Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc

 Vận động quần chúng nhân dân thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là yếu tố quyết định chất lượng của mọi mục tiêu cách mạng, bởi “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(1); đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần gương mẫu, tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, tập hợp quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định công tác dân vận có vị trí then chốt đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện tốt công tác dân vận, đội ngũ cán bộ cần xây dựng được phương pháp khoa học, khéo léo, coi nhân dân là cội nguồn sức mạnh, “chìa khóa” đưa đến mọi thắng lợi vẻ vang, rằng “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”(2); mặt khác, dân vận “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”(3). Cùng với đó, với từng công việc cụ thể, Người yêu cầu xây dựng kế hoạch hợp lý, tránh tâm lý, thói quen tổ chức thực hiện hành động tùy tiện, làm lấy lệ, không đến nơi, đến chốn, “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy”(4).

Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục quan tâm, ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, phương châm, phương pháp tiến hành công tác dân vận trong tình hình mới; chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng trong hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện nhằm tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ(5). Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”

Phải chú trọng tới đạo đức của người cán bộ

 Hiện nay, tình trạng tư duy “cục bộ địa phương” trong công tác cán bộ còn diễn ra, chưa được ngăn chặn triệt để. Nguyên nhân là do chưa xây dựng được cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong tất cả các khâu của công tác cán bộ; đặc biệt, hiện nay khâu đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất, khó khăn nhất. Trên thực tế, đánh giá cán bộ trước khi quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển dễ rơi vào hình thức, cảm tính, thậm chí ở một số nơi còn liên quan đến “nhóm lợi ích”, dẫn đến tình trạng bổ nhiệm cán bộ thì đúng quy trình, nhưng người được bổ nhiệm không “đúng người, đúng việc”.  

Khi đánh giá, lựa chọn cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền phải chú trọng tới đạo đức của người cán bộ; bởi vì, có đạo đức cách mạng sẽ làm cho họ thể hiện được tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, luôn ý thức giữ mình trước cám dỗ; đồng thời, họ phải giữ gìn hình ảnh người đảng viên, xác lập các mối quan hệ công việc và xã hội một cách chuẩn mực, trong sáng. Tạo môi trường, cơ chế để đội ngũ cán bộ được thể hiện năng lực của mình một cách bình đẳng, thông qua công việc, bằng sản phẩm cụ thể. Khi đánh giá cán bộ, cần đánh giá cả một quá trình và đánh giá cả chiều hướng phát triển, thì mới có thể sát, đúng với năng lực và phẩm chất, đạo đức của một người cán bộ. Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu, cần khách quan, minh bạch trong lựa chọn và sử dụng cán bộ; đồng thời, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền trong công tác cán bộ phải tự kiểm soát lẫn nhau, phải tiên phong, gương mẫu, thực hiện đúng theo Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”, Quy định số 101-QÐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”.

Tư duy lý luận của Đảng về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1991 đến nay

 TCCS - Trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, việc xác định mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là vấn đề chưa có tiền lệ. Giai đoạn 1954 - 1986, mô hình CNXH của Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu mô hình CNXH của Liên Xô. Đến Đại hội VII (năm 1991), Đảng bước đầu xác định những đặc trưng của mô hình CNXH ở Việt Nam. Đây là lần đầu tiên nhận thức của Đảng về các đặc trưng của mô hình CNXH được thể hiện một cách hệ thống. Tại Đại hội XI (năm 2011), đặc trưng của mô hình CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng rõ. Sự định hình và dần hoàn thiện các đặc trưng mô hình CNXH của Việt Nam là một minh chứng sinh động về sự phát triển tư duy lý luận của Đảng.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước thăm hỏi chiến sĩ và nhân dân trên đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị, ngày 16-10-2024_Nguồn: thanhnien.vn

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) lần đầu đề ra những đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn của Việt Nam

Trước đổi mới, nhận thức của Đảng về mô hình CNXH ở Việt Nam còn rập khuôn, máy móc, giáo điều theo mô hình của Liên Xô, chưa xuất phát đầy đủ từ hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của thực tiễn đất nước ta. Những khuyết tật, hạn chế của mô hình CNXH này là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước rơi vào tình trạng khó khăn, lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội giai đoạn 1975 - 1986. Chính vì thế, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới, từng bước đổi mới tư duy lý luận về mô hình CNXH, đánh dấu bước chuyển to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mô hình CNXH ở Việt Nam.

Sau 5 năm đưa đường lối đổi mới vào thực tiễn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) đã tổng kết: “Qua thực tiễn, chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh nghiệm quan trọng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta”(1). Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Đại hội VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc thông qua Cương lĩnh năm 1991 trong bối cảnh Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tan rã càng thể hiện bản lĩnh chính trị, trí tuệ của Đảng trước những thách thức hiểm nghèo. Đảng khẳng định: “Sau Đại hội VII, sự tan rã của Liên Xô đã tác động sâu sắc đến nước ta. Đông đảo cán bộ và nhân dân lo lắng, một số người dao động, hoài nghi về tiền đồ của CNXH. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền thống bị đảo lộn. Trong khi đó, Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận. Một số thế lực thù địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ. Nước ta một lần nữa lại đứng trước những thử thách hiểm nghèo. Đảng và nhân dân ta kiên trì đường lối đổi mới, ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, vượt qua khó khăn, trở ngại, giành nhiều thắng lợi to lớn”(2). Từ tư duy rập khuôn, máy móc, giáo điều, đến Đại hội VII, tư duy của Đảng có những bước chuyển biến rõ rệt, thể hiện rõ tư duy độc lập, tự chủ. Việc thừa nhận nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập với kinh tế thế giới có thể được xem là một đột phá quan trọng về tư duy của Đảng khi xây dựng mô hình CNXH.

Nhiều nội dung lý luận, thực tiễn được Cương lĩnh đặt ra, trong đó có nội dung quan trọng là xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên, cụm từ “Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa”(3) được đưa vào Văn kiện của Đảng. Đây là một bước phát triển lý luận mang tính đột phá của Đảng, trình bày căn bản quan điểm của Đảng ta về chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân phấn đấu xây dựng.

