Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2024

CÓ NHỮNG KẺ “TÁNG TẬN LƯƠNG TÂM”

Giữa lúc nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế thương tiếc, chia buồn nhà lãnh đạo xuất sắc, tài năng và đức độ của dân tộc ta về nơi an nghỉ cuối cùng, thì lại có những kẻ “táng tận lương tâm” nhân cơ hội này đưa ra những bình luận ác ý, xuyên tạc, suy diễn những vấn đề thuộc nội bộ Đảng ta, đất nước ta, xúc phạm thân thế, hình ảnh, uy tín và công lao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Có đối tượng bỉ ổi, xuyên tạc sự thật, đưa trên mạng xã hội về “nguyên nhân Tổng Bí thư từ trần” là do “đấu đá nội bộ”, “bị đầu độc”, là “đúng kịch bản”, từ đó đưa ra những bình luận sai trái, suy diễn về “dự kiến nhân sự thay thế tới đây”. Họ đã cố tình lợi dụng việc Tổng Bí thư từ trần để bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây hoài nghi trong dư luận nhân dân, làm giảm niềm tin của người dân vào chế độ. Thậm chí có kẻ còn vô lương tâm, bày tỏ sự hả hê, vui sướng trước sự ra đi của Tổng Bí thư trên mạng xã hội nhằm đả kích, nhạo báng, hạ thấp uy tín, phủ nhận những công lao, đóng góp của đồng chí Tổng Bí thư. Đó chính là luận điệu của các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội, lợi dụng để mưu đồ chính trị đen tối.

Có người còn lồng ghép những câu nói “giống như một lời tự sự”, mà thực chất là do chúng tự bịa đặt ghép vào ảnh của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như “Tôi cô đơn giữa một triệu dân Việt Nam, chẳng ai hiểu được tôi nói gì”; “Đất nước này sẽ đi về đâu khi tôi rời đi”… từ đó chia sẻ trên không gian mạng nhằm hạ bệ hình ảnh, uy tín của đồng chí Tổng Bí thư.

Điều đáng nói là, cổ xúy cho những thế lực thù địch ở nước ngoài, một số đối tượng trong nước cũng muốn nổi danh như “kẻ đốt đền” thuở trước, chia sẻ thông tin sai trái lên mạng xã hội. 

Thực tế đã chứng minh, sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại niềm tiếc thương vô hạn không chỉ đối với người dân Việt Nam mà còn đối với bạn bè quốc tế. Ngay sau khi thông tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần được công bố, rất nhiều người sử dụng mạng xã hội Facebook đã thay ảnh đại diện thành màu đen trắng để bày tỏ sự tiếc thương. Nhiều người đăng những bức ảnh dung dị, đời thường, gần gũi của Tổng Bí thư khi tiếp xúc với đồng bào nhằm bày tỏ sự tiếc thương với một nhà lãnh đạo giản dị, gần gũi của nhân dân Việt Nam. Cùng với đó là những dòng trạng thái, cảm xúc đầy thương xót với nhà lãnh đạo gần dân và vì dân. 

Ngay sau khi hay tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần, nhiều nguyên thủ các quốc gia và lãnh đạo các tổ chức quốc tế lớn trên thế giới đã gửi điện chia buồn, trong đó có lãnh đạo các cường quốc trên thế giới như Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống Nga Putin, Tổng thống Mỹ Joe Biden… Các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều đưa thông tin Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng từ trần và điểm lại những dấu ấn của Tổng Bí thư, nhấn mạnh vai trò, thành tựu của Tổng Bí thư trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và đường lối “ngoại giao cây tre”, giúp nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngày 24-7-2024, lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN ra Tuyên bố chung chia buồn về việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần, thể hiện tinh thần đoàn kết của ASEAN sát cánh cùng Việt Nam trước tổn thất và đau thương to lớn này. Tuyên bố chung nhấn mạnh: “Sự nghiệp lãnh đạo và cống hiến suốt đời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho nhân dân và đất nước Việt Nam sẽ luôn được ghi nhớ. Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác khu vực và quốc tế sẽ là di sản vô giá và lâu bền”.

Tục ngữ có câu “Nghĩa tử là nghĩa tận”, rất nhiều người Việt Nam và cả bạn bè quốc tế đang phản đối mạnh mẽ nhưng kẻ “táng tận lương tâm” xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Điều quan trọng lúc này là chúng ta hãy “biến đau thương thành hành động cách mạng” để đồng tâm, hiệp lực thực hiện lời hiệu triệu của Bộ Chính trị cũng là tâm nguyện của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tăng cường đoàn kết, thống nhất, chung sức đồng lòng, tiếp tục phát huy những kết quả, thành tựu quan trọng, toàn diện mà đất nước ta đã đạt được, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt các mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra”./.

                                                                               ANH MINH

 NHẬN DIỆN VÀ PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NÔNG DÂN

Xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây hoài nghi, kích động người nông dân hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức Việt Nam luôn là mục đích của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Bài viết giúp nhận diện luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân Việt Nam; làm rõ thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã đưa lại cho nông dân Việt Nam sự đổi thay nhiều mặt; khẳng định vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

1. Luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân

Cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng luôn là vấn đề trung tâm trong các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam. Trong hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với những chủ trương, đường lối đúng đắn, giai cấp nông dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị bần cùng hóa do chế độ thực dân, phong kiến đã trở thành lực lượng nòng cốt, một lòng đi theo Đảng, vươn lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, góp phần to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng CNXH và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Sự thay đổi, phát triển về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, tinh thần của giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm kể từ khi nước Việt Nam giành được độc lập, nhất là trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước là không thể phủ nhận, được nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Tuy nhiên, đó lại là cái “gai” trong mắt các thế lực thù địch, chúng cố tình không thừa nhận những thành quả mà Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam mang lại cho giai cấp nông dân Việt Nam, mà trái lại còn xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân nhằm gieo rắc hoài nghi, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục đích cuối cùng là gây bất ổn chính trị, xã hội, tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động tập trung vào các vấn đề sau:

Thứ nhất, chúng rêu rao rằng, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thường mị dân bằng các khẩu hiệu: “Nông dân là lực lượng cách mạng”, “Phải biết ơn nông dân”, “Phải ưu tiên phát triển hợp lý nông nghiệp”… nhưng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam còn kém phát triển, bị lép vế; nông dân là người thua thiệt đủ bề, công cuộc đổi mới đất nước không đem lại lợi ích gì cho người nông dân, mà trái lại đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản và cơ chế, chính sách của Nhà nước Việt Nam đã bóc lột nông thôn, nông dân để dồn sức cho công nghiệp hóa và phát triển đô thị.

Thứ hai, chúng xuyên tạc bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở do Đảng Cộng sản Việt Nam dựng lên, chỉ phục vụ cho Đảng, người nông dân không được tham gia bất cứ việc gì của Đảng và Nhà nước; không được tiếp cận rộng rãi với giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội…

Thứ ba, vu khống Đảng và Nhà nước Việt Nam cướp đất của nông dân, dồn sức cho phát triển công nghiệp theo kiểu “đại nhảy vọt” mà không đếm xỉa đến quyền lợi của người nông dân.

Thứ tư, xuyên tạc chủ trương phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn là làm cho người nông dân bị bần cùng hóa ngay trên quê hương và ngay chính trên mảnh đất của họ.

Thứ năm, nhằm gieo rắc hoài nghi cho người nông dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thế lực thù địch đưa ra dự báo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, giai cấp nông dân Việt Nam sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị - xã hội.

