Thứ Hai, 28 tháng 8, 2023

NHẬN DIỆN ÂM MƯU CHỐNG PHÁ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


Thời đại công nghệ số 4.0 làm thay đổi tư duy, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người với thế giới chung quanh. Con người tiếp cận với tri thức nhanh chóng hơn, mở ra khả năng tương tác; phương thức tác động của chính quyền với người dân đa dạng hơn, nhất là thông qua mạng xã hội. Từ những tiến bộ về khoa học và công nghệ sẽ xuất hiện nhiều hơn một số xu thế mang tính phổ quát bên cạnh những giá trị chung, truyền thống trong quan hệ xã hội ở các quốc gia nói chung với nhiều mức độ, đặc điểm khác nhau. Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch hiện nay đối diện nhiều khó khăn, phức tạp do việc các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng công nghệ số để xuyên tạc, hướng lái, lan toả thông tin xấu độc với các thủ đoạn nguy hiểm. Những âm mưu, thủ đoạn phá hoại trong thời đại số

          Đó là xu thế dân chủ hóa đi đôi với cá thể hóa; xu thế đổi mới quản lý, quản trị quốc gia và trách nhiệm giải trình (chuyển đổi hệ thống hành chính mạnh mẽ sang chính phủ điện tử; phân cấp, phân quyền, minh bạch hóa thông tin; tăng cường nguồn lực cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả); xu thế tăng cường vai trò giám sát của người dân đối với hoạt động của bộ máy công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các hoạt động phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn công nghệ số được các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng, thực hiện tinh vi và xảo quyệt, nguy hiểm hơn.

Tình hình mới đan xen giữa thời cơ và nguy cơ đòi hỏi phải có nhận thức mới có tính biện chứng, sâu sắc và khách quan. Nhận thức mới sẽ đưa đến những nhiệm vụ mới, lý luận mới, phương pháp đầy sức sáng tạo trong sự nghiệp bảo vệ ANQG nhằm tận dụng, khai thác những yếu tố thuận lợi và hạn chế những khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, cơ quan tình báo nước ngoài đã triệt để lợi dụng bối cảnh tình hình và chính sách mở cửa, hội nhập sâu rộng của Việt Nam để tiến hành các hoạt động xâm phạm lợi ích, an ninh quốc gia của ta. 

Trong xu thế hội nhập, Việt Nam tham gia ngày càng sâu trong các kênh hợp tác song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, làm nảy sinh nhu cầu của các thế lực thù địch, cơ quan tình báo nước ngoài thu thập thông tin tình báo nhằm phục vụ thực hiện ý đồ chính trị với nước ta. Đồng thời cũng tạo ra môi trường mới, trong đó đối tác, đối tượng đan xen; đối phương nhiều điều kiện lợi dụng vỏ bọc “đối tác” để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Điển hình như thông qua các hình thức hợp tác trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, sử dụng các tổ chức bình phong để hoạt động tình báo; thông qua các hình thức hợp tác văn hóa, giáo dục, du lịch, nghiên cứu khoa học... để lôi kéo, tác động, hướng lái hoặc thu thập thông tin bí mật.

Bên cạnh đó, việc tăng cường hội nhập quốc tế còn kéo theo số lượng, quy mô các cơ quan, tổ chức và người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, người Việt Nam ra nước ngoài tăng nhanh. Điều này cũng tạo ra điều kiện hết sức thuận lợi cho cơ quan tình báo nước ngoài trong việc đưa nhân viên tình báo, mạng lưới cơ sở, trang thiết bị kỹ thuật xâm nhập vào nội địa ta; cũng như có cơ sở xã hội, nguồn tuyển lựa cơ sở phong phú, rộng rãi trong số người Việt Nam đã và đang ra nước ngoài công tác, học tập, lao động...