Đảng xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng cơ bản(4), là những đặc trưng bản chất hay mục tiêu cơ bản của CNXH ở Việt Nam mà nhân dân ta xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tất cả những đặc trưng trên đều gắn bó mật thiết với nhau, vừa làm tiền đề, vừa làm cơ sở của nhau. Việc thực hiện thắng lợi nội dung này sẽ tác động tích cực tới việc thực hiện có kết quả các nội dung khác. Quá trình xây dựng đồng thời các nội dung đó sẽ đưa đất nước ta từng bước tiến tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Cùng với việc Cương lĩnh năm 1991 xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, nhận thức của Đảng về CNXH đã tiệm cận tới những nét bản chất của CNXH trong điều kiện Việt Nam. Mô hình CNXH ở Việt Nam lần đầu tiên được nhận diện và khắc phục bước đầu tư duy máy móc, giáo điều, rập khuôn theo mô hình Liên Xô trước đây. Mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ, song các đặc trưng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quan hệ đối nội và đối ngoại đã tạo cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện thực hóa thành chế độ xã hội có cơ sở hạ tầng phù hợp với kiến trúc thượng tầng, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đây là lần đầu tiên, trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng đã khái quát được một hệ thống tư tưởng, quan điểm chỉ đạo vừa nhằm mục đích thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, đáng chú ý là giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) tiếp tục có nhận thức mới về mô hình CNXH của Việt Nam, với việc lần đầu tiên chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) với việc định hình ngày càng sáng rõ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Tư duy, nhận thức mới về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Đảng tiếp tục được phát triển, thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI (năm 2011). Với Cương lĩnh năm 2011, Đảng có bước phát triển nhận thức về các đặc trưng để phù hợp với thuộc tính, bản chất CNXH Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(5).

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân_Nguồn: nhiepanhdaoisong.vn

So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các nội dung phản ánh trong 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời  điều chỉnh, bổ sung, phát triển để có được 8 đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Nhận thức mới của Đảng được thể hiện ở một số vấn đề sau:

Thứ nhất, Cương lĩnh 2011 bổ sung thêm 2 đặc trưng: (i) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (ii) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Đặc trưng bao trùm, tổng quát thể hiện mục tiêu chung của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc trưng này là kết quả của sự kết hợp quan điểm Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa cần đạt tới. Cụm từ “dân chủ” được Cương lĩnh đặt lên trước các cụm từ “công bằng”, “văn minh” nhằm làm rõ hơn: Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện bản chất ưu việt, tiến bộ hơn so với dân chủ tư sản, song phải được xây dựng, phát triển thường xuyên và lâu dài, phải coi dân chủ là tiền đề, điều kiện của công bằng, văn minh, khắc phục tư tưởng chỉ coi dân chủ XHCN là động lực, là cái có sẵn sau khi thiết lập chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, ở đặc trưng “do nhân dân làm chủ”, đổi mới trong tư duy của Đảng là nền dân chủ xã hội vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi. Đặc trưng này vừa thể hiện bản chất chính trị ưu việt của CNXH theo quan điểm Mác - Lê-nin, đồng thời tiếp thu quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ: người dân là chủ, dân làm chủ.

Thứ ba, đặc trưng về kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như Cương lĩnh năm 1991 xác định: có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, thì Cương lĩnh 2011 chỉ rõ: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Điểm mới này vừa thể hiện những thành quả của cả 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, vừa làm rõ hơn thái độ nhất quán của Đảng trong thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khắc phục nhận thức coi nhẹ đối với các thành phần kinh tế thuộc chế độ sở hữu tư nhân.

Thứ tư, đặc trưng về xã hội, con người. Điểm mới của Cương lĩnh năm 2011 thể hiện điểm trọng tâm về con người và quan hệ xã hội giữa người với người, giữa con người với xã hội, “có điều kiện phát triển toàn diện” thay cho “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Phát triển toàn diện các lĩnh vực đức, trí, thể, mĩ của cá nhân con người, ngăn ngừa khắc phục tư duy máy móc: phát triển cá nhân là tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ với tập thể, cộng đồng, xã hội.

Thứ năm, đặc trưng về dân tộc, quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 làm rõ hơn cộng đồng các dân tộc Việt Nam bao gồm cả tộc người, cư dân trong nước và cư dân Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời bổ sung thêm nội dung “tôn trọng” để hoàn thiện nội dung bao trùm nhất của chính sách dân tộc là thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

Thứ sáu, về quan hệ đối ngoại. Cương lĩnh năm 2011 làm rõ hơn quan hệ hữu nghị, hợp tác không chỉ với nhân dân các nước nói chung, mà là quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới, bao gồm cả các nước, các thể chế chính trị khác nhau trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.

Những đặc trưng trên là nội dung của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, một thành tựu phát triển sáng tạo lý luận riêng có của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ nghiên cứu tổng kết thực tiễn thường xuyên từ năm 1991, sau 20 năm thực thi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI đã quyết định giữ nguyên tên của Cương lĩnh năm 1991 (chỉ ghi thêm bổ sung, phát triển năm 2011). Điều này thể hiện tính nhất quán của Đảng khi xác định vai trò to lớn của Cương lĩnh là nền tảng chính trị tư tưởng cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội trong quá trình xây dựng CNXH trong suốt thời kỳ quá độ. Theo đó, các đặc trưng thể hiện mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thường xuyên được bổ sung, đổi mới để có những nhận thức mới, nhận thức đúng về các thuộc tính bản chất của CNXH Việt Nam.

Những đặc trưng của mô hình CNXH ở Việt Nam trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 tiếp tục được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(6).

Để hiện thực hóa được mô hình này là cả một sự nghiệp lâu dài, gian khổ, phải đầu tư sức người, sức của to lớn, phải sáng tạo không mệt mỏi, đặc biệt là phải suy nghĩ, tìm tòi lộ trình và bước đi hợp lý, cách làm đúng đắn để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra phù hợp với thực tiễn đất nước. Việc hiện thực hóa các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới.

Trải qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 đến Cương lĩnh năm 2011 và đến nay, có thể thấy, tư duy lý luận của Đảng về mô hình CNXH ngày càng sáng rõ hơn. Đảng xác định được mô hình CNXH phù hợp với đặc điểm, thực tiễn của Việt Nam. Những đặc trưng phản ánh các thuộc tính của CNXH ở Việt Nam ngày càng được nhận thức đúng, rõ ràng, thiết thực hơn trên các phương diện liên quan…, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện thực hóa, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong thời gian tới, cùng với quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, cùng với việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tăng cường tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh đạo xây dựng mô hình CNXH ở Việt Nam, Ðảng ta sẽ tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, góp phần xây dựng được mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện với những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Sự vận động và biến đổi của thế giới hiện nay, của thực tiễn xây dựng CNXH sẽ tiếp tục cung cấp thêm những cứ liệu mới để bổ sung cho nhận thức lý luận của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường để thực hiện mô hình đó ở Việt Nam./.

---------------------------

Nhận diện những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức chủ yếu của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 TCCS - Những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức của Việt Nam trong bối cảnh kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, luôn xuất hiện cùng nhau, đan xen nhau. Việc nhận diện rõ những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đó có vai trò, ý nghĩa quan trọng, là cơ sở xây dựng những chiến lược đúng đắn ở tầm vĩ mô và đề xuất được những giải pháp cụ thể, mang tính hệ thống, khả thi để khắc phục khó khăn, tận dụng mọi thời cơ cho công cuộc phát triển đất nước nhanh, bền vững, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân tỉnh Hưng Yên_Ảnh: TTXVN

Trên cơ sở đánh giá đúng thời cơ, thách thức, thế và lực của đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã xác định rõ dấu mốc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng; từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại(1). Thực tế cho thấy, đất nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện; thế và lực của đất nước ngày càng tăng trên trường quốc tế, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Rõ ràng, đây là thuận lợi to lớn, tạo điều kiện cần thiết, chín muồi để Đảng ta đề ra chiến lược phát triển đất nước trong bối cảnh mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, bắt đầu từ Đại hội XIV sắp tới.

Trong công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua, những thành tựu mà chúng ta đạt được là rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 5,9%). Nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã được tập trung giải quyết và đạt những kết quả bước đầu. Chất lượng tăng trưởng cải thiện; kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc; lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm và có bước cải thiện; kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, hiệu quả sử dụng nâng lên. Cán cân thương mại được cải thiện; xuất khẩu tăng nhanh. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết quả quan trọng. Môi trường đầu tư, kinh doanh, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân cải thiện rõ rệt. Uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được củng cố; Việt Nam giữ một vị trí quan trọng trong việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng trên thế giới; một điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trên thế giới; nhất là trong quá trình chuyển dịch sản xuất hiện nay trên thế giới. Việt Nam tái đắc cử Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, với số phiếu gần như tuyệt đối, 192/193 phiếu. Việt Nam cũng trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025… Những thành tựu này khẳng định uy tín của Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi để đất nước ta bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật. Nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong phòng, chống đại dịch COVID-19 đã đem lại kết quả tích cực; dịch bệnh bị đẩy lùi, kinh tế khôi phục, phát triển nhanh chóng trở lại, đời sống của nhân dân giữ được ổn định, nhất là khi kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của các cuộc xung đột trên thế giới, lạm phát, suy thoái kinh tế ở các nước là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu… Nhiều chỉ số quốc gia của Việt Nam liên tục được cải thiện và vươn lên trên các bảng xếp hạng quốc tế, như Top 30 các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới năm 2022; xếp vị trí 48/132 quốc gia về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII); nhiều chỉ số không ngừng được tăng cao, như chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI), chỉ số các nước an toàn nhất, chỉ số Quốc gia hạnh phúc…

Hòa bình, hợp tác, toàn cầu hóa vẫn là xu thế lớn, dù gặp nhiều thách thức của chiến tranh, xung đột cục bộ, chiến tranh thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Nhân loại đã từng chứng kiến 2 cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc, nhiều cuộc chiến tranh cục bộ, “chiến tranh ủy nhiệm”, “chiến tranh lạnh” ở thế kỷ XX, để lại nhiều hy sinh, mất mát, bất hạnh cho nhân dân các nước. Đặc biệt là xung đột giữa Nga và Ucraina, Israel - Iran đang diễn ra hiện nay gây ra sự lo lắng và để lại nhiều hệ lụy khó lường trong quan hệ quốc tế, “bàn cờ chính trị” giữa các nước trên thế giới, nhất là giữa các nước lớn. Dù vậy, hòa bình vẫn là khát vọng chung của mọi lực lượng tiến bộ trên thế giới. Thế chiến lược cân bằng tiếp tục được tạo ra do hình thành “đa trung tâm quyền lực”, “nhiều cực phát triển”. Song, tranh giành lãnh thổ, nguồn tài nguyên, vị trí địa - chiến lược cùng các mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo… vẫn tiềm ẩn nguy cơ khiến cho chiến tranh, xung đột cục bộ còn xảy ra ở nơi này hay nơi khác, hình thức này hay hình thức khác.

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng theo các hiệp định tự do thế hệ mới làm cho không chỉ lĩnh vực kinh tế, mà tất cả các lĩnh vực của đời sống đất nước chịu tác động mạnh mẽ, thường xuyên, trực tiếp của các yếu tố bên ngoài. Tự do hóa thương mại làm cho các luồng đầu tư, di chuyển lao động, thuế khóa hầu như không còn tình trạng phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Nền kinh tế đất nước ngày càng tham gia sâu vào mạng sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến cho tình trạng tùy thuộc nhau ngày càng chặt chẽ. Hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế mở rộng sang các lĩnh vực phi kinh tế, trong đó có vấn đề quyền con người như là giá trị phổ quát, xây dựng luật pháp, hợp tác quốc phòng - an ninh, trao đổi lý luận,… giữa các nhà nước, chính đảng khác nhau về ý thức hệ. Hội nhập quốc tế thúc đẩy giao lưu văn hóa, du học, chia sẻ thông tin… ngày càng mạnh mẽ. Hội nhập quốc tế không chỉ mang lại cơ hội mà cả thách thức đan xen, nhất là trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo vệ thị trường nội địa, giữ vững độc lập về chính trị, hoạch định luật pháp, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, đấu tranh có hiệu quả trước các hoạt động lợi dụng toàn cầu hóa để chống phá Đảng, Nhà nước, nhất là chống phá trên lĩnh vực ý thức hệ tư tưởng và lợi dụng vấn đề “dân tộc, tôn giáo, nhân quyền” để hòng xuyên tạc, bóp méo, hạ thấp thành tựu phát triển của đất nước ta.

Những thập niên tới, thế giới tiếp tục đối mặt với những vấn đề nan giải toàn cầu mà từng nhà nước, dân tộc không thể tự mình giải quyết được, thúc đẩy hợp tác toàn cầu dưới những hình thức khác nhau để ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Nguy cơ chạy đua vũ trang, xung đột quân sự, tranh chấp lãnh thổ hay tranh giành các không gian chiến lược mới (vũ trụ, đáy biển, Bắc Cực, Nam Cực…), nhất là chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa nước lớn trỗi dậy,… đe dọa đến hòa bình và phát triển. Các thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, suy thoái môi trường, dịch bệnh lây lan nhanh, an toàn lương thực, cạn kiệt nguồn năng lượng hóa thạch, tài nguyên nước, tình trạng sa mạc hóa,… khiến các nước phải hợp tác, bắt tay nhau để cùng chung sức hành động. Phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước pháp quyền, tham gia toàn cầu hóa, nhiều vấn đề tiến bộ xã hội đặt ra ở từng quốc gia khiến các chính phủ phải đối mặt, rộng hơn là hợp tác trên quy mô toàn cầu để chia sẻ và thúc đẩy, như các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, bảo vệ tính đa dạng của sinh học, bản sắc văn hóa dân tộc...

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi nền sản xuất vật chất và tinh thần, rút ngắn khoảng cách giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ khi được số hóa, hình thành phương thức sản xuất thông minh; làm cho các lĩnh vực hoạt động tinh thần thuần túy trước đây trở thành các ngành kinh tế phi vật chất gắn với đổi mới sáng tạo; làm cho quan niệm giá trị tài sản, của cải không chỉ là những vật chất cụ thể có thể quan sát, đo lường bằng phương pháp thông thường mà có khi, đó còn là những cái vô hình như thương hiệu, giá trị lịch sử - văn hóa, bản quyền, sở hữu trí tuệ… Ngày nay, nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ, các phương tiện giao thông và thông tin hiện đại mới cho phép con người vượt qua các giới hạn không gian và thời gian, tạo điều kiện đẩy mạnh sự giao lưu về mọi mặt từ kinh tế mậu dịch, đầu tư, du lịch đến văn hóa nghệ thuật, ẩm thực, tâm linh.

Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, quyền con người ngày càng được đề cao là vấn đề lớn về nhận thức lý luận và thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới sắp tới. Quản lý phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, xã hội phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra trước hết phải có hệ thống pháp luật công bằng, không thiên vị, phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế, dần loại bỏ những điểm trước đây được xem là “đặc thù”. Luật pháp đó phải lấy con người làm trung tâm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người chân chính, phù hợp với luật pháp quốc tế. Nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn đòi hỏi phải hoàn thiện chế độ kiểm soát quyền lực, phòng ngừa và ngăn chặn nguy cơ tha hóa quyền lực, đặt ra những vấn đề mới về nhận thức và tổ chức thực tiễn cơ chế tổ chức các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa quyền lực trung ương và địa phương, giữa quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới là nhu cầu tất yếu khi dân chủ hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa… ngày càng được mở rộng và nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, dân chủ trong Đảng, dân chủ trong bầu các cơ quan nhà nước, dân chủ về mặt tư tưởng, học thuật có vai trò quan trọng để phát huy cao nhất sức mạnh con người phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, lý luận về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc, xem đây là cách thức khơi dậy các nguồn lực và phát huy động lực để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Kinh tế thị trường vừa tạo cơ hội phát triển, vừa tạo sức ép, thách thức cho quá trình phát triển. Bên cạnh những ưu điểm, thị trường cũng có những mặt trái và “khuyết tật”, có ảnh hưởng tới con người và xã hội trong kỷ nguyên phát triển mới; cụ thể là: (i) Các lực lượng có lợi thế trên thị trường thường tìm cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách hướng lái chính sách của nhà nước, giành lấy các cơ hội tiếp cận thông tin và nguồn lực có lợi, hình thành nên “nhóm trục lợi”, đe dọa đến lợi ích của các lực lượng ít có lợi thế hoặc các nhóm yếu thế trong xã hội; (ii) Doanh nghiệp thường chỉ theo đuổi và làm cái gì có lợi nhuận, mà ít chú ý đến các hàng hóa công cộng, lợi ích công cộng (khi ít hoặc không đem lại lợi nhuận); (iii) Kinh tế thị trường lấy phân bổ kết quả sản xuất theo lao động, theo vốn đóng góp, gây nên tình trạng phân cực giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội, nhất là tình trạng nghèo của những người không có cơ hội tiếp cận nguồn lực, người gặp rủi ro, có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt; (iv) Tìm kiếm, tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp thường có thiên hướng hy sinh các lợi ích công cộng, thậm chí có doanh nghiệp còn bất chấp cả những việc làm suy đồi đạo đức (như hy sinh môi trường, sức khỏe của người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng kém chất lượng…); (v) Tính tự phát của kinh tế thị trường dẫn đến các cuộc khủng hoảng chu kỳ hoặc suy thoái, gây ra các hệ lụy khôn lường cả về kinh tế và xã hội. Đồng thời, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam còn những hạn chế, bất cập, có tác động không nhỏ, như quyền sở hữu tài sản và bảo hộ sở hữu tài sản còn yếu; trình độ phát triển của các loại thị trường còn thấp, cải thiện chậm, giá cả của các nhân tố sản xuất bao gồm vốn, đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên vẫn có những mặt chưa theo quy luật thị trường; vị trí, vai trò và chức năng của kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nhà nước vẫn còn có yếu tố chưa phù hợp với tiêu chí, thông lệ của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

Doanh nghiệp FDI đầu tư sản xuất bằng công nghệ hiện đại tại các khu công nghiệp, khu kinh tế của tỉnh Quảng Ninh_Ảnh: TTXVN

Vì vậy, nền kinh tế thị trường cũng tạo ra những sức ép, thách thức không hề nhỏ đối với chiến lược phát triển Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: (i) Tính năng động của khu vực tư luôn đặt khu vực công trước nguy cơ trì trệ, “chảy máu chất xám” nếu chậm đổi mới chính sách tiền lương và dân chủ hóa môi trường làm việc; (ii) Nguy cơ “chảy máu chất xám” ra nước ngoài trong cuộc cạnh tranh nhân tài gay gắt mà lợi thế luôn thuộc về các nước phát triển; (iii) Định hướng chính trị, tư tưởng cho trí thức gắn với xây dựng liên minh công - nông - trí khó khăn hơn, khi trí thức có xu hướng làm việc tự do gắn với doanh nghiệp, nhiều hơn là tham gia trong khu vực nhà nước.

Mức sống và chất lượng sống của nhân dân ngày càng được nâng lên rõ rệt, từ thụ hưởng đời sống vật chất đến đời sống văn hóa - tinh thần. Nhân dân khi đã được thỏa mãn các nhu cầu thông thường (ăn no, mặc ấm) thì sẽ phát sinh nhu cầu bậc cao như: tự do, dân chủ, an ninh, an toàn, khẳng định năng lực bản thân… Đây là những thách thức không nhỏ khi bước sang các giai đoạn, trình độ phát triển cao hơn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới sắp tới. Quản lý phát triển xã hội đặt ra những yêu cầu mới trong bối cảnh quy mô kinh tế ngày càng lớn hơn, hội nhập quốc tế sâu rộng, trình độ phát triển cao hơn, cơ cấu xã hội đa dạng hơn, tâm lý xã hội phức tạp hơn. Những vấn đề xã hội phát sinh từ quá trình phát triển nếu không được nhận diện, quan tâm, xử lý kịp thời, căn cơ thường dẫn tới xung đột xã hội, tạo lực cản cho phát triển bền vững. Nhiều vấn đề xã hội xuất hiện luôn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để làm cơ sở hoạch định chính sách hiệu quả, như: nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, thiết chế văn hóa cho công nhân khu công nghiệp, xử lý tội phạm và tệ nạn xã hội trong nền kinh tế thị trường, di cư nông thôn - đô thị, già hóa dân số, bảo hiểm y tế toàn dân... Thực tiễn phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Bối cảnh mới với sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa tình hình thế giới và trong nước, mỗi chính sách trong nước không thể không tính toán đầy đủ yếu tố quốc tế, đòi hỏi tầm nhìn rộng và sâu hơn; đất nước ta bước sang giai đoạn phát triển mới thì đồng thời cũng sẽ xuất hiện những thách thức mới khó giải quyết hơn khi quy mô nền kinh tế lớn hơn, hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, nhu cầu của nhân dân cao hơn; cơ hội và thách thức đan xen, nhưng thách thức ngày càng gay gắt hơn; các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường gắn bó chặt chẽ, đòi hỏi một năng lực tư duy lãnh đạo, quản lý sắc bén hơn, đa diện hơn, toàn diện hơn trong nhận diện và xử lý các vấn đề đặt ra; không gian và môi trường chiến lược cho phát triển đất nước rộng mở hơn nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức hơn. Điều đó khiến cho công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn, gồm cả những rào cản bên trong thuộc cơ chế, thể chế lãnh đạo, chỉ đạo và những thách thức từ bối cảnh bên ngoài.