2. Thực tế đời sống người nông dân Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới

Một là, công cuộc đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đem lại đổi thay toàn diện cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Trong công cuộc đổi mới, thực hiện CNH, HĐH hóa đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý để phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, giải phóng sức sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân nói riêng và cư dân nông thôn nói chung. Những chủ trương, chính sách đó đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nông thôn; tạo cơ hội mới về phát triển kinh tế, điều kiện sống và hưởng thụ văn hóa tốt hơn cho cư dân nông thôn nói chung và người nông dân nói riêng.

Từ các chủ trương, chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng hệ thống điện, “cứng hóa giao thông nông thôn”, “bê tông hóa kênh mương thủy lợi”, “kiên cố hóa trường học, trạm xá” đến xác định, tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia như: xây dựng nông thôn mới; xóa đói, giảm nghèo; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi…Nhà nước đã bố trí nguồn lực, đồng thời phát động phong trào, huy động sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tạo được nguồn lực đầu tư to lớn, làm cho nông nghiệp, nông thôn thay đổi toàn diện; tạo điều kiện, tiền đề quan trọng để người nông dân khai thác, phát huy mọi nguồn lực đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển nhanh và chuyển dịch mạnh mẽ.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường nông thôn được tăng cường về số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế và chất lượng đời sống cho người nông dân. Hệ thống giao thông khu vực nông thôn được xây dựng, nâng cấp, bảo đảm tính kết nối cao, đáp ứng cơ bản nhu cầu giao thông của người dân cũng như lưu thông hàng hóa. Hệ thống điện được bao phủ hầu khắp khu vực nông thôn, vươn tới các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và dân sinh. Hệ thống thủy nông được đầu tư kiên cố hóa, nâng cao năng lực tưới tiêu, phục vụ hiệu quả cho phát triển nông nghiệp. Việc phát triển giao thông, điện, thủy lợi khu vực nông thôn đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân bố trí sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; nông sản hàng hóa được lưu thông thuận tiện hơn.

Hệ thống tín dụng ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, quỹ hỗ trợ nông dân và các quỹ phát triển khác bao phủ hầu khắp khu vực nông thôn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh của nông dân.

Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư được quan tâm đầu tư về nhân lực, vật lực; hoạt động tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh, giúp nông dân ngày càng tiếp cận tốt hơn với tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học cũng như cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và tiếp cận thị trường, giúp người nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Hệ thống chợ phát triển thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ đã hỗ trợ sản xuất và dân sinh đa dạng, rộng khắp, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu vật tư hàng hóa cho sản xuất, cũng như tiêu thụ sản phẩm của nông dân.

Cơ sở sản xuất công nghiệp hình thành và phát triển ở khu vực nông thôn, nhất là cơ sở chế biến nông, lâm, thủy hải sản đã tạo việc làm mới, thu hút lực lượng lớn lao động, trong đó chủ yếu là nông dân; tạo liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và nông dân theo chuỗi giá trị.

Làng nghề được rà soát, quy hoạch lại cùng chính sách hỗ trợ, khôi phục, phát triển làng nghề được ban hành góp phần quan trọng làm cho sản phẩm hàng hóa làng nghề ngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường, đem lại lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội cho khu vực nông thôn, tạo việc làm, thu nhập và sinh kế ngày càng bền vững cho người dân nông thôn.

Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đạt kết quả quan trọng. Đặc biệt, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; 12 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, khu vực nông thôn Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét trên tất cả các lĩnh vực: nông thôn thay đổi toàn diện, kinh tế nông thôn phát triển và chuyển dịch nhanh chóng, thu nhập của người nông dân ngày càng tăng, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện rõ rệt đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. “Nông nghiệp… tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng,… góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”(1).

Tư duy, cách nghĩ, cách làm của nông dân thay đổi, từng bước chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất hàng hóa lớn; từ kinh tế hộ đơn lẻ sang hợp tác, liên kết, liên doanh theo chuỗi; từ sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống sang ứng dụng khoa học công nghệ; từ coi trọng năng suất sang coi trọng chất lượng sản phẩm; lợi nhuận gắn với an toàn thực phẩm và phát triển bền vững. Các mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại tổng hợp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, tổ hợp tác liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi giá trị đã mang lại nhiều thuận lợi cho tổ chức sản xuất và hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Lòng tin của người nông dân đối với Đảng ngày càng được củng cố vững chắc. 

Hai là, dân chủ cơ sở được phát huy, đời sống chính trị, văn hóa của cư dân nông thôn ngày càng được nâng cao; an sinh xã hội ngày càng được bảo đảm, trật tự an toàn xã hội được giữ vững

Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm thực hiện quan điểm của Đảng về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Hiến pháp năm 2013 với tinh thần đề cao quyền làm chủ của nhân dân đã quy định các hình thức thực hiện quyền dân chủ như: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6); Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và yêu cầu thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2)…

Thể chế hóa quan điểm của Đảng, để quyền làm chủ của người dân ngày càng được bảo đảm, phát huy trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở cơ sở, từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã ban hành và nhiều lần sửa đổi, bổ sung văn bản pháp quy về thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, như: Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và mới đây là Luật Thực hiện dân chủ cơ sở. Dân chủ đại diện được phát huy mạnh mẽ, dân chủ trực tiếp được mở rộng, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ngày càng được thực hiện đồng bộ, cụ thể và đạt hiệu quả thiết thực; vai trò, vị trí của người nông dân trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội được khẳng định mạnh mẽ.

Qua đó, góp phần quan trọng phát huy tinh thần đoàn kết, lòng yêu quê hương, đất nước; phát huy sức mạnh, sức sáng tạo của người dân nói chung, người nông dân nói riêng trong tham gia bàn bạc, quyết định những công việc của địa phương, của đất nước; người dân góp ý kiến xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý xây dựng Đảng, chính quyền; giám sát hoạt động của chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.

Bầu không khí dân chủ được rộng mở đã tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân nói chung, nông dân nói riêng đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Với quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần”, trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm nâng cao đời sống tinh thần nhân dân và để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Hệ thống thiết chế văn hóa, thông tin được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thụ hưởng văn hóa và thông tin của cư dân nông thôn. Văn hóa truyền thống được khơi dậy, bảo tồn và phát huy, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hầu hết các loại hình sinh hoạt văn hóa phi vật thể của nhân dân ở các vùng, miền đều được Nhà nước và chính quyền các cấp tổ chức sưu tầm, công nhận và bảo tồn, trong đó có một số được Nhà nước đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Các lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc được khôi phục và được tổ chức hằng năm, các giá trị truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp được giữ gìn và tôn vinh… đã đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Loại hình du lịch cộng đồng được phát triển nhiều nơi đã mở ra hướng kinh doanh mới, tạo việc làm, thu nhập bền vững cho người nông dân, góp phần quan trọng thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại, hiệu quả.

Lĩnh vực giáo dục ngày càng được quan tâm đầu tư và phát triển. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ngày càng được tăng cường; mạng lưới cơ sở giáo dục ngày càng được mở rộng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Hệ thống trường lớp từ mầm non đến giáo dục phổ thông được xây dựng mới, nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu giáo dục của nhân dân nói chung và cư dân nông thôn nói riêng.