Đổi mới hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Tình hình trên cho thấy, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong thời đại công nghệ số hiện nay là rất khó khăn, phức tạp. Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” được hình thành trên cơ sở tổng kết thực tiễn gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Nghị quyết số 35-NQ/TW nêu rõ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị là một trong những nội dung trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII. Việc tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh chống các luận điệu sai trái, xuyên tạc không chỉ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ và sự ổn định của đất nước mà còn nhằm bảo vệ uy tín, hình ảnh Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Những âm mưu thủ đoạn đó thường được nhận diện như sau:
Thứ nhất, âm mưu, thủ đoạn hòng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch đã đưa ra những thông tin xấu, độc nhằm kích thích sự nghi ngờ, phủ định sạch trơn những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với những luận điệu xuyên tạc như: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp với thời đại hiện nay nữa và một đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi
Các tin, bài viết chủ yếu tác động vào mặt tâm lý, kích động những nhóm đối tượng thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ để tạo sức mạnh chống phá. Chúng còn tập trung móc nối, lôi kéo mọi giai tầng xã hội, nhất là số thanh niên, cán bộ, đảng viên có dấu hiệu “tự chuyển hóa” và gần đây chúng có xu hướng móc nối vào số đối tượng có tiền án, nghiện hút, giang hồ mạng... để truyền bá "lối sống phương Tây", công kích, xuyên tạc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
          Thứ hai, âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc phủ định các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Với mục đích nhằm hạ thấp uy tín, kích động, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên tất cả các lĩnh vực: từ con đường đi lên XHCN, về vai trò lãnh đạo của Đảng, về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hay các chính sách đối ngoại, an ninh quốc phòng… đều bị chúng âm mưu xuyên tạc, bóp méo.
Những luận điệu ngày càng tinh vi như: nền kinh tế thị trường là đi theo chủ nghĩa tư bản, định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ ngăn cản thị trường và xâm phạm tới các quy luật của thị trường làm cho nền kinh tế không thể phát triển hay chúng cho rằng quân đội và công an chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước và an ninh, trật tự xã hội, không nên bị chi phối bởi chính trị, vì vậy cần phải “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang" hay liên tục đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội xhủ nghĩa Việt Nam. Thực chất, mục đích cuối cùng của chúng là phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng và nhà nước, cuối cùng là tiến tới lật đổ chế độ ở nước ta.

Thứ ba, âm mưu, thủ đoạn phủ định giá trị lịch sử của dân tộc và những thành quả cách mạng, Với âm mưu này, chúng thường tập trung lấy một số thực tế lịch sử của một số nước khác áp đặt vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, chúng cho rằng một số nước vẫn giành được độc lập, chủ quyền và phát triển mà không cần đến chiến tranh và lên án các cuộc chiến tranh ở Việt Nam là nội chiến, là làm cho người Việt Nam đánh người Việt Nam, đánh đồng những chiến sỹ cách mạng hy sinh vì chính nghĩa với những kẻ làm tay sai, bán nước. Xuyên tạc quan điểm hòa hợp dân tộc của Đảng ta.
Trong thời kỳ đổi mới, không ít thông tin phủ nhận thành quả công cuộc đổi mới, chỉ nhìn vào những hạn chế mà không thấy những giá trị, những thành quả mà Đảng và nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được trong hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Mặt khác, chúng lấy những thành công của một số nước để so sánh, chê bai, phủ nhận thành quả, phê phán những hạn chế, yếu kém của Việt Nam mà không đề cập những khó khăn của đất nước để cùng nhau nỗ lực và xây dựng. Để thực hiện âm mưu đó, các tổ chức phản động... tiếp tục tìm chọn, móc nối, lôi kéo công dân tham gia các tổ chức phản động và thực hiện các hoạt động chống phá ở trong và ngoài nước.

 

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

 Nghị quyết 35 ngày 22/10/2018 của Bộ chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới khẳng định: bảo vệ vững chắc nền tảng của Đảng, củng cố và tăng cường niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội và niềm tin của nhân dân với Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, giữ vững môi trường hoà bình ổn định, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng lật đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động không thay đổi; trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và thời gian vừa qua, trong nước diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp thậm chí tinh vi, nguy hiểm hơn. Hiện nay, phát hiện các tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng chống đối trong nước ráo riết triển khai hàng chục “kế hoạch”, “chiến lược”, “kịch bản” với phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, nguy hiểm chống phá Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội động nhân dân các cấp. Các đối tượng triệt để sử dụng mạng Internet, soạn thảo tán phát tài liệu, phát động tuyên truyền, xuyên tạc phá hoại tư tưởng nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động tư tưởng bất mãn, phản kháng chính quyền.