Cơ động xã hội và sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, nhưng đồng thời cũng chứa đựng sự phức tạp, đan xen nhau về kết cấu và sự biến động về tính chất của tầng lớp trong xã hội. Thực tế phát triển qua gần 40 năm đổi mới cũng cho thấy, còn có sự bất cập trong đánh giá về vị thế và uy tín nghề nghiệp trong xã hội, dẫn đến sự phản ánh chưa đúng giá trị nghề nghiệp, làm méo mó và nảy sinh nhiều tiêu cực trong quá trình di động nghề nghiệp của cá nhân: Những ngành nghề đòi hỏi phải có trình độ, nhiều “chất xám” như giáo viên, nhà khoa học... có vị thế chưa tương xứng trong xã hội. Bên cạnh đó, cơ chế và hình thức di động nghề nghiệp ở nước ta trong thời gian qua còn biểu hiện thiếu lành mạnh, chưa thực sự công bằng giữa các cá nhân. Còn tình trạng không ít cá nhân thăng tiến vị trí nghề nghiệp nhanh, nhưng chủ yếu dựa vào các yếu tố quan hệ thân hữu, chưa thực sự dựa vào năng lực và sự cạnh tranh tài năng giữa các cá nhân một cách bình đẳng, vẫn diễn ra một cách nhức nhối, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thực trạng này đặt ra những vấn đề bức thiết cần làm rõ từ phương diện lý luận và thực tiễn, từ đó đề ra được quyết sách phát triển đúng đắn trong kỷ nguyên phát triển mới, đáp ứng sự kỳ vọng, niềm tin, sự mong mỏi của nhân dân về những kỳ tích phát triển của đất nước ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.

Thể chế, chính sách đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, cũng như đối với từng lĩnh vực. Theo đó, xây dựng thể chế, chính sách phù hợp là một trong các tiền đề - điều kiện cho phát triển hiệu quả, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới. Một thể chế phù hợp, tiến bộ sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự đổi mới và phát triển; ngược lại, một thể chế không còn phù hợp sẽ trở thành lực cản kìm hãm sự sáng tạo, khát vọng, tâm huyết và hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong xã hội. Bản thân thể chế, chính sách cũng không phải là bất biến, mà nó phải được liên tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển và trình độ xã hội hóa ngày càng cao hơn của xã hội. Nâng cao chất lượng thể chế là khâu đột phá trong chính sách phát triển, trong đó có chính sách phát triển nhân tố con người. Tuy nhiên, hiện nay, đang có nhiều “điểm nghẽn” về thể chế, gây cản trở đến phát triển hạ tầng và nguồn lực, làm chậm bước phát triển của đất nước. Yêu cầu đặt ra cấp bách hiện nay là cần có sự đột phá về tư duy để giải quyết bài toán thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm(2). Vì vậy, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển, là một định hướng quan trọng, giúp chúng ta có thể kế thừa những giá trị phổ quát của văn minh nhân loại, phát triển đất nước tiến bước cùng thời đại, thực hiện khát vọng phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Phân tích, dự báo, xử lý thấu đáo tất cả những vấn đề mới đặt ra đều cần đến tri thức lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay là phải phát huy tốt hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam, đủ sức đảm đương được sứ mệnh, nhiệm vụ nghiên cứu, tích cực tham mưu chính sách, chiến lược cho Đảng, Nhà nước để phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bên cạnh những thành tựu, thì thực tế cũng cho thấy còn không ít những thách thức, hạn chế, hay “khoảng trống” từ công tác nghiên cứu lý luận khi chưa làm rõ nhiều vấn đề lý luận mới, khó, phức tạp, nhất là liên quan đến xác định rõ hơn, sâu sắc hơn nội hàm, mục tiêu, phương thức, điều kiện để đưa đất nước bước vào “kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” trong thế kỷ XXI.

Chẳng hạn, cần tăng cường nghiên cứu lý luận về quốc gia - dân tộc, dân tộc - quốc gia và các khía cạnh mở rộng chủ quyền, lợi ích chiến lược, không gian sinh tồn, trình độ phát triển của quốc gia - dân tộc. Hiện nay, nghiên cứu lý luận về quốc gia - dân tộc còn khá hạn chế, trong khi đó quốc gia - dân tộc hiện đại đã biến đổi khác trước rất nhiều cả về mặt dân cư, nhà nước, lãnh thổ, chủ quyền, nền tảng kinh tế, bản sắc văn hóa, trình độ phát triển,… do tác động của toàn cầu hóa, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thị trường hiện đại, quản trị toàn cầu. Chính vì thiếu những luận cứ khoa học cho xây dựng quốc gia - dân tộc, nên chưa rõ khi xác định các trình độ phát triển của quốc gia - dân tộc, những điểm tương đồng và khác biệt giữa các loại hình quốc gia - dân tộc, sự mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc, tính đan xen, tương tác, chuyển hóa ngày càng lớn giữa những vấn đề quốc nội với quốc tế… Càng thiếu những nghiên cứu về quốc gia - dân tộc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, thời cơ và vận hội phát triển mở ra rộng lớn; tuy nhiên, đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vẫn diễn biến phức tạp, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... vẫn chưa được đẩy lùi có hiệu quả. Các thế lực thù địch, phản động ráo riết chống phá, tăng cường gieo rắc thông tin xấu độc trên không gian mạng, nhằm xuyên tạc, bóp méo về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, thực hiện âm mưu xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đã tạo ra nhiều thách thức cũng như cơ hội đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cần đẩy mạnh công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tăng cường các hoạt động chống phá, kích động bạo loạn, lật đổ…, gia tăng lợi dụng các nền tảng truyền thông xã hội để đăng tải, phát tán tin bài, video… xuyên tạc, bôi nhọ, kích động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là khi đất nước ta có những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa quan trọng, như đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp… Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu; tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định, sức chiến đấu một số tổ chức đảng suy giảm, một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa được đẩy lùi triệt để, còn phức tạp. Điều này gây tổn hại đến vị thế, uy tín của Đảng đối với nhân dân, tác động không tốt đến công tác đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Thực tế này đang đặt ra thách thức không nhỏ đối với công tác cán bộ của Đảng. Chính vì vậy, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết”(3).

Nhận diện rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đang đặt ra đối với Việt Nam có vai trò quan trọng trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không ngừng tìm tòi, đề xuất các giải pháp đồng bộ, khả thi để phát triển đất nước ta tiến bước cùng thời đại, thực hiện khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, với niềm tin và khí thế mới, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI./.

--------------------------

Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 TCCS - Hệ thống pháp luật hoàn thiện là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật hoàn thiện cũng là một trong những yếu tố thể hiện đặc trưng của Nhà nước pháp quyền. Đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay, để quản lý xã hội, quản trị quốc gia tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, từ thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành, việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Mục tiêu là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đại biểu thuộc đơn vị bầu cử số 1, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội tiếp xúc cử tri các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng báo cáo kết quả Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV và lắng nghe các ý kiến, kiến nghị của cử tri_Ảnh: TTXVN

Tiếp nối chủ trương đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng ta từ trước đó, Đại hội XIII của Đảng đánh dấu những bổ sung, phát triển quan trọng trong quan điểm về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết nêu 8 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, nêu quan điểm và mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, khẳng định 3 trọng tâm, xác định 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

Về mục tiêu tổng quát, Nghị quyết số 27-NQ/TW chỉ rõ: Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng XHCN vào năm 2045.

Có thể thấy, mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là để góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong thời gian tới, trong kỷ nguyên mới, được Đảng ta xác định là kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. 

Mục tiêu này đã được nêu tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), về tổng quát, khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng được cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Trong 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà Cương lĩnh nêu, có một đặc trưng là có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Từ đó, với những thành tựu đạt được trong chặng đường vừa qua, giai đoạn hiện nay Đảng ta xác định, “Đại hội XIV là đại hội đánh dấu thời điểm đất nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”(1). Như đồng chí GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu, “Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại”(2). Do vậy, nhiệm kỳ Khóa XIV, trong các đột phá chiến lược được chú trọng, có đột phá chiến lược về thể chế, về hoàn thiện pháp luật; đồng thời, trong các phương hướng, giải pháp chiến lược, có giải pháp chiến lược về tinh gọn bộ máy tổ chức nhà nước. Cần đồng lòng, quyết liệt, tích cực, nỗ lực tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” khơi dậy khát vọng, khơi thông và thu hút được các nguồn lực cho sự phát triển của đất nước. Thông qua đó, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tất yếu có Nhà nước pháp quyền XHCN với mức độ hoàn thiện cao trên cả 8 đặc trưng mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã chỉ ra.

Thực trạng hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Hệ thống pháp luật hoàn thiện là một trong số các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong nỗ lực chung để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ngày càng đạt nhiều thành tựu. Xét trên phương diện chung, hệ thống pháp luật đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu đã được nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận.

Cụ thể, Luật cơ bản - Hiến pháp năm 2013 đã được ban hành, bên cạnh những quy định có tính kế thừa, có nhiều quy định mới mang tính đột phá, cần thiết, là cơ sở để hoàn thiện thể chế tạo động lực phát triển đất nước nhanh, bền vững. Các văn bản luật, pháp lệnh được kịp thời ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế(3). Giai đoạn 2005 - 2007, Quốc hội ban hành 63 luật, pháp lệnh; Khóa XII - nhiệm kỳ 2007 - 2011, Quốc hội ban hành 82 luật, pháp lệnh; Khóa XIII - nhiệm kỳ 2011 - 2016, tính hết kỳ họp thứ 10 vào tháng 11-2015, Quốc hội ban hành 110 luật, pháp lệnh(4); Khóa XIV, tính đến đầu Kỳ họp thứ 11, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 72 luật, 2 pháp lệnh; Khóa XV, tính đến tháng 6-2024, có 43 văn bản luật và 3 pháp lệnh đã được ban hành.

Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện. Tính từ ngày 1-7-2016 đến ngày 31-12-2023, Chính phủ đã ban hành 983 nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 353 quyết định; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; các bộ, ngành ban hành 37 thông tư liên tịch(5)

Cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nguồn bổ trợ là án lệ cũng được chú ý phát triển để bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động của các chủ thể pháp luật, bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền. Tính đến tháng 5-2024, đã có 72 án lệ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quyết định công bố.

Hệ thống pháp luật được xây dựng, hoàn thiện theo quy trình thủ tục ngày càng phù hợp, hiện đại, bảo đảm thể chế hóa đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng. Nội dung pháp luật về cơ bản đảm bảo tính bao trùm, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như trong các lĩnh vực của đời sống xã hội(6). Những kết quả, xếp hạng qua một số chỉ số đánh giá có liên quan cũng cho thấy rõ điều này. Theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) 2024, đối với nhóm chỉ số đầu vào, chỉ số về thể chế kể từ năm 2022 của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể so với các năm thuộc giai đoạn 2017 - 2021. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng 83/132 quốc gia, nền kinh tế; thứ hạng này lần lượt ở các năm tiếp theo như sau: năm 2022, xếp hạng 51; năm 2023, xếp hạng 54; năm 2024, xếp hạng 58(7).

Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể là:

Về tính toàn diện: Xét một cách tổng thể, hệ thống pháp luật toàn diện đòi hỏi sự đầy đủ các quy định pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống cần có pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, từ quy định của Hiến pháp năm 2013, một số quyền cơ bản đã hiến định vẫn chưa kịp thời ban hành được các văn bản luật nhằm cụ thể hóa. Một mặt, đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các chủ thể nhằm quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản luật, việc chậm, nợ văn bản vẫn chưa khắc phục được một cách triệt để. Một số quy định pháp luật bị lạc hậu so với yêu cầu thực tiễn vẫn chưa được kịp thời sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, thực tiễn xã hội diễn ra hết sức sinh động, các quan hệ xã hội biến đổi nhanh chóng, nhu cầu về pháp luật đối với một số lĩnh vực mới là cấp thiết, song vẫn chưa có hệ thống thể chế đầy đủ (đơn cử như hệ thống thể chế cho mô hình khu thương mại tự do FTZ). Bên cạnh đó, vẫn có sự chênh lệch trong các lĩnh vực khác nhau khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, số lượng văn bản luật ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung khá nhiều, song so với nhu cầu thực tiễn vẫn chưa đủ. Điều này dẫn đến việc có nhiều khuyến nghị dành cho Việt Nam khi thực hiện Báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát trước Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc, trong đó, có nhiều khuyến nghị hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật(8).

Về tính đồng bộ: Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự thống nhất, không mâu thuẫn chồng chéo, văn bản có giá trị pháp lý thấp không trái văn bản có giá trị pháp lý cao hơn và tất cả các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp. Đối với vấn đề này, vẫn còn các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo làm cho việc thực hiện không dễ dàng. Kể từ khi có Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật và Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012, công tác pháp điển hóa, hợp nhất văn bản được triển khai có kết quả đã góp phần khắc phục được hạn chế, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ cho hệ thống pháp luật; song, so với nhu cầu thực tiễn, vẫn cần nhiều nỗ lực hơn nữa. 

Về tính phù hợp, hiệu lực, thực tiễn, khả thi: Đối với yêu cầu này, các quy định pháp luật cần có sự phù hợp với trình độ, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa; bảo đảm sự thuận lợi, đạt mục tiêu trong thực thi; có nguồn lực bảo đảm hiệu lực; khi thực thi, phải tạo được động lực phát triển nhanh, bền vững. Hệ thống pháp luật hiện nay còn có các quy định, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước và chưa bắt kịp thời cơ, vượt qua thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những biến chuyển nhanh chóng của các quan hệ xã hội hiện nay, xuất hiện nhiều phương thức, mô hình sản xuất, kinh doanh, thanh toán mới trong lĩnh vực kinh tế, như kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, tiền điện tử… đòi hỏi pháp luật phải hoàn thiện hơn nữa để có quản lý hiện đại hơn, phù hợp hơn, khơi dậy khát vọng, khơi thông nguồn lực, bảo đảm an toàn cho các bên tham gia quan hệ pháp luật. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan những lĩnh vực này có độ ổn định chưa cao, có những văn bản nhanh chóng bị sửa đổi, bổ sung hoặc phải xem xét thời gian hiệu lực. Còn có những văn bản chưa kịp thời phát huy được hiệu lực do các điều kiện bảo đảm hiệu lực, các nguồn lực nhằm tổ chức thực hiện chưa được đầy đủ. Một số quy định chưa thể hiện được vai trò kiến tạo phát triển, chưa thực sự khơi thông được nguồn lực, còn cản trở việc thực thi(9).

Về tính công khai, minh bạch: Đây là yêu cầu nhằm bảo đảm khả năng tiếp cận nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ của các chủ thể pháp luật đối với các văn bản quy phạm pháp luật, từ khi đang ở dạng dự thảo, lấy ý kiến góp ý, cho đến khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, thực hiện truyền thông chính sách. Hiện nay, việc thu hút người dân, đối tượng chính sách, các nhà khoa học… tham gia ý kiến đối với các dự thảo văn bản thông qua đăng tải trên các cổng thông tin điện tử của cơ quan soạn thảo và Chính phủ, thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm... đã được các cơ quan chú trọng thực hiện nhưng khả năng thu hút chưa như mong đợi. Việc xử lý thông tin góp ý và giải trình tiếp thu ý kiến đóng góp chưa dựa được trên lợi thế công nghệ thông minh và có những văn bản chưa thực hiện đầy đủ. Khi các văn bản đã được ban hành, vẫn chưa khắc phục hoàn toàn được thực trạng có những quy định được hiểu thiếu thống nhất, được áp dụng khác nhau. 

Về tính đảng, mặc dù một vấn đề mang tính nguyên tắc đã được khẳng định, là chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật; song, thời gian qua, một số chủ trương, chính sách, thậm chí là chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng kết quả không khả thi(10).

Như vậy, thể chế vẫn là vấn đề mà Đảng ta xác định là một trong ba “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay (gồm thể chế, hạ tầng và nhân lực); trong đó, thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Theo đánh giá của (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) năm 2023 và năm 2024, chỉ số Chất lượng các quy định pháp luật chưa phản ánh rõ xu hướng cải thiện, năm 2021 Việt Nam xếp hạng 93/132 quốc gia, nền kinh tế, năm 2022 xếp hạng 83/132, năm 2023 giảm xuống vị trí 94/132, năm 2024 xếp hạng 95/133 quốc gia, nền kinh tế. Việt Nam cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải thiện thể chế, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. 

Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật. Trong đó, có thể kể đến một số nguyên nhân như: 1- Về phương diện lý luận, chưa nhận thức thống nhất, đầy đủ về yêu cầu, tiêu chuẩn của pháp luật Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam để hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá pháp luật và dựa vào đó xây dựng pháp luật đạt tiêu chuẩn. Trong tư duy xây dựng pháp luật vẫn còn có hiện tượng đặt vị thế của cơ quan công quyền, người quản lý cao hơn trong mối tương quan với đối tượng quản lý; tư duy kiến tạo phát triển chưa thực sự rõ nét. 2- Về phương diện thực tiễn, quy trình lập pháp, lập quy vẫn còn một số bất cập, rườm rà, khó xác định trách nhiệm trong trường hợp chất lượng dự thảo không cao. Chất lượng cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật chưa đồng đều, một số còn hạn chế. Mặc dù đã xác định đầu tư cho thể chế là đầu tư cho phát triển, nhưng sự đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật về cơ bản chưa tương xứng với vai trò đột phá chiến lược của thể chế. Có những trường hợp chưa gắn kết chặt chẽ việc thể chế hóa chủ trương của Đảng vào hoạch định chính sách với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn. Hơn nữa, bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp, nhanh chóng, nhiều trường hợp nằm ngoài khả năng dự báo. Đây cũng là thách thức cho hoạt động xây dựng pháp luật. Ngoài ra, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, trước yêu cầu của chuyển đổi số và nhu cầu mong đợi của người dân ngày càng cao, nhiều quy định pháp luật nhanh chóng bị lạc hậu, xuất hiện nhiều khoảng trống pháp lý, một số quy định pháp luật vì vậy đã cản trở hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội.

Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua luật, nghị quyết tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV_Ảnh: TTXVN

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hướng đến thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hệ thống pháp luật cần tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa với nhiều giải pháp mạnh mẽ, phù hợp; cụ thể là cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý.

Tư duy của con người - đặc biệt là lý luận khoa học - có sức mạnh to lớn trong thay đổi hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Về vai trò của tư duy, lý luận khoa học, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin từng khẳng định: “… lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”(11) và “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”(12). Nhận thức đúng đắn và tình cảm tích cực, từ đó hành động phù hợp với quy luật khách quan sẽ thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Hiện nay, các quan hệ xã hội phát triển, biến động nhanh, đa đạng, đa chiều, phức tạp, nguồn thông tin phong phú, trình độ dân trí ngày càng cao, dân chủ ngày càng được phát huy, đòi hỏi chất lượng xây dựng thể chế, pháp luật phải được nâng cao với tư duy mới. Do vậy, để hoàn thiện pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý theo tinh thần “tư duy sớm”, “tầm nhìn xa”, “4 kiên định, 5 tăng cường”. Trong đó:

+ “4 kiên định” đã được Đảng ta chỉ ra, gồm: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có công tác lãnh đạo Nhà nước tổ chức xây dựng, hoàn thiện pháp luật(13).

+ “5 tăng cường” gồm: tăng cường tư duy kiến tạo phát triển; tăng cường tư duy phát triển nhanh và bền vững; tăng cường tư duy hoàn thiện pháp luật phù hợp đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường tư duy “mở” trong tiếp nhận sáng kiến chính sách, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập; tăng cường tư duy bình đẳng, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Như vậy, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật là nhằm tạo lập hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo, khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. 

Hai là, giải pháp về hoạch định chính sách. 

Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách để góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chính sách công có các dạng biểu hiện cụ thể, trong đó phổ biến là thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật. Hoạch định chính sách có chất lượng là yếu tố quyết định đến chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, đổi mới các khâu trong quy trình hoạch định chính sách phù hợp với yêu cầu quản trị quốc gia theo hướng hiện đại. Các chính sách nếu hoạch định theo quy trình phổ biến trong mô hình quản lý truyền thống, tức là về cơ bản khép kín, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như tính đại diện, tính bao trùm, tính trách nhiệm, tính đáp ứng của chính sách. Về phương diện lý thuyết, quản trị quốc gia hiện đại có một số khác biệt so với quản lý truyền thống, trong đó có sự khác biệt trong quy trình hoạch định chính sách công. Về phương diện thực tiễn, quản trị quốc gia theo hướng hiện đại thể hiện ở tính “mở” của quy trình hoạch định chính sách. Theo đó, việc hoạch định chính sách không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của xã hội và người dân, mà còn coi trọng phát huy vai trò và sự tham gia của xã hội và công dân, trong đó có việc phát huy vai trò tư vấn, phản biện chính sách của các tổ chức tư vấn (think tank). Trong quy trình hoạch định chính sách, Nhà nước tiếp nhận, thu thập một cách rộng rãi các thông tin, tri thức của cá nhân, tập thể và các tổ chức tư vấn, tăng cường tính bao trùm của chính sách, tránh sai lầm về các quyết định, góp phần nâng cao chất lượng chính sách. 

Thứ ba, tăng cường truyền thông chính sách ngay từ khi xuất hiện các sáng kiến chính sách, truyền thông trong quá trình hoạch định và khi một chính sách đã được ban hành để góp phần làm cho các đối tượng chính sách hiểu, tham gia thực hiện chính sách thống nhất; đồng thời, có đủ thông tin góp phần không ngừng hoàn thiện chính sách.

Thứ tư, thực hiện tốt việc đánh giá tác động chính sách, tạo cơ sở khoa học, thuyết phục, nâng cao chất lượng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật.

Thứ năm, có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, các xu hướng cực đoan trong hoạch định chính sách, như: lồng ghép lợi ích cục bộ, tham nhũng chính sách trong xây dựng pháp luật; xa rời chủ trương, đường lối của Đảng; các chính sách cản trở sự phát triển; các chính sách làm phức tạp về thủ tục, tăng chi phí tuân thủ; các mục tiêu của chính sách mâu thuẫn; các chính sách có mục tiêu quá tham vọng; các chính sách phiến diện, không bảo đảm tính bao trùm, không được sự đồng thuận của đối tượng chính sách; xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, “cài cắm” lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội theo Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 27-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật”.

Ba là, giải pháp về ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật cả về nội dung, hình thức, kỹ thuật.

Thứ nhất, có giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Kịp thời thể chế hóa toàn diện, đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng vào chính sách, pháp luật. Có cơ chế phối hợp triển khai và có cơ chế kiểm tra, giám sát, phát hiện các thiếu sót, chậm trễ, sai khác (nếu có) trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục hoàn thiện các chế tài phù hợp, bảo đảm cơ chế áp dụng trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý để xử lý các vi phạm.

Thứ hai, bảo đảm hoàn thiện hệ thống pháp luật toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, có ưu tiên trọng tâm, trọng điểm trong điều kiện còn nhiều văn bản cần ban hành, sửa đổi, bổ sung, theo tinh thần phản ứng nhanh trước thực tiễn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo động lực mạnh cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của xã hội. Trong từng giai đoạn phát triển, cần bám sát thực tiễn, nắm bắt nhu cầu; từ đó, có chương trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật phù hợp và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.

Trong giai đoạn hiện nay, cần xác định đúng, trúng các trọng tâm, trọng điểm để xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Dựa trên những nhận diện về 3 điểm nghẽn, 7 định hướng chiến lược(14), trong thời gian tới, cần chú ý các trọng tâm, trọng điểm sau đây để xây dựng, hoàn thiện pháp luật: 

+ Pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo tinh thần của đổi mới hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm cơ sở pháp lý cho “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát”(15).

+ Pháp luật về quyền con người trong bối cảnh hội nhập; pháp luật về phát huy nguồn lực con người, khơi dậy khát vọng; pháp luật nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về nhân lực, trong đó có công tác cán bộ của hệ thống chính trị.

+ Pháp luật về kinh tế theo tinh thần kiến tạo phát triển nhằm khơi thông nguồn lực, phát triển bền vững; tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng; pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm an toàn trong xã hội số.

Thứ ba, cần tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng hiện đại hơn nữa, dựa trên lợi thế của công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ở cấp độ trung ương và địa phương trên cơ sở tham khảo cách đánh giá về thể chế trong các bộ chỉ số như: Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và cấp tỉnh (PII), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)…; đồng thời, bảo đảm tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW với các yêu cầu của hệ thống pháp luật như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. 

Thứ năm, đồng lòng, nhất quán, kiên trì, quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc khó khăn về pháp lý hiện đã nhận diện được, gồm cả những khó khăn vướng mắc trong văn bản quy phạm pháp luật và khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện pháp luật.

Hướng tới 100 năm thành lập Đảng, 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), để đất nước tự tin, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa, tranh thủ, khơi thông các nguồn lực, không bỏ lỡ cơ hội, nhận diện và vượt qua thách thức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN chính là một trong những nhiệm vụ, giải pháp hết sức quan trọng, cấp thiết./.

----------------------