Hệ thống y tế cơ sở, trong đó nòng cốt là trạm y tế xã được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực. Công tác chăm sóc sức khỏe cho cư dân nông thôn được quan tâm; năng lực, chất lượng y tế dự phòng và khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân ngày càng tốt hơn; chính sách bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện tốt. Kết quả đó đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện các chỉ số sức khỏe, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng với chi phí hợp lý cho người nông dân, góp phần tăng cường và hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân.

Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định rõ quan điểm: “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Với quan điểm đó, công tác xóa đói, giảm nghèo luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm. “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo” của Liên hợp quốc được Việt Nam thực hiện tốt với nhiều cách làm sáng tạo.

Chính phủ đã hỗ trợ toàn diện cho người nghèo, như: hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; bảo đảm mọi người trong hộ nghèo đều có cơ hội tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh thông qua bảo hiểm y tế; miễn giảm học phí cho học sinh nghèo; hỗ trợ về nhà ở, nước sạch và nước hợp vệ sinh; hỗ trợ dạy nghề và tìm kiếm việc làm; trợ giúp pháp lý, vay vốn tín dụng ưu đãi; giải quyết đất ở, đất sản xuất, giao rừng… Nhiều huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã được đầu tư cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh.

Đánh giá về thành công của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói giảm nghèo, bà Caitlin Wiesen - đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đánh giá: “Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất về xóa đói, giảm nghèo trên thế giới. Việt Nam được thế giới công nhận thành tựu xóa đói giảm nghèo phi thường về giảm tỷ lệ nghèo cùng cực, từ 49% dân số vào năm 1992 xuống chỉ còn 2% vào năm 2016. Việt Nam đã giảm đáng kể tỷ lệ nghèo đa chiều, từ 16% vào năm 2012 xuống còn 5% vào năm 2018. Hơn 6 triệu người thoát khỏi nghèo đói trong 6 năm, điều này thật phi thường. Khi so sánh với các nước khác, tỷ lệ nghèo đa chiều của Việt Nam thấp hơn 5% so với hầu hết các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”(3).

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được khơi dậy mạnh mẽ, hiệu quả, thiết thực. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã chỉ đạo, giải quyết ổn định các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai ngay tại cơ sở, không để hình thành các điểm nóng, phức tạp về an ninh, trật tự;… Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện nội dung Tiêu chí “Xã đạt chuẩn an toàn về an ninh, trật tự xã hội và bảo đảm bình yên” được quan tâm,… Giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện trong quá trình triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội, giải phóng mặt bằng liên quan đến an ninh nông thôn.

Ba là, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đã thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người nông dân

Việc thực hiện quy hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thu hồi đất để xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế, cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch được thực hiện công khai, dân chủ, được đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ, đã đáp ứng ngày càng tốt cho phát triển sản xuất kinh doanh, đời sống dân sinh, cũng như nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giáo dục, y tế của nhân dân; thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm mới, tạo điều kiện để lao động nông nghiệp, nhất là lao động trẻ chuyển sang làm việc trong các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, qua đó tác động tích cực tới việc nâng cao chất lượng lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Bên cạnh những lợi ích đó, khi thu hồi đất, Nhà nước đã có các chính sách bồi thường, tái định cư hợp lý, được hầu hết những người có quyền, lợi ích liên quan đồng tình. Đồng thời, Nhà nước có chính sách đào tạo nghề cho những người trong độ tuổi có đất bị thu hồi để họ chuyển sang ngành nghề mới, ổn định cuộc sống. Với những chính sách đúng đắn đó, hầu hết người dân có đất bị thu hồi đều có nơi ở mới bằng hoặc hơn nơi ở cũ; có ngành nghề, việc làm mới phù hợp, thu nhập ổn định, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện. 

Bốn là, xây dựng, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao đã nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa và tăng thu nhập cho người nông dân

Để phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, tạo vùng sản xuất chuyên canh, tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, Đảng và Nhà nước đã ban hành và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách khuyến khích “dồn điền, đổi thửa”, tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, xây dựng cánh đồng mẫu lớn; khuyến khích phát triển kinh tế trang trại; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.

Đại đa số nông dân đã nhận thức rõ về tính tất yếu trong liên kết, hợp tác sản xuất, sự cần thiết trong sản xuất hàng hóa quy mô lớn là xu hướng tất yếu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, với cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, người nông dân đã tích cực, chủ động thực hiện tích tụ, tập trung đất nông nghiệp; thực hiện “dồn điền, đổi thửa”; tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ; khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất đai, lao động, nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất; phát triển kinh tế tập thể, các tổ hợp tác, liên kết giữa các hộ nhằm tập trung đất đai, tiền vốn, năng lực quản lý để hình thành các mô hình chuyên canh, vùng sản xuất hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao. Với chính sách khuyến khích đầu tư phát triển trang trại, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn nhận những vùng đất hoang hóa, xa, xấu, cằn cỗi để đầu tư phát triển trang trại, tạo ra việc làm cho gia đình và cho nhiều nông dân trong địa phương.

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp sẽ là giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định như: Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29-01-2010, phê duyệt “Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020”; Quyết định số 1895/QĐ-TTg, ngày 17-12-2012, phê duyệt “Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020”. Để thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, trong đó chỉ rõ: “Hiện đại hóa, thương mại hóa nông nghiệp, chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, sản xuất lớn, dựa vào khoa học - công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng. Chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất lương thực là chủ yếu sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng phù hợp với lợi thế của từng vùng”(4)…

Nghị quyết là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Qua đó, lợi thế từng địa phương được khai thác hiệu quả hơn, cơ cấu sản xuất nông nghiệp được điều chỉnh theo hướng gắn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi và quy trình sản xuất tiên tiến được áp dụng, nhất là quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) đã tạo ra những sản phẩm an toàn, chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.

Năm là, nông dân Việt Nam là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới hướng tới văn minh, phát triển toàn diện, có thu nhập cao; là lực lượng quan trọng bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội

Người nông dân từ miền ngược đến miền xuôi, từ ven biển, hải đảo đến miền núi, biên cương không chỉ là trung tâm của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước mà họ đã thực sự là chủ thể nắm bắt những cơ hội, điều kiện thuận lợi do cơ chế, chính sách mang lại, chủ động tiếp cận những thành quả chung và tận dụng, phát huy, tạo ra những đổi thay quan trọng trong suy nghĩ, trong cách làm về phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mình. Đồng thời, nông dân cũng thực hiện đầy đủ, tự giác trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp khắc phục nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của nông nghiệp, hiện đại của nông thôn và xây dựng người nông dân hướng tới văn minh, hội nhập, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: nông dân “là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội,... giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”(5), “Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới... Mục tiêu cao nhất trong phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn. Chú trọng xây dựng nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, văn minh, yêu nước, đoàn kết,… có ý chí, khát vọng xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc;… trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường; được thụ hưởng những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước tiếp cận các dịch vụ của đô thị... Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ;... đời sống văn hoá lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm... Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nông thôn cần chú trọng phát triển hài hoà, đồng bộ cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, gắn với cơ cấu lại lao động, tạo sinh kế, việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông dân và cư dân nông thôn, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả và bền vững(6). Từ quan điểm đó, Đảng đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo và chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản để đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống như: Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28-7-2021 của Quốc hội về việc “phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22-2-2022 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 28-01-2022 về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025”; Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14-10-2021 “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025”. Phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2019 - 2025”;… Đồng thời, Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách an sinh xã hội như: Trợ cấp cho người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và đang đề nghị thực hiện đối với người từ 75 đến dưới 80 tuổi; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng chính sách, người già, hộ nghèo, hộ cận nghèo; cho nông dân vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội, từ Quỹ hỗ trợ nông dân; thực hiện miễn, giảm thuế…

Với những thành quả, bài học kinh nghiệm trong những năm qua và việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức thực hiện trong những năm tới, chắc chắn rằng nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam sẽ tiếp tục gặt hái nhiều thành công mới. Người nông dân luôn là trung tâm, là chủ thể trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; là người tham gia ý kiến, quyết định và hưởng lợi trực tiếp từ kết quả đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp, dịch vụ; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Như vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định mục tiêu cao nhất trong phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn, không phải như các luận điệu xuyên tạc, phản động của thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị. Do vậy, không có cơ sở khoa học, thực tiễn nào để nói rằng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 người nông dân Việt Nam bị bần cùng hóa và tiềm ẩn gây mất ổn định chính trị, xã hội./.

