Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới. Quá trình này đã thu được những kết quả hết sức to lớn, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Điều đó cho thấy chủ trương đúng đắn, chủ động tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta. Trong quá trình triển khai, chính sách đối ngoại với mục tiêu bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được quán triệt xuyên suốt trong mọi chính sách và hành động. Kết quả là ta đã từng bước hội nhập một cách sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Năm 1990, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với Liên minh châu Âu, năm 1995 chúng ta đã bình thường hoá quan hệ với
Mỹ, gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung hợp tác với Liên minh châu Âu và làm đơn
gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định thương
mại song phương với Hoa Kỳ. Việc ký Hiệp định này có ý nghĩa hết sức quan
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đầu tư, thương mại và tang trưởng
của nền kinh tế nước ta. Đến năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới.
Cùng với quá trình hội nhập khu vực và toàn
cầu, Việt Nam cũng đã tăng cường hợp tác song phương, triển khai mạnh mẽ quan
hệ hợp tác với các đối tác quan trọng, nhất là xây dựng khuôn khổ đối tác chiến
lược và đối tác toàn diện. Nhìn chung, các đối tác chiến lược và đối tác toàn
diện mà Việt Nam ký kết đều là những đối tác quan trọng với lợi ích cả về kinh
tế, chính trị và đối ngoại nói chung. Việt Nam là nước duy nhất trong ASEAN đã
thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với toàn
bộ 5 nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ nhóm nước G7 và
13/20 nước G20 và 8/9 nước trong ASEAN. Các đối tác này chiếm 8/10 thị trường
xuất khẩu chính, với 60,7% tổng giá trị xuất khẩu; 9/10 thị trường nhập khẩu
chính với 74,7% tổng giá trị nhập khẩu, 76,7% tổng lượng khách du lịch; đóng
góp 74% tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cơ sở quan hệ đối tác chiến
lược và đối tác toàn diện đã ký kết đã góp phần củng cố môi trường hoà bình,
hữu nghị hợp tác với các đối tác quan trọng, đặc biệt là với các nước lớn, với
các nước láng giềng chung biên giới. Đồng thời, việc thiết lập quan hệ đối tác
với các nước lớn, có vai trò quan trọng góp phần giúp Việt Nam xử lý tốt quan
hệ với các nước lớn, đưa hợp tác trở thành chủ đạo, đồng thời tạo cơ chế và
kênh trao đổi giảm thiểu sự khác biệt trong quan hệ với các nước này, tạo điều
kiện để tăng cường lòng tin. Thông qua các quan hệ song phương đã được thiết
lập đã tạo ra sự đan xen lợi ích, giúp Việt Nam tranh thủ được nguồn lực quốc
tế để phát triển đất nước. Ngoài ra, thông qua các đối tác quan trọng này, đã
góp phần nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, thể hiện thông qua
vị trí của ta trong chính sách đối ngoại của các nước cũng như trong các khuôn
khổ hợp tác đa phương.
Kết quả hội nhập quốc tế của đất nước được thể
hiện trên các lĩnh vực cụ thể sau đây:
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực
hiện tương đối nhanh, sâu rộng. Chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực
và có trách nhiệm đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ hội nhập của Việt Nam với các
đối tác, nhất là các đối tác chiến lược. Từ một nước bị bao vây cấm vận, với
chính sách đối ngoại đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp tác với các
nước và các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Chúng ta đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng thời, chúng
ta đã chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt
là ASEAN, Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực quan trọng. Hợp tác đa phương
theo phương châm chủ động, tích cực tham gia, nhất là vào quá trình xây dựng và
định hình các quy tắc và luật lệ mới, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ
chế đa phương. Việc tham gia các cơ chế đa phương một cách tích cực chủ động là
để trực tiếp bảo đảm các lợi ích an ninh, phát triển và vị thế của đất nước.
Năm 2020 Việt Nam với vai trò là Chủ tịch ASEAN và là Uỷ viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc Việt Nam đã thể hiện rất tốt vai trò của mình, có
đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Với thế và
lực trong nước tăng lên cùng với chính sách đối ngoại chủ động, tích cực và
hiệu quả vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Về hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện nay vào loại cao nhất thế giới với tỷ trọng
xuất khẩu trên GDP là hơn 200%. Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hiệp định
đa phương thế hệ mới. Với các kết quả hội nhập kinh tế sâu, rộng như vậy đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, kết
nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Rõ
ràng, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn phát
triển mới cả về chiều rộng, chiều sâu và toàn diện. Với những Hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới vừa được ký kết có tính toàn diện, quy mô rộng, mức độ cam
kết cao, điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực, trong đó bao hàm nhiều nội dung mới
như thương mại điện tử, phát triển bền vững, các biện pháp sau biên giới, đồng
bộ chính sách, giải quyết chính sách giữa nhà đầu tư và nhà nước đem lại rất
nhiều cơ hội cho phát triển, đồng thời đòi hỏi những nỗ lực trong nước rất cao
để có thể đem lại kết quả như mong muốn. Thông qua hội nhập quốc tế, kim ngạch
xuất khẩu của nền kinh tế nước ta tăng rất nhanh, từ 1,74 tỷ USD năm 1986 lên
10 tỷ USD năm 1996, 45 tỷ USD năm 2006 và 287,8 tỷ USD năm 2020(5).
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần phát huy nội lực, tranh thủ được nguồn lực
nước ngoài, đặc biệt là công nghệ và quản trị hiện đại. Thông qua hội nhập quốc
tế, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn, góp
phần bổ sung nguồn lực trong nước. Nguồn vốn FDI thu hút vào nước ta tăng rất
nhanh, từ 428,5 triệu USD năm 1991 lên 4 tỷ USD năm 2006 và 20 tỷ USD năm 2020(6).
Năm 2020, đã có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó,
dẫn đầu là Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Đồng thời, hội nhập
quốc tế cũng là áp lực giúp đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ trong nước để bảo đảm
điều kiện hội nhập thành công và hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần
tạo ra tốc độ tăng trưởng cao của Việt Nam, góp phần đưa kim ngạch xuất nhập
khẩu tăng liