thể, vị trí trung tâm; mọi người dân có cuộc sống công bằng, văn minh. Các thành tố trong hệ mục tiêu này có quan hệ, tác động, bổ sung cho nhau, phản ánh khá đầy đủ các mặt đời sống của xã hội mà chúng ta vươn tới. Do vậy, hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, được thể hiện qua những nội dung sau:

Một là, khẳng định mục tiêu phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc của Đảng ta trên thực tế.

Đảng ta không có mục đích nào khác là phục vụ sự nghiệp giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột, lầm than, đói khổ, bất công; phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc. Nhưng giải phóng con người, giải phóng dân tộc không chỉ dừng lại ở giải phóng, mà còn phải thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chỉ trên cơ sở thực hiện được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì con người và dân tộc mới được giải phóng thực sự, triệt để trên thực tế. Nếu dân tộc được giải phóng nhưng người dân vẫn đói, vẫn rét, vẫn thất học, ốm đau, bệnh tật không được chữa thì độc lập dân tộc cũng vô nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(1). Chính vì vậy, Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(2). Đồng thời, giành được độc lập, tự do rồi thì phải xây dựng một xã hội công bằng, hợp lý: “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(3). Nghĩa là thực hiện phương châm “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”(4). Thực hiện được những nguyên tắc này là góp phần thực hiện được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghĩa là khẳng định được mục tiêu phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc của Đảng ta trên thực tế. 

Hai là, khẳng định sự đúng đắn của đường lối chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của của Đảng.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(5). Do vậy, khi hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên thực tế sẽ chứng tỏ Cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta là đúng đắn. Khác với các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng và các tư tưởng tôn giáo cũng mong cho con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, một nghĩa nào đó là cũng mong cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Song các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng và các tư tưởng tôn giáo vẫn chỉ là mong ước, khát vọng. Đảng Cộng sản Việt Nam bằng chủ trương, đường lối lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo toàn thể dân tộc bằng các chương trình, chiến lược, kế hoạch, giải pháp để hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên thực tế. Hiện thực được hệ mục tiêu này là vì Cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta là đúng đắn. Nghĩa là, Cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, thực tiễn khu vực, quốc tế và có cơ sở khoa học, phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của thực tiễn đất nước, khu vực và thời đại, phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn của quần chúng nhân dân. Cũng chính vì vậy, bản thân hệ mục tiêu này cũng như các giải pháp, con đường, cách thức hiện thực hóa hệ mục tiêu này luôn có sự thống nhất, gắn bó mật thiết giữa cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học. Khách quan mà nói, có những lúc, chúng ta có sai lầm, khuyết điểm, nhưng với tinh thần thẳng thắn, khách quan, trung thực, Đảng ta đã sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, giữ vững bản lĩnh cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; trong đó, có sự lãnh đạo thực hiện hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua đó, khẳng định sự đúng đắn của đường lối chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của của Đảng.

Ba là, khẳng định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi cách mạng, của mọi sự phát triển đất nước.

Việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thêm khẳng định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi, của mọi sự phát triển của đất nước. Đảng ta nhận thức rõ vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng lại rút ra bài học “trong mọi công việc của Đảng phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6). Do vậy, Đảng ta đã phát huy, lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính vì vậy, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định đúng đắn rằng: “Bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”(7). Bởi lẽ, nhân dân ta nhận thấy hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, đúng đắn, hợp lý của nhân dân. Do vậy, nhân dân tích cực tham gia hiện thực hóa hệ mục tiêu này. Qua đó, khẳng định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi cách mạng, của mọi sự phát triển đất nước.

Bốn là, khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên thực tế.

Hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” sẽ khẳng định được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên thực tế. Hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã thể hiện được những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta hướng tới. Hệ mục tiêu này thể hiện một xã hội “thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người(8); “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(9); “sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội(10); “một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm(11)... Rõ ràng, hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cho thấy chủ nghĩa xã hội là xã hội ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó và đương thời. Chủ nghĩa tư bản cũng đề ra các giá trị mà nó hướng tới và phải khách quan thừa nhận rằng, “chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”(12). Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Bởi lẽ: “Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó”(13). Do vậy, việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” sẽ khẳng định được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các xã hội khác, nhất là chủ nghĩa tư bản trên thực tế.

Năm là, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hiện thực được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm xã hội công bằng, dân chủ cho nhân dân trên thực tế. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Niềm tin là sự tin tưởng, hy vọng vào điều có căn cứ, cơ sở khoa học, thực tiễn. Nhân dân chỉ tin tưởng vào Đảng khi Đảng mang lại cuộc sống thực sự ấm no, tự do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng cho nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm quý báu: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”(14). Hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là xuất phát từ nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng chân chính, đúng đắn, hợp lý của nhân dân và thực hiện mục tiêu phục vụ nhân dân. Sở dĩ, nhân dân ta một lòng, một dạ đi theo Đảng, bảo vệ Đảng khi có khó khăn, chia sẻ với Đảng khi cần là bởi lẽ, nhân dân thấy Đảng luôn chăm lo cho nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Ngược lại, nếu làm trái lòng dân thì sẽ mất tất cả, dân sẽ không tin, không theo và không ủng hộ. Niềm tin của nhân dân chỉ có thể được củng cố trên cơ sở nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhưng trước hết và trên hết phụ thuộc vào chính hiệu quả hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì hiện thực hóa hệ mục tiêu này là trực tiếp hiện thực hóa những nhu cầu, lợi ích, mong muốn chính đáng, hợp lý, thiết thực của nhân dân. Rõ ràng là niềm tin của nhân dân đối với Đảng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố trực tiếp, hiện thực là Đảng làm gì cho nhân dân trên thực tế, thể hiện rõ hơn cả khi hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Lung linh Lễ hội sông nước Thành phố Hồ Chí Minh_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Sáu là, nâng cao uy tín, vị thế của Đảng và đất nước trên trường quốc tế.

Hiện thực hóa được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, về thực chất, là làm cho đời sống của nhân dân được giàu lên về vật chất, về tinh thần, văn hóa, có sức khỏe thể chất đáp ứng yêu cầu thực tiễn, có cuộc sống công bằng, dân chủ, văn minh. Từ một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, nhân dân đói khổ, đến nay, thu nhập của nhân dân ta đã tăng lên trên 4.000 USD/người/năm. Sau gần 40 năm đổi mới, thực hiện hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu, gồm: “Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(15). Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát: Trong suốt 35 năm qua (tính đến tháng 5-2021) với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD/năm. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều.Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704 thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển(16). Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Có thể nói: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(17)

Đối với Đảng ta, bạn bè quốc tế đánh giá rất cao. Ông Philip Fernandez, đảng viên Đảng Cộng sản Canada, trong Hội thảo kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Uy tín và vị thế cao của Việt Nam trên trường quốc tế đã phản ánh sức mạnh chính trị và ý thức hệ của Đảng, cũng như khả năng tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam khi tìm ra phương hướng trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, và cùng với sự tham gia của nhân dân để đưa ra chương trình nghị sự nhằm xây dựng một nước Việt Nam hiện đại. Một ưu điểm nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là khả năng ứng dụng một cách sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện của Việt Nam để đạt được các mục tiêu ở quy mô quốc gia và quốc tế. Điều này cũng phản ánh niềm tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng. Niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện khi Việt Nam mới đây đã trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần như tuyệt đối”(18). Tương tự, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Argentina, Victor Kot, GS. Carl Thayer của Đại học New South Wales (Australia), nhà Việt Nam học kỳ cựu Evghenhi Kobelev, chuyên gia nghiên cứu hàng đầu của Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga (RAN),... đã đánh giá cao vai trò, uy tín, vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giáo sư Kolotov (Đại học Tổng hợp quốc gia Sant Peterburg Nga) nhấn mạnh, Việt Nam chưa bao giờ có được vị thế cao như hiện nay, điều này đạt được là nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển đất nước, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hơn 7% và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm(19). Rõ ràng là, hiện thực hóa hệ mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Đảng và đất nước ta trên trường quốc tế.

Bảy là, góp phần thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

Trong tác phẩm Di chúc, Hồ Chủ tịch căn dặn: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(20). Chúng ta đều rõ, Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chưa kết thúc. Do vậy, Bác đã nhấn mạnh tới thành tố hòa bình, thống nhất, độc lập, nhưng Bác vẫn mong muốn đất nước ta phải dân chủ, giàu mạnh. Đất nước có dân chủ, giàu mạnh thì chúng ta mới góp phần xứng đáng được vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Bởi lẽ, theo nghĩa thông thường chung nhất, giàu mạnh là giàu có và vững mạnh, còn dân chủ là dân là chủ, dân làm chủ; là quyền lực nhà nước thuộc nhân dân, của nhân dân; ngoài ra, dân chủ còn được hiểu là chế độ dân chủ - một hình thức tổ chức thiết chế chính trị - xã hội mà ở đó toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện hoặc thông qua người đại diện do nhân dân bầu ra, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người. Nếu đất nước không giàu có, không vững mạnh, không có dân chủ thì khó mà xây dựng được đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, cũng như không thể góp phần xứng đáng và sự nghiệp cách mạng thế giới. Điều này cho thấy, hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là góp phần trực tiếp vào thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Việt Nam cũng đóng góp ngày càng trách nhiệm và hiệu quả trong các vấn đề toàn cầu, hoạt động quốc tế, như cử được 5 bệnh viện dã chiến cấp 2 và 2 đội công binh làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Phái bộ Nam Sudan và Abyei; cử 2 đoàn công tác, gồm lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam và lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria vào tháng 2-2023... Đây là biểu hiện rõ của việc thực hiện cam kết chính trị của Việt Nam với vai trò là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, sẵn sàng chung tay giải quyết các khó khăn, thách thức và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, vì sự hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Điều đó góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới của Đảng và nhân dân ta theo Di chúc của Bác Hồ vĩ đại. Như vậy, hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là trực tiếp góp phần thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

Bảy ý nghĩa trên của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” liên hệ, bổ sung cho nhau, cùng nhau thống nhất tạo nên ý nghĩa lý luận, thực tiễn, lịch sử to lớn của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.

--------------------------------------------