 Tạp chí Lý luận Chính trị

LỜI CẢM ƠN!

     Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Lễ tang Nhà nước và gia đình đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng cảm ơn toàn thể đồng bào, đồng chí, chiến sỹ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, đã dành những tình cảm sâu nặng, niềm tiếc thương vô hạn và sự kính trọng sâu sắc đối với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; đã đến viếng, gửi điện, lời chia buồn, dự Lễ truy điệu, tiễn đưa đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về với lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam văn hiến, văn minh và anh hùng.

Trong những ngày qua, hàng triệu trái tim Việt Nam và bạn bè quốc tế hướng về Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh và quê hương Đông Hội, nơi tổ chức Lễ Quốc tang đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; hàng trăm nghìn người dân ở mọi miền Tổ quốc không quản đường sá xa xôi, không quản nắng mưa thành kính trên suốt tuyến đường tiễn đưa đồng chí Tổng Bí thư về nơi an nghỉ cuối cùng. Đã có hàng trăm lãnh đạo các nước/vùng lãnh thổ gửi thư, điện, thông điệp chia buồn; hàng trăm đoàn quốc tế dự Lễ viếng, Lễ truy điệu và an táng; hàng nghìn đoàn với hàng trăm nghìn người dân đến viếng đồng chí Tổng Bí thư; hàng nghìn đoàn viếng tại các cơ quan đại diện ta ở nước ngoài. 

Một lần nữa, Ban Lễ tang Nhà nước và gia đình trân trọng cảm ơn tình cảm đặc biệt của đồng bào, đồng chí, chiến sỹ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế đối với đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và đất nước, con người Việt Nam văn hiến và anh hùng.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
UỶ BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: LỜI CẢM ƠN CỦA CON TRAI TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG TẠI LỄ TRUY ĐIỆU!

     Sau điếu văn, con trai Tổng Bí thư là anh Nguyễn Trọng Trường thay mặt gia quyến nói lời cảm ơn tới các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ, ngành, đoàn thể trung ương, địa phương, lãnh đạo các nước, bạn bè quốc tế!

Thay mặt gia đình, anh Nguyễn Trọng Trường, con trai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đáp từ: "Bố chúng cháu sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, y bác sĩ đầu ngành tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao bệnh nặng, đã đã từ trần hồi 13 giờ 38 phút ngày 19-7-2024 (tức ngày 14 tháng 6 năm Giáp Thìn), tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội, hưởng thọ 80 tuổi.

Bố chúng cháu không còn nữa mang đến nỗi đau sâu sắc đối với gia đình, nhất là mẹ cháu.

Từ khi bố chúng cháu lâm bệnh đến tận những giây phút cuối cùng, và trong suốt quá trình tổ chức tang lễ, gia đình luôn nhận được rất nhiều tình cảm động viên, chia sẻ chân tình, sự giúp đỡ của Đảng, nhà nước, các cơ quan, đơn vị Trung ương, địa phương, các ông bà, các bác, các cô chú, anh chị em; tình cảm của nhân dân cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế.

Mẹ cháu và toàn thể gia đình xin bày tỏ lòng sự trân trọng và lòng biết ơn sâu sắc, chân thành nhất.

Tại thời khắc này, một lần nữa, cháu xin cảm ơn tới các bác, các cô, các chú lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, nhà nước; lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế, các cơ quan ngoại giao các cơ quan đoàn thể Trung ương và địa phương, các quý vị đại biểu, các ông bà, các cô chú, anh chị em, đồng bào ta và bạn bè quốc tế đã đến viếng và tiễn đưa bố chúng cháu về nơi an nghỉ cuối cùng.

Gia đình xin cảm ơn các cơ quan đoàn thể Trung ương, địa phương, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Nhà tang lễ quốc gia đã chuẩn bị chu đáo trong những ngày tang lễ".

Các cơ quan, thông tấn, báo chí đã đưa tin kịp thời về lễ tang.

Trong quá trình tổ chức tang lễ chắc chắn không tránh khỏi sơ suất và gây ra phiền hà cho bà con, gia đình xin được lượng thứ./.


Theo: VOV.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CUỐN SÁCH “QUỐC HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG TIẾP TỤC ĐỊNH HƯỚNG CHO QUỐC HỘI KHÔNG NGỪNG ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN!

     Ngày 6-1-1946, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thử thách sau khi đất nước giành được độc lập, cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã được tổ chức thành công, mở ra thời kỳ phát triển mới của dân tộc!
Trải qua gần 80 năm, với 15 nhiệm kỳ hoạt động, Quốc hội luôn gắn bó, đồng hành với dân tộc, không ngừng phát huy vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, một thiết chế dân chủ, trụ cột quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Quốc hội Việt Nam luôn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đổi mới và phát triển, đạt được nhiều thành tựu, khẳng định vững chắc vị thế, vai trò, đóng góp to lớn và quan trọng vào những thành tựu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn hiện nay, nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, việc tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, để hoạt động của Quốc hội ngày càng dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, góp phần cùng hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trên cương vị là đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII, XIII, XIV, XV (từ năm 2002 đến nay), Chủ tịch Quốc hội khóa XI, XII (6-2006 / 7-2011), Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (10-2018 / 4-2021), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (từ năm 2011 đến nay), đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn dành sự quan tâm đặc biệt, sát sao, sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, khách quan, khoa học, đồng thời cũng rất cụ thể, sâu sắc đối với việc kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội Việt Nam trên từng nhiệm vụ, trong từng lĩnh vực, ở từng thời kỳ; đồng thời chú trọng việc nghiên cứu, từng bước phát triển tư duy lý luận và thực tiễn về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Cuốn sách “Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được xuất bản trong thời điểm có nhiều sự kiện quan trọng: Quốc hội khóa XV vừa hoàn thành thắng lợi các nội dung của Kỳ họp thứ bảy-kỳ họp có khối lượng công việc về công tác lập pháp nhiều nhất kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay, thông qua nhiều dự án luật liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, được cử tri và Nhân dân cả nước rất quan tâm; tình hình kinh tế-xã hội của đất nước 6 tháng đầu năm 2024 đạt được những kết quả tích cực với tốc độ tăng trưởng ấn tượng; toàn Đảng, toàn dân đang nỗ lực thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, thiết thực chào mừng 80 năm Ngày thành lập nước (1945-2025); chúng ta cũng đang có nhiều hoạt động nhằm tri ân, tưởng nhớ công lao, đóng góp, hy sinh của các anh hùng, thương binh, liệt sĩ cho Tổ quốc nhân kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ.