Đáng chú ý, âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động nhằm thành lập “công đoàn độc lập”, “nghiệp đoàn độc lập”, ý đồ tập hợp lực lượng phá rối an ninh, bạo loạn, mục tiêu cao nhất là lật đổ chính quyền thông qua cam kết cho phép thành lập tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp khi tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương rất đáng lo ngại. Đây sẽ là vấn đề an ninh tiềm tàng trong thời gian tới, nếu không chủ động các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn.

Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng. Thủ đoạn mới của chúng là chuyển từ bôi nhọ bằng luận điệu “du nhập ngoại lai”, “nhập khẩu lý luận” sang đánh tráo, thay thế các khái niệm, thổi phồng cái gọi là “chủ thuyết phát triển mới”, đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lê-nin, kêu gọi dùng “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế chủ nghĩa Mác  - Lê-nin mà cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên, rõ ràng rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam. Chúng trích dẫn một cách cắt xén, nửa vời những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đan cài gài bẫy bằng những quan điểm giả danh mác-xít, làm cho người đọc mất phương hướng, lẫn lộn, không phân biệt được đúng - sai. Chúng rêu rao rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam, giới lý luận và các nhà khoa học của ta đã dịch sai, hiểu sai quan điểm của C.  Mác, Ph.  Ăng-ghen; đồng thời, chúng diễn giải lại theo cách hiểu xuyên tạc, méo mó, hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng với việc công kích trực tiếp vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền, cổ xúy du nhập các trào lưu tư tưởng cực đoanchủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan từ bên ngoài, kết hợp với kích động chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc từ bên trong, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và xã hội.

Thứ hai, các thế lực thù địch, phản động phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa bằng các luận điệu xuyên tạc như: Đảng tự cho mình đứng trên tất cả; Đảng cầm quyền phi chính danh, không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Chúng xuyên tạc các sự kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi tách biệt, đối lập “kinh tế thị trường” với “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chúng còn cho rằng chế độ hiện nay mắc “lỗi hệ thống”, đòi cải cách thể chế chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, thực hiện “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, với âm mưu không gì khác ngoài việc chống phá sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.

Thứ ba, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tình hình đất nước, rêu rao cái gọi là “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, khoét sâu các vấn đề xã hội, tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, đất đai,... nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thủ đoạn thường được chúng sử dụng là: kích động đòi đất, đòi nơi thờ tự vô lối, đòi thực hành tôn giáo trái pháp luật; kích động giáo dân, đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình. Chúng kích động, “hà hơi tiếp sức” cho những kẻ nhân danh “lòng yêu nước” để biểu tình gây rối trật tự, trị an. Đặc biệt, trong thời gian qua, các đối tượng chống đối triệt để lợi dụng các vụ án phức tạp, nhạy cảm để kích động, xuyên tạc, quy kết, vu cáo Đảng, Nhà nước yếu kém, đả kích các cơ quan tư pháp, kích động “bất tuân dân sự” trong xã hội.

 

 

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: BỌN VINH DANH GIẶC, CHÍNH CHÚNG LÀ GIẶC!

CÔNG VÀ TỘI:
I). Công trạng của Hoàng đế QUANG TRUNG với giang sơn và dân tộc: 
1. Đánh tan và đuổi quân Xiêm về nước do Nguyễn Ánh và Lê Văn Duyệt quỳ lạy vua Xiêm xin cầu viện.
2. Đánh tan 29 vạn quân Thanh thống nhất giang sơn, đất nước sạch bóng quân thù.
3. Xóa bỏ tình trạng xứ quân đang nổi lên khắp đất nước.
II) "Công trạng" của tả quân LÊ VĂN DUYỆT với cá nhân NGUYỄN ÁNH:
1. Cùng NGUYỄN ÁNH quỳ lạy vua XIÊM cứu viện đánh nhà Tây Sơn.
2. Cầy mồ cuốc mả lăng mộ và tiêu hủy di cốt Vua QUANG TRUNG.
3. Hèn nhát không chống lại quân PHÁP, mở đường cho PHÁP xâm lược và áp đặt chế độ thuộc địa ở Nam bộ và toàn bộ đất nước rồi cả cõi Đông Dương.
     Tóm lại: Hoàng đế QUANG TRUNG có công to lớn với giang sơn và dân tộc Việt Nam. 
Tả quân LÊ VĂN DUYỆT có "công" với triều Nguyễn bán nước và cá nhân NGUYỄN ÁNH. LÊ VĂN DUYỆT là một tên tội đồ của dân tộc.
"Công" của LÊ VĂN DUYỆT là tội tày đình với dân tộc Việt Nam! 
Kẻ nào vinh danh hắn cũng là giặc!

Yêu nước ST.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH KẺ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO


Đại hội XIII của Đảng: Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng làm tốt công tác tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo. Tăng cường công tác vận động quần chúng, vận động chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, thu hút động viên đông đảo quần chúng có đạo vào các đoàn thể; thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”; thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Làm tốt công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên là người có đạo.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã mở rộng chủ thể thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho “mọi người”, điều mà trước đây chỉ là “công dân”, có nghĩa là những người bị bắt tạm giữ, tạm giam, người đang bị phạt tù, cơ sở giáo dục bắt buộc,... đều có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tôn giáo, đồng thời, Luật tín ngưỡng, tôn giáo cũng bảo đảm cho những người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu được sinh hoạt và hoạt động tôn giáo.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định hạn chế can thiệp hành chính nhà nước vào công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo. Chuyển đổi cơ chế quản lý từ kiểm soát sang giám sát và hướng dẫn. Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời thực hiện phân cấp thẩm quyền quản lý ở Trung ương và địa phương về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng chuyên môn hóa, phù hợp với tính chất, mức độ, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể quản lý và thống nhất với các quy định của pháp luật. Cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của đảng, Nhà

- Tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

-Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, các tôn giáo.

- Chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc, tôn giáo.

- Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị; của những người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phong trào chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng

- Chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng.

 

 

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH DIỄN BIẾN HÒA BÌNH

 

Phòng chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ trong tình hình mới có nhiều lực lượng tham gia và lực lượng của các cơ quan, sở, ban, ngành đoàn thể, các tổ chức chính trị-xã hội nhân dân trong tỉnh; trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Bởi vậy, đây là một giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi “diễn biến hòa bình” và dập tắt bạo loạn lật đổ.

Phối kết hợp chặt chẽ các lực lượng; củng cố chính quyền các cấp; trong phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh; trong nắm tình hình địa phương, nắm và phát hiện âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, hoạt động chống phá gây bạo loạn lật đổ của các thế lực phản động; trong xây dựng kế hoạch, phương án chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; trong đấu tranh giải quyết các ‘‘điểm nóng” đáp ứng yêu cầu phòng ngừa hiệu quả, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các cuộc bạo loạn, sẵn sàng dập tắt các cuộc bạo loạn lật đổ nhanh nhất, kiên quyết không để xảy ra sai lầm tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp.

Ngăn chặn, chia cắt lực lượng biểu tình, bạo loạn, bắt giữ những tên cầm đầu, hung hăng manh động. Phát triển kinh tế xã hội với hoạt động bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, kịp thời giải quyết các tình huống xảy ra ở từng địa phương. Vì vậy, phải được xây dựng rộng khắp, có chất lượng tổng hợp cao, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong các tình huống xảy ra ở cơ sở. Thường xuyên giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, kiến thức pháp luật về biên giới, năng lực làm công tác đối ngoại nhân dân trên biên giới; nâng cao chất lượng huấn luyện sát với nhiệm vụ giữ gìn an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên biên giới.

Bằng các nghiệp vụ của lực lượng, chủ động và phối hợp với các lực lượng khác như bộ đội, biên phòng phải xây dựng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cốt cán nắm chắc tình hình, ngăn chặn, trấn áp những phần tử phản động, cầm đầu đội lốt tôn giáo, ngăn chặn truyền đạo trái phép, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn tỉnh, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu vùng xa không để xảy ra bị động, bất ngờ khi có tình huống xảy ra.

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ trong tham gia đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên mạng xã hội

Đây là giải pháp giữ vai trò quan trọng hàng đầu, là cơ sở để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở Học viện Lục quân hiện nay. Bởi vì, nhận thức giữ vai trò trong định hướng và chỉ đạo hoạt động của các cá nhân và tổ chức. Nhận thức đúng là cơ sở để mỗi cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sỹ Học viện tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.

Hai là, tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực đấu tranh trên không gian mạng cho lực lượng 47

Trước hếtcấp ủy, chỉ huy các cơ quan, khoa giảng viên, đơn vị cần có chủ trương, biện pháp bồi dưỡng năng lực đấu tranh trên không gian mạng cho Lực lượng 47. Nội dung giáo dục, bồi dưỡng phải toàn diện nhằm bổ sung, nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là tri thức khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khả năng tư duy khoa học, trình độ khai thác và sử dụng công nghệ thông tin, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực chuyên môn, nhãn quan chính trị để nhận diện đúng, đấu tranh phê phán có hiệu quảgóp phần bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nayVề hình thức, biện pháp bồi dưỡng, cấp ủy chỉ huy các cơ quan, khoa giảng viên, đơn vị.

          Ba là, tiếp tục đổi mới phương thức, đa dạng hóa hình thức đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên mạng xã hội

Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình” rất đa dạng, tinh vi và thường xuyên thay đổi. Để hoạt động đấu tranh trên không gian mạng thực sự đem lại chất lượng, hiệu quả đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp phải thường xuyên có sự đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, biện pháp đấu tranh. Mỗi cơ quan, khoa, đơn vị cần xây dựng kế hoạch đấu tranh cụ thể trên cơ sở chỉ đạo chung; bám sát đặc điểm đối tượng, khai thác nguồn tin và tổ chức lưu chuyển thông tin phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Phải có sự phối hợp chặt chẽ, phân công cụ thể, xác định rõ nội dung đấu tranh, mục tiêu cần đạt được; đấu tranh thường xuyên, liên tục. Đa dạng hóa các hình thức đấu tranh với các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch trên không gian mạng.      N.T.T

 

 

ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐỐI TÁC TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY


Xác định đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế luôn là vấn đề nhạy cảm, quan trọng đối với các quốc gia - dân tộc. Trong hơn 35 năm đổi mới đất nước, việc nhận diện đối tác, đối tượng, xử lý mối quan hệ giữa đối tác, đối tượng luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng. Đây chính là cơ sở để Việt Nam hoạch định đường lối đối ngoại, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Ngày nay chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là là đế quốc Mỹ đã thay đổi biện pháp chiến lược, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên phạm vi toàn thế giới và ở nước ta diễn ra trong những điều kiện mới và những hình thức mới. Trong điều kiện đó có nhiều mặt tích tụ thành nguy cơ của cách mạng, không chỉ là nguy cơ từ bên ngoài, mà còn nguy cơ nẩy sinh từ bên trong do chính mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng với sự tác động nguy hiểm, thù địch của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động gây ra. Từ thực tế đó, việc xác định đối tượng, đối tác của cách mạng nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng ta có tầm nhìn toàn cục để xác định đâu là đối tượng, đâu là đối tác của cách mạng nước ta, trong tình hình hiện nay.

 Đối tác là thuật ngữ chỉ mối quan hệ cộng tác, hợp tác, liên kết, phối hợp với nhau giữa hai hay nhiều bên để cùng hành động, hỗ trợ lẫn nhau thực hiện những mục tiêu, lợi ích chung hay tương đồng của các bên tham gia. Đối tác có nhiều cấp độ khác nhau: Đối tác quan hệ đặc biệt, đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác chiến lược trong một số lĩnh vực cụ thể, đối tác toàn diện, đối tác hữu nghị. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, không quốc gia nào cỏ thể tự mình phát triển nếu không tham gia vào hội nhập, liên kết, bởi những giá trị phát triển chung của nhân loại ngày càng được phổ biến toàn cầu.

          Đảng ta lại nhấn mạnh: Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản\của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

          Những quan điểm trên cho thấy: Đảng ta xác định rõ con đường phát triển của Việt Nam là phải tham gia hội nhập quốc tế, đến với quốc tế, làm bạn với các nước, các tổ chức quốc tế để cùng bàn bạc, chia sẻ, cùng hợp tác làm ăn. Qua đó, vừa giành lợi ích cho đất nước, cho dân tộc nhờ vào thế mạnh, ưu điểm của mình, vừa tránh được những thua thiệt về lợi ích nếu như ta không tham gia. Đồng thời lại tranh thủ được những kinh nghiệm, bài học, vốn đầu tư và những giá trị tiến bộ của nhân loại để vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

          Việt Nam ngày càng có nhiều đối tác quan hệ hữu nghị, bình đẳng cùng có lợi và chính các đối tác trong quá trình quan hệ, làm ăn, chia sẻ sẽ ngày càng hiểu Việt Nam hơn, ủng hộ Việt Nam, đóng góp vào quá trình phát triển của Việt Nam và góp phần nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Trong những đối tác của Việt Nam, có đối tác về nhiều mặt như chính trị, kinh tế, quốc phòng quân sự, có đối tác về từng lĩnh vực như kinh tế hoặc ngoại giao, quân sự hoặc xã hội, thậm chí là đối tác của một vấn đề chiến lược như đối tác về biến đổi khí hậu, đối tác về chống nước biển dâng. Mức độ xác định đối tác tùy thuộc vào lòng tin chính trị, mối quan hệ truyền thống và thế mạnh của từng đối tác trên lĩnh vực quan hệ. Bước chuyển đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta xuất phát từ các yếu tố:

Trước hết, nhu cầu đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam với các nước. Trước Đại hội VI của Đảng, Việt Nam rơi vào khủng hoảng toàn diện về kinh tế - xã hội; đất nước bị bao vây, cô lập; quan hệ với Trung Quốc chưa được cải thiện. Để thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, Đảng ta đã quyết định tiến hành đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, từng bước khai thông quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc giải quyết vấn đề Campuchia năm 1989 đã giúp Việt Nam gạt bỏ trở ngại quan trọng trong quá trình tìm kiếm thêm bạn bè và trên thực tế đã tạo sự xoay chuyển căn bản trong quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam. Hơn nữa, trong hoàn cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang gặp khó khăn, ngoài nhu cầu thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, Việt Nam còn có thêm nhu cầu mở rộng quan hệ với cả các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Tuyên bố của Đại hội VII (năm 1991): Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, là sự khẳng định mong muốn đó.

Thứ hai, tình hình thế giới, khu vực cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã tác động sâu sắc đến việc đổi mới tư duy của Đảng về quan niệm đối tác - đối tượng. Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh tạo ra những điều kiện khiến xu thế hòa dịu, hòa hoãn trở nên chiếm ưu thế trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới; tạo những tiền đề cho sự hình thành xu thế đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế. Một trật tự thế giới mới theo hướng đa cực đã dần hình thành. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra những thay đổi lớn trong đời sống quốc tế. Toàn cầu hóa trở thành một xu thế tất yếu, khách quan mà không một nước nào trên thế giới có thể đứng ngoài lề nếu không muốn bị tụt hậu.

Thứ ba, các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược quốc gia, chuyển hướng chính sách đối ngoại để thích nghi và giành chủ động ở mức độ nhất định trong môi trường quốc tế mới. Lý do sự chuyển hướng này là bởi những biến động to lớn từ sự thay đổi chế độ xã hội ở một loạt nước Đông Âu và Liên Xô, dẫn tới phá vỡ cục diện hai phe, hai cực. Trong giai đoạn chuyển tiếp từ trật tự thế giới cũ sang trật tự thế giới mới, các nước xuất phát từ lợi ích quốc gia - dân tộc, đều điều chỉnh lại chính sách, tìm kiếm điều kiện thuận lợi nhằm tối đa hóa lợi ích của mình. Các nước lớn chủ trương tăng cường hợp tác và chủ động cải thiện quan hệ với nhau; đều tìm kiếm cơ hội riêng cho mình trong bối cảnh mới, tránh xung đột, đối đầu. Một số khuôn khổ hợp tác đã được hình thành, được sử dụng để chế ngự phát sinh mâu thuẫn và xung đột lợi ích mới.                                  N.T.T

 

           


PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI QUỐC PHÒNG - AN NINH

 

Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh là một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước của Đảng ta. Đảng ta nhận thức sâu sắc và thể hiện rõ quan điểm về phát triển kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức để tạo điều kiện phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Giữ vững và nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế đất nước, đồng thời tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của đất nước, tham gia có hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Phát triển kinh tế thị trường phải kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Theo đó, phải tăng cường đầu tư của Nhà nước, đồng thời huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ; đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ cho các vùng còn nhiều khó khăn; khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển, tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập; khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Triển khai có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn lực xã hội cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần cho những người và gia đình có công với cách mạng. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nâng cao chất lượng chăm sóc súc khỏe nhân dân, tạo môi trường lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ; tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.

Sự phát triển KTTT cũng có những tác động tiêu cực đến tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước, cụ thể:

Một là, phát triển KTTT dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Đây là một tất yếu do có sự hoạt động và phát huy tác dụng của các quy luật kinh tế khách quan. Sự phân hóa giàu nghèo làm phát sinh những biểu hiện tiêu cực, bất mãn - cơ hội, điều kiện để các thế lực thù địch, tội phạm có thể lợi dụng để dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động người dân gây tình huống phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh hưởng xấu tới việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Hai là, phát triển KTTT tác động đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho mọi cá nhân trong xã hội làm giàu hợp pháp và đang có nhiều người, bằng tài năng, sức lực và nguồn lực của mình trở nên giàu có. Nhưng cũng có không ít cá nhân làm giàu bất chính và một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng vị trí công tác có hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, có nhiều tài sản bất hợp pháp. Điều này tác động đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý, đạo đức của mỗi con người trong đó có cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, đặc biệt là đối với những người có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Ba là, đầu tư và thương mại quốc tế bên cạnh những kết quả tích cực mang lại cho nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực tới lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Thông qua con đường hợp tác đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng để thâm nhập vào trong nước, móc nối với các nhân vật bất mãn, phản động, tổ chức các hoạt động chống phá. Cũng thông qua hoạt động đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch tìm cách mua chuộc, khống chế cán bộ, công chức trong các cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước để cung cấp cho chúng các thông tin liên quan đến quốc phòng, an ninh, phục vụ âm mưu phá hoại, lật đổ. Thông qua đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, nghệ thuật... để truyền bá tư tưởng, văn hóa độc hại, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình.                                                                                                         N.T.T

 

SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CHẾ ĐỘ NGHỈ CỦA QUÂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP, CÔNG NHÂN VÀ VIÊN CHỨC QUỐC PHÒNG!

     Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 109/2021/TT-BQP ngày 23-8-2021 (TT 109/2021) sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 113/2016/TT-BQP ngày 23-8-2016 của Bộ Quốc phòng quy định chế độ nghỉ của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng (QNCN, CN, VCQP).

Theo đó, hằng tuần QNCN, CN, VCQP được nghỉ ngày thứ Bảy và ngày Chủ nhật. Đối với đơn vị thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu hoặc do yêu cầu nhiệm vụ, việc nghỉ hằng tuần do chỉ huy cấp Trung đoàn và tương đương trở lên căn cứ tình hình nhiệm vụ của đơn vị thực hiện cho phù hợp.
Về chế độ nghỉ phép hằng năm, TT 109/2021 quy định: QNCN, CN, VCQP có thời gian công tác dưới 15 năm được nghỉ 20 ngày; từ đủ 15 năm đến dưới 25 năm được nghỉ 25 ngày và từ đủ 25 năm công tác trở lên được nghỉ 30 ngày. QNCN, CN, VCQP đóng quân ở đơn vị xa gia đình (nơi cư trú của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp; bố, mẹ, người nuôi dưỡng hợp pháp của bản thân, của vợ hoặc của chồng) khi nghỉ phép hằng năm được nghỉ thêm 10 ngày khi thuộc một trong các trường hợp đóng quân cách xa gia đình từ 500km trở lên; đóng quân ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách xa gia đình từ 300km trở lên; đóng quân tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và Nhà giàn DK1; được nghỉ thêm 5 ngày khi thuộc một trong các trường hợp đóng quân cách xa gia đình từ 300km đến dưới 500km; đóng quân ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách xa gia đình từ 200km đến dưới 300km và có hệ số khu vực 0,5 trở lên; đóng quân tại các đảo được hưởng phụ cấp khu vực.
Trong trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, đơn vị không thể bố trí cho QNCN, CN, VCQP nghỉ phép năm hoặc nghỉ chưa hết số ngày phép năm theo quy định thì năm sau chỉ huy đơn vị xem xét, quyết định cho nghỉ bù phép của năm trước. Trường hợp cá biệt, chỉ huy đơn vị vẫn không thể bố trí cho nghỉ phép được thì QNCN, CN, VCQP được xem xét, thanh toán tiền lương đối với số ngày chưa nghỉ phép năm theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Thông tư số 13/2012/TT-BQP ngày 21-2-2012 của Bộ Quốc phòng quy định chế độ thanh toán tiền nghỉ phép đối với người hưởng lương làm việc trong các cơ quan, đơn vị Quân đội. Thời gian đi đường không tính vào số ngày được nghỉ phép đối với các trường hợp: Nghỉ phép năm; nghỉ phép năm thuộc các trường hợp nghỉ thêm; nghỉ phép đặc biệt. Ngoài ra, TT 109/2021 cũng sửa đổi, bổ sung quy định chế độ nghỉ lễ, tết và và chế độ nghỉ chuẩn bị hưu đối với QNCN,CN,VCQP. TT 109/2021 của Bộ Quốc phòng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10-10-2021./.
Môi trường ST.

BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng định những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong tình hình mới; quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi những quan điểm cơ bản đó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung rộng lớn và toàn diện, quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ với tư duy mới của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn 36 năm đổi mới, đất nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng; chính trị-xã hội ổn định; môi trường hòa bình được giữ vững; quốc phòng an ninh được củng cố và tăng cường; sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp, Tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa góp phần quan trọng làm nên những thành tự to lớn và có ý nghĩa lịch sử đóBảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bao gồm: bảo vệ vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo và thềm lục địa; bảo vệ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lưạ chọn; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá cách mạng nước ta của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.

Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ những thành quả của công cuộc đổi mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giành được. Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ vị thế, uy tín, quyền bình đẳng của nước ta trên trường quốc tế; đấu tranh không khoan nhượng với tất cả các lực lượng và những hành động làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tội phạm và tệ nạn xã hội; giữ gìn kỷ cương, kỷ luật; bảo tồn phát huy các giá trị văn học, nghệ thuật, thuần phong mỹ tục, đồng thời làm phong phú thêm truyền thống bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.

TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH

 

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nền tảng là công nghệ thông tin đang chuyển hóa một phần thế giới thực thành thế giới số và cùng song song tồn tại. Sự phát triển vượt bậc của công nghệ số, đặc biệt là truyền thông xã hội, đã và đang tạo điều kiện cho sự phát triển các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm phục vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Nhà nước ta phải sử dụng đầy đủ cả quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế để giữ vững kỉ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi vi phạm pháp luật và các tệ nạn xã hội, khắc phục cho được tình trạng có những văn bản pháp luật đã được ban hành nhưng không được nghiêm chỉnh chấp hành. Thực tế chứng minh sự kém hiểu biết, thiếu ý thức tôn trọng pháp luật của một bộ phận dân cư đã và đang kéo dài trong thời gian qua.

Xu thế toàn cầu hoá hội nhập và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ như vũ bão trong những năm qua đã đem lại cho đất nước ta những thời cơ, thuận lợi để phát triển, song cũng không ít những khó khăn, thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Những thách thức này đã và đang biến chuyển thành những nguy cơ mới hết sức đa dạng, đa chiều và nguy hiểm; đây thực sự là những mối đe doạ trực tiếp tới an ninh quốc gia hiện nay.

Cùng với những bất cập của pháp luật trong quản lý xã hội, đã dẫn đến thái độ tự do vô kỉ luật coi thường pháp luật đặc biệt là hình thành phổ biến trong xã hội kiểu ứng xử hung bạo trong các quan hệ xã hội. Kiểu cách ứng xử này vừa là hậu quả cơ bản của loại hình tội phạm sử dụng bạo lực người tốt, việc tốt nhằm xây dựng một cuộc sống trật tự, yên vui, lành mạnh.

Đẩy mạnh cải cách tư pháp, quan tâm xây dựng đổi mới, tổ chức hoạt động của cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Cần bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan này có đủ quyền lực và khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ pháp luật.

Việc tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trong công tác bảo vệ an ninh, đòi hỏi Nhà nước ngoài việc tăng cường cho lực lượng Công an mạnh về tổ chức, còn phải quan tâm trang bị các phương tiện nghiệp vụ, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về an ninh quốc gia. Nhà nước ưu tiên áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào việc nghiên cứu, sản xuất các loại phương tiện nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ trang bị cho lực lượng.