Cuốn sách “Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật và các cơ quan có liên quan tổ chức xuất bản đã hệ thống sự lãnh đạo, chỉ đạo và định hướng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung và đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội Việt Nam nói riêng. Cuốn sách góp phần làm sáng rõ bước phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và nâng cao năng lực tổ chức, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội Việt Nam nói riêng.

Với dung lượng 844 trang, cuốn sách tuyển chọn 95 bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, được chia làm 3 phần: Phần thứ nhất: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phần thứ hai: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội; phần thứ ba: Sự tin tưởng, ủng hộ, đồng thuận và tình cảm của cán bộ, Nhân dân, bạn bè quốc tế đối với đồng chí Nguyễn Phú Trọng. Đặc biệt, với hơn 100 bức ảnh quý được lựa chọn, cuốn sách đồng thời cũng thể hiện những dấu ấn trong hoạt động của đồng chí Nguyễn Phú Trọng qua các thời kỳ, gắn với hoạt động của Quốc hội, với cử tri và Nhân dân cả nước.

Cuốn sách thể hiện tư duy nhất quán, tầm nhìn chiến lược, sâu sắc của đồng chí về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam “thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân”. Đó là những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, tổng thể, mang tính nền tảng về lý luận và thực tiễn, có nội hàm sâu rộng với những nội dung quan trọng, mang tính định hướng cho công cuộc xây dựng và phát triển toàn diện của đất nước.

Với những đánh giá, tổng kết sâu sắc về lý luận được rút ra từ thực tiễn phong phú, cuốn sách góp phần cung cấp những luận điểm quan trọng, mang tính khoa học về những giá trị cốt lõi của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và vai trò, vị trí quan trọng của Quốc hội Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những điểm nhấn quan trọng của cuốn sách được thể hiện ở 3 phương diện cơ bản sau:

Thứ nhất, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết những thành tựu phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng những lập luận khoa học, sắc sảo, đầy sức thuyết phục.

Đồng chí khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của Nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử; “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là sự phát triển sáng tạo lý luận riêng có của Đảng ta. Để hiện thực hóa mô hình đó, đồng chí chỉ rõ: “Nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp “sáng tạo vĩ đại”, “đầy thử thách, khó khăn”, “hướng đích lâu dài”, “không thể nóng vội”.

Từ những phân tích về sự lựa chọn mang tính tất yếu, khách quan, đúng đắn của Đảng ta, dân tộc ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định bản chất tốt đẹp của nền dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới đất nước; đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới đất nước, đồng chí cũng gợi mở những giải pháp phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ, trong đó xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; bảo vệ, phát huy quyền con người, quyền công dân và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.

Những quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, mưu toan phủ định, chống phá công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.

Thứ hai, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và làm sáng rõ hơn về bản chất, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện Nhà nước ta trong bối cảnh hiện nay.

Bàn về bản chất của Nhà nước ta, đồng chí chỉ rõ sự khác biệt so với Nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: “Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân”. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để giữ vững và phát huy mạnh mẽ hơn nữa tính nhân dân, dân chủ và nhân văn của Nhà nước ta, “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”.

Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư luôn luôn nhấn mạnh: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; “thực hiện nhất quán nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân...; phải “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” và “coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa”, xem “con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước”; “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”; bảo đảm “tính tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp” và “kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển”...

Đồng chí khẳng định: Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải luôn đặt trong bối cảnh đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; gắn liền với việc giữ vững ổn định chính trị, đổi mới toàn diện hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phát triển bền vững kinh tế-xã hội của đất nước. Đồng chí yêu cầu phải đổi mới, sáng tạo hơn nữa, phải liêm chính, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả hơn nữa trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tiếp tục cải cách tư pháp. Tăng cường phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công vô tư. Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phòng, chống hiệu quả tham nhũng, lãng phí, tiêu cực...

Quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; góp phần củng cố nền tảng tư tưởng, chính trị-pháp lý, khoa học và định hướng cho sự phát triển của Đảng và đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn tâm huyết, trăn trở đối với hoạt động của Quốc hội, có những tổng kết, đánh giá hết sức sâu sắc về chặng đường đổi mới và phát triển của Quốc hội Việt Nam trên từng mặt hoạt động, ở từng thời kỳ; đồng thời, có những định hướng và chỉ đạo rất sát sao để Quốc hội không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động, ngày càng hoàn thiện hơn, hiệu lực và hiệu quả hơn.

Là đại biểu Quốc hội 5 khóa liên tục (từ năm 2002 đến nay), đồng thời với cương vị là Chủ tịch Quốc hội khóa XI, XII (6-2006 / 7-2011), đồng chí Nguyễn Phú Trọng quan tâm sâu sát, chỉ đạo cụ thể đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trên từng mặt công tác; nâng cao hiệu quả hoạt động của từng cơ quan, đơn vị nhằm xây dựng Quốc hội vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đồng chí đã khẳng định vai trò, vị trí hết sức quan trọng của Quốc hội luôn luôn gắn bó, đồng hành với dân tộc, thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; đóng góp to lớn và quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí chỉ rõ những kết quả đã đạt được trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; hoạt động giám sát tối cao; chất vấn và trả lời chất vấn; hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; hoạt động đối ngoại của Quốc hội. Đồng chí khẳng định, Quốc hội nước ta đã “không ngừng phát triển và trưởng thành, hoạt động ngày càng dân chủ, thiết thực và có hiệu quả, có nhiều đổi mới cả trong tư duy và thực tiễn hành động, được cử tri và Nhân dân cả nước ngày càng tin tưởng”, “góp phần tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân do Đảng lãnh đạo, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân” và “làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần tăng cường sự gắn bó giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước, tạo ra một hình ảnh về sự năng động, dân chủ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong mắt bạn bè quốc tế”.

Đồng thời, đồng chí cũng thẳng thắn chỉ rõ những bất cập, hạn chế cần khắc phục trên từng mặt hoạt động cụ thể của Quốc hội như: Chất lượng một số dự án luật, pháp lệnh và hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát chưa cao; việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước vẫn phải tiếp tục khắc phục tính hình thức, việc tăng cường chất lượng; tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và năng lực của đại biểu Quốc hội vẫn chưa ngang tầm nhiệm vụ...

Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, phân tích rõ những yêu cầu đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã có những chỉ đạo quyết liệt, sát sao nhằm không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội như: Đẩy mạnh hoạt động lập pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, nhất là tăng cường giám sát chuyên đề, chất vấn, giải trình và giám sát thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát; nâng cao chất lượng quyết định các vấn đề quan trọng theo hướng thực chất hơn, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tăng cường ngoại giao nghị viện, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế để nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, giữ vững môi trường chính trị hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới; tổ chức hoạt động bầu cử phải dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm để lựa chọn, bầu ra những đại biểu có đức, có tài, xứng đáng đại diện cho Nhân dân, từ đó góp phần xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân...

Đặc biệt, đồng chí yêu cầu phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, bởi đây là nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành xuất sắc mọi trọng trách mà Nhân dân ủy thác; đồng thời phải “phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội”, coi đây là yêu cầu quan trọng “tạo thêm sức mạnh và sự năng động, sáng tạo từ hệ thống chính trị của nước ta”; Quốc hội phải “gần gũi, gắn bó mật thiết với Nhân dân, nắm bắt đầy đủ, hiểu sâu sắc tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu chính đáng của Nhân dân, trân trọng lắng nghe, phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân”, xem đây là nhân tố quan trọng, bảo đảm cho Quốc hội có những quyết sách đúng đắn và thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần được tiến hành “chặt chẽ, đồng bộ”, “bài bản”, “có định hướng mục tiêu rõ ràng, bước đi chắc chắn và mang lại hiệu quả thiết thực”...

Cuốn sách đã tuyển chọn 57 ý kiến tiêu biểu, thể hiện góc nhìn, suy nghĩ, cảm xúc của cán bộ, đảng viên, nhân sĩ, trí thức, đại biểu Quốc hội, cử tri cả nước và bạn bè quốc tế đối với sự lãnh đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Các ý kiến cho thấy sự đồng thuận, tin tưởng của cán bộ, đảng viên, cử tri cả nước đối với sự lãnh đạo của Đảng, của đồng chí Tổng Bí thư; tin tưởng vào công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại biểu cho Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Cuốn sách “Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thể hiện tư tưởng nhất quán, kiên định của đồng chí Tổng Bí thư về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về đổi mới, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong đó, định hướng cho việc đổi mới cả về tư duy và thực tiễn hành động, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nâng cao trình độ và năng lực của đại biểu Quốc hội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Cuốn sách cũng khẳng định sự kiên định, vững vàng của một người cộng sản chân chính, với tư duy, tầm nhìn chiến lược và trách nhiệm, tâm huyết, tấm lòng vì nước, vì dân sâu sắc của người đứng đầu Đảng ta, người đại biểu của Nhân dân, luôn đặt lợi ích của đất nước, của Nhân dân lên trên hết, trước hết.

Với những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, cuốn sách giúp cán bộ, đảng viên, Nhân dân nắm vững quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; nỗ lực đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội Việt Nam theo hướng ngày càng thiết thực, hiệu quả, góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
Ảnh: Cuốn sách "Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục định hướng cho Quốc hội không ngừng đổi mới và phát triển.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM!

     Không trực tiếp xuất bản những cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, song Nhà xuất bản Khoa học Xã hội cũng đã rất may mắn và vinh dự khi phối hợp cùng Hội Triết học và Viện Triết học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho ra mắt cuốn sách “Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng” (GS,TS Lê Hữu Nghĩa và PGS,TS Nguyễn Tài Đông đồng chủ biên), tập hợp các bài viết tham dự Hội thảo Khoa học quốc gia cùng tên!
Sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại niềm tiếc thương trong lòng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.

Trong di sản lý luận đồ sộ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng, thể hiện qua cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, 2022).

Cuốn sách “Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng” dày 304 trang, được cấu trúc thành 2 phần, tập hợp các bài viết của các học giả, nhà nghiên cứu, với nội dung phân tích thêm những luận điểm mới mẻ, sâu sắc liên quan các chủ đề liên quan đến cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Phần thứ nhất: “Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, có thể kể đến các bài viết về một số điểm mới về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bối cảnh thế giới và phác thảo con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… Qua các bài viết trong phần này, bạn đọc có thể biết được những điểm mới trong mô hình xã hội chủ nghĩa, ngoài mô hình tổng quát như về chủ nghĩa xã hội, cũng như mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nói nhiều trong các Văn kiện của Đại hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói đến mô hình chính trị của Việt Nam. Đó là mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Ngoài ra, phần thứ nhất còn làm rõ cho bạn đọc hiểu giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người; là xã hội phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội; là một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm; là xã hội phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường… Những giá trị mang lại của các bài viết trong phần này góp phần giúp bạn đọc hiểu rõ và vững tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Phần thứ hai: “Một số vấn đề thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, liên quan đến nội dung ở phần này có thể kể đến các bài viết về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng và phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng… Ở phần này xuyên suốt các bài viết là các vấn đề thực tiễn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là để xây dựng được chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc luôn là tiêu chí được đặt lên hàng đầu, cùng với đó, cần luôn đảm bảo được công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế; nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là vô cùng cần thiết, là nhiệm vụ then chốt để có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều quan trọng là cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có tâm, có tầm, vừa hồng vừa chuyên. Qua các bài viết này sẽ giúp cho bạn đọc thấy được thực trạng, những điểm mới và những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nội dung trong các bài viết của các học giả đều đưa ra những phân tích, luận giải sâu sắc, những trao đổi thảo luận về các vấn đề đặt ra trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, qua đó đề xuất những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm góp phần bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cuốn sách "Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng'' đã góp phần nghiên cứu sâu sắc và nâng cao nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời lan tỏa những giá trị của cuốn sách mà Tổng Bí thư để lại./.
Cuốn sách “Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”.
Yêu nước ST.

 HÃY “UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN”, ĐỪNG “BÓP MÉO LỊCH SỬ”

Trong khi cả nước đang tiến hành những hành động thiết thực để kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7/19 - 27/7/2024 ) thì một số người lại có suy nghĩ “xét lại” lịch sử. Họ đặt ra câu hỏi: Ai gây ra sự tổn hao xương máu của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Và rồi, họ cũng tự cho mình quyền phán xét: Đảng Cộng sản Việt Nam là người phải chịu trách nhiệm trước những mất mát, hi sinh của dân tộc. Đây là quan điểm sai trái, “bóp méo lịch sử” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. 

Trải qua hàng ngàn năm, dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Bản chất nhân hậu, yêu hòa bình, yêu đất nước đã được đúc kết thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thế nhưng, với vị trí chiến lược đặc biệt, dân tộc ta luôn luôn là mảnh đất màu mỡ, là miếng mồi cho các thế lực ngoại bang xâm chiến. Trong lịch sử, ông cha ta luôn giữ vững tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, đánh thắng mọi cuộc xâm lược của ngoại bang để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ con người Việt Nam, bảo vệ văn hóa Việt Nam… 

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam nhằm mở rộng thị trường, đặt ách thống trị và bóc lột dân tộc ta. Mặc cho triểu đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt rồi thỏa hiệp, nhân dân ta vẫn kiên cường đấu tranh theo đúng tinh thần của Nguyễn Trung Trực: “bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”. Tuy nhiên, phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và xu hướng dân chủ tư sản đã không còn phù hợp với xu thế của thời đại mới. Các cuộc khởi nghĩa dù anh dũng, hào hùng nhưng đều bị thực dân Pháp dìm trong bể máu.

Giữa lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc ta. Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác, con đường cách mạnh vô sản. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đưa ra đường lối cứu nước với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam. Nắm vững bản chất phản động, hiếu chiến của đế quốc thực dân, Đảng khẳng định phải sử dụng sức mạnh bạo lực cách mạng của quần chúng mà phương thức cơ bản là khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng đánh bại bạo lực phản cách mạng của thực dân Pháp và tay sai. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là minh chứng hùng hồn của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là thắng lợi của tinh thần đoàn kết, của ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, của đường lối lãnh đạo cách mạng tài tình của Đảng.

Con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (12/1946), Bác Hồ đã nhấn mạnh: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Với đế quốc Mỹ, chúng ta đã thi hành các biện pháp để đất nước được độc lập, thống nhất bằng con đường hòa bình thông qua tổng tuyển cử tự do (theo đúng Hiệp định Giơnevơ năm 1954), nhưng chính các thế lực hiếu chiến Mỹ và tập đoàn tay sai đã phát động chiến tranh, chia cắt lâu dài đất nước ta. Vậy chính đế quốc, thực dân và tay sai là kẻ đã gây ra chiến tranh, phát động chiến tranh để hòng thống trị và bóc lột nhân dân ta. 

Chúng ta yêu hòa bình, độc lập, tự do nhưng đó phải là nền hòa bình, độc lập, tự do thực sự chứ không phải là nền hòa bình, độc lập, tự do giả hiệu. Độc lập, tự do của chúng ta chỉ có được bằng cuộc đấu tranh với kẻ thù xâm lược. Sự hi sinh xương máu để có được hòa bình, độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là lẽ đương nhiên mà mọi người Việt Nam yêu nước đều tự giác dâng hiến theo đúng tinh thần: quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Chúng ta không chấp nhận khoanh tay đứng nhìn, quỳ gối để mong đế quốc, thực dân ban phát cho thứ hòa độc lập, tự do giả hiệu, bánh vẽ. Đó là truyền thống, là đạo lý của dân tộc, hiện hữu trong mỗi người con đất Việt.

 Ông cha đã không tiếc hi sinh, mất mát để giành lại hòa bình, giành lại độc lập, tự cho cho đất nước. Chúng ta luôn tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của các thế hệ ông cha, trân trọng giá trị hòa bình, độc lập, tự do của đất nước. Lịch sử sẽ mãi ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ, công ơn của Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đã đem lại độc lập, tự do, để đất nước tồn tại và phát triển. Mọi luận điệu đổ lỗi, thậm chí muốn kết tội Đảng Cộng sản Việt Nam là đi ngược lại ý chí của nhân dân Việt Nam, là đồng lõa với kẻ thù dân tộc – những kẻ phải chịu trách nhiệm về những mất mát, hao tổn xương máu của nhân dân./.

 VIỆT NAM SẼ LÀ ƯỚC MƠ HÒA BÌNH CỦA NHÂN LOẠI

***

Trong các cuộc biểu tình ở Mỹ, nhiều người da màu đã không cầm cờ Trung Quốc mà cầm lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam để phản đối nạn kỳ thị chủng tộc ở Mỹ. Khi hỏi vì sao thì họ trả lời: "Việt Nam là biểu tượng cho tự do và bình đẳng, không phân biệt giai tầng". Người khác nói: "Đơn giản người Việt Nam không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc"... hoặc là họ trả lời: "Việt Nam đã chiến thắng những áp bức, bất công của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc... Người Việt Nam không gọi những người da đen chúng tôi là "mọi rợ"...

Nghĩ về những câu trả lời trên làm chúng ta nhớ lại câu nói nổi tiếng của Võ sĩ quyền anh Muhammad Ali đã từng bị chính quyền Houston (Mỹ) kết án 5 năm tù, cấm thi đấu 3 năm vì từ chối lệnh gọi nhập ngũ sang chiến trường Việt Nam năm 1967. Khi đứng trước tòa, Vị chủ tọa phiên tòa hỏi ông: "Vì sao anh chống lại nước Mỹ?” Muhammad Ali đã trả lời rất hiên ngang: "Tôi không có gì bất đồng với Việt Cộng... không có người Việt Cộng nào gọi tôi là mọi đen cả. Tại sao tôi phải đi 10 ngàn dặm để thả bom lên đầu những người Việt Nam vô tội trong khi người da đen ở Louisville (Mỹ) đang bị đối xử như những con chó và không có được những quyền cơ bản nhất của một con người".

Cuối cùng, vào ngày 20/06/1967, Bồi thẩm đoàn gồm toàn các thẩm phán da trắng ở Houston đã buộc tội Muhammad Ali 5 năm tù và cấm ông thi đấu 3 năm.

Nhiều người Mỹ da màu, nhân dân tiến bộ trên thế giới vẫn hiểu rằng, Cộng sản Việt Nam chỉ hướng tới độc lập dân tộc, hòa bình và bình đẳng chứ không đi xâm lược, không kỳ thị chủng tộc, phân biệt màu da... Đó cũng là biểu tượng và mong ước của người dân các nước khi nhắc đến hai tiếng Việt Nam.

 THÁNG BẢY TRI ÂN! ❤️❤️❤️

Tháng 7 về bất chợt mưa ngâu

Như nỗi nhớ ở hai đầu gặp lại

Tiếng vọng xưa đồng đội ơi gọi mãi

Giữa đại ngàn bom đạn ở Trường Sơn.

Tháng 7 về xin thắp nén hương thơm

Phút tưởng niệm những anh hùng Liệt sĩ

Đã một thời lên đường đi đánh Mỹ

Hiến tuổi xuân cho đất nước thanh bình.

Tháng 7 về vang khúc hát Thương binh

Đời để lại "dấu chân tròn trên cát"

Dáng liêu xiêu nghiêng khoảng trời nắng nhạt

Lối đi về khập khiễng bước đường quê.

Tháng 7 về còn nhớ kỷ niệm xưa

Dòng Thạch Hãn nước hòa trong máu đỏ

Bao đồng đội nằm lại nơi Thành Cổ

Cầu Hiền Lương chia nỗi nhớ hai đầu.

Tháng 7 về bạn đang ở nơi đâu?

Tây Nguyên xanh hay Trường Sơn hùng vĩ

Tôi đứng lặng trước tượng đài Liệt sĩ

Nghe nhạc chiêu hồn lệ thấm ướt bờ mi.

Tháng 7 về ai có nhớ Người đi

Khi đất nước chao nghiêng miền Đông Hải

Nửa vầng trăng một khoảng trời còn mãi

Đồng đội ơi? Chung nhịp bước quân hành.

Tháng 7 về biết không có bóng anh

Trong đội ngũ điệp trùng hoa chiến thắng

Ngôi sao sáng giữa bầu trời tỏa nắng

Lời tri ân xin thắp nén hương lòng.

Tháng 7 về triệu triệu ngọn nến hồng

Thắp sáng nghĩa trang trải dài theo đất nước

Viếng các Anh linh thiêng hồn Tổ Quốc

Đất Tiên rồng vững bước mãi ngàn năm.

St

THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH - BIỆN PHÁP THIẾT THỰC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SINH HOẠT ĐẢNG

        Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định vai trò quyết định của công tác xây dựng Đảng, trong đó “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”. Điều lệ Đảng đã xác định tự phê bình và phê bình trong Đảng là một trong 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.

Tuy nhiên, vẫn còn không ít nơi thực hiện hình thức, đối phó, hiệu quả thấp, từ đó, các thế lực thù địch luôn tìm cách xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận vai trò của nguyên tắc này; đồng thời xuất hiện những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc ngay trong cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên. Vì vậy, thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình - biện pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng hiện nay.

Hoạt động tự phê bình và phê bình diễn ra chủ yếu trong sinh hoạt đảng. Chỉ trong sinh hoạt đảng thì đảng viên mới được lấy tư cách là đảng viên để phê bình đồng chí của mình và phê bình các tổ chức của Đảng.

Chủ thể của hoạt động tự phê bình và phê bình trong Đảng là mọi đảng viên của Đảng, là tất cả các tổ chức trong Đảng, từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cho đến các tổ đảng ở các chi bộ của đảng đều phải tự phê bình và phê bình.

Trong quá trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn coi trọng tự phê bình và phê bình:

Nội dung tự phê bình và phê bình trong Đảng bao gồm toàn bộ các mặt hoạt động cả Đảng và của mọi cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện hiện nay cần hướng vào việc thực hiện các nghị quyết của Đảng; thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng, thực hiện nhiệm vụ đổi mớichỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, cần chú trọng phê phán những quan điểm lệch lạc, sai trái, những tệ nạn gia trưởng, độc đoán, quan liêu, hối lộ, tham nhũng, sự vô trách nhiệm, vô tổ chức kỷ luật, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.

Hình thức tự phê bình và phê bình trong Đảng bao gồm tự phê bình và phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới phê bình cấp trên; cán bộ, đảng viên phê bình cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và phê bình cùng cấp... Được thể hiện qua các hình thức như: hội nghị chi bộ, đảng bộ thường kỳ, các đại hội Đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, các báo cáo hàng tháng, hàng quý của cấp dưới với cấp trên, báo cáo nhiệm kỳ đại hội của cấp trên trước cấp dưới và qua các phương tiện thông tin đại chúng...

Thực hiện tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, Thực tiễn đã chứng minh, chỉ khi nào cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng, thực hiện nghiêm túc, bài bản, nền nếp nguyên tắc tự phê bình và phê bình sẽ đem lại những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần khắc phục được những khuyết điểm trong mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG

      Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc tổ chức, hoạt động và là quy luật tồn tại, phát triển của Đảng. Nhận thức đầy đủ để đấu tranh phản bác, phê phán, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nguyên tắc tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.

C.Mác khẳng định: “Những sai lầm về sách lược là lúc nào cũng có thể có”, do vậy “sự phê phán là yếu tố sống còn của nó”. Ph.Ăngghen cũng cho rằng việc tự phê bình và phê bình là tuyệt đối cần thiết và bằng cách đó đảng học đ­ược cách hoạt động tốt hơn.

V.I.Lênin chỉ rõ, cán bộ, đảng viên của đảng cũng là con người, “không phải là thiên thần, không phải là thánh, không phải là anh hùng mà cũng là người như tất cả mọi người khác. Họ cũng có khuyết điểm. Đảng sửa cho họ”; “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình...”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”. Bởi vậy: “Về luật phát triển, Đảng Lao động Việt Nam dùng lối tự phê bình và phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng”. Người đã đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về tự phê bình và phê bình: “Tự phê bình là cá nhân (cơ quan hoặc đoàn thể) thật thà nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa, mà cũng để người khác biết mà tránh những khuyết điểm mình đã phạm. Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đoàn thể) có khuyết điểm thì thành khẩn nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ. Mục đích của tự phê bình và phê bình đều nhằm giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, cùng nhau tiến bộ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, thì cũng như giấu giếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng, nguy đến tính mệnh: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhờ tự phê bình và phê bình nghiêm túc, đúng đắn mà những mâu thuẫn, bất đồng, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được giải quyết có lý, có tình, không để tích tụ lại từ nhỏ thành lớn, phá hoại khối đoàn kết thống nhất của Đảng, không để những người thiếu thiện chí với Đảng lợi dụng những bất đồng, những mâu thuẫn đó gây chia rẽ Đảng. “Tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển và tiến bộ của Đảng, cũng là một phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng”.

     Mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên nhận thức đầy đủ, đúng đắn vai trò của tự phê bình và phê bình trong Đảng thì tự phê bình và phê bình như “rửa mặt hằng ngày”, thực sự trở thành quy luật phát triển của Đảng.

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ KỶ LUẬT PHÁT NGÔN

 

Cần hiểu rằng, việc hạn chế phát ngôn bừa bãi, thông tin tùy tiện trên mạng xã hội là nhằm bảo vệ cộng đồng chứ không chỉ là việc xử lý, trừng phạt những cá nhân có phát ngôn sai trái, xuyên tạc. Những thông tin sai sự thật có thể dẫn đến hành vi lệch chuẩn trong đời sống xã hội. Phát ngôn gây thù ghét, phát ngôn kích động có thể dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật, hành vi bạo lực nhắm vào những nhóm đối tượng cụ thể, hành vi kỳ thị dân tộc, giới tính, xuất thân...

Để hiểu đúng và thực hiện tự do ngôn luận theo hiến pháp, pháp luật, trước hết cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về trách nhiệm pháp lý và đạo đức trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ về an toàn an ninh trên môi trường số, trong đó nhấn mạnh đến giới hạn cần thiết của quyền tự do ngôn luận. Đồng thời cần có sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội để thông tin sai sự thật, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa, chống phá Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc giám sát, phản biện những ý kiến, thông tin được truyền đạt trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Việc này không chỉ giúp làm rõ sự thật mà còn tạo ra một môi trường thông tin lành mạnh và đa chiều, đồng thời giúp ngăn chặn việc lợi dụng tự do ngôn luận để gây rối, phá hoại an ninh tư tưởng-văn hóa.

Hiểu đúng tự do ngôn luận và phòng ngừa tự do phát ngôn tùy tiện gây tác hại đến an ninh tư tưởng-văn hóa là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Qua việc tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức công dân trong sử dụng tự do ngôn luận, cũng như áp dụng các biện pháp quản lý và giám sát hợp lý, chúng ta có thể tạo ra một môi trường truyền thông lành mạnh, an toàn, đồng thời bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn chuẩn mực đạo đức xã hội.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, việc hiểu đúng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức, cũng như tuân thủ nghiêm túc kỷ luật phát ngôn ở mọi lúc, mọi nơi là việc làm thiết thực góp phần giữ vững môi trường thông tin xã hội lành mạnh; đồng thời cũng là một cách góp phần phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị./.

LẠM DỤNG QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN Ý ĐỒ XẤU - HÀNH VI CẦN ĐƯỢC LÊN ÁN

          Những năm gần đây, một bộ phận người dân, trong đó có một số công chức, viên chức, nhà văn, nhà báo, luật sư... đã lạm dụng quyền tự do ngôn luận để phát ngôn vô lối trên mạng xã hội, kể cả phát ngôn gây thù ghét, thông tin sai sự thật, đưa ra ý kiến tùy tiện với dụng ý xấu, kể cả chống phá Đảng, Nhà nước.

Theo cơ quan chức năng, nhiều cá nhân đã bị xử phạt hành chính, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do dân chủ, đăng tải những bài viết trên các trang mạng xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Không riêng ở Việt Nam, sự phát ngôn tùy tiện, thông tin sai sự thật cũng xảy ra ở nhiều quốc gia khác và các trường hợp này cơ bản đã bị xử lý nghiêm khắc.

Cần nhận thức đúng về quyền tự do ngôn luận để không phát ngôn tùy tiện

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn bản luật quốc tế, như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 ...

Tương đồng với quy định quốc tế, tại Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là “quyền bất khả xâm phạm” mà phải tuân thủ trong khuôn khổ pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, quyền cơ bản của con người đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng - văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Tự do ngôn luận không chỉ đơn thuần là việc phát biểu ý kiến mà còn là việc truyền đạt thông tin, kiến thức và quan điểm một cách khách quan, công tâm, trung thực. Tính trung thực và đạo đức trong sử dụng tự do ngôn luận là điều không thể phủ nhận, cần được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là đối với trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, luật sư và những người có ảnh hưởng nhất định với cộng đồng, xã hội.

       Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn có một số cá nhân, nhất là một số người nắm “quyền lực thông tin, quyền lực của con chữ” đã sử dụng tự do ngôn luận một cách tùy tiện, thậm chí lợi dụng để phá hoại an ninh tư tưởng và văn hóa. Thời gian qua, một số trí thức, nhà văn, luật sư... đã lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn, viết bài với nhiều kỹ năng cài cắm thông tin mập mờ, trộn lẫn đúng-sai nhằm mục đích xấu, thậm chí chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các hành động này không chỉ vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước, danh dự của cá nhân lãnh đạo mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thông tin và sự ổn định, phát triển của xã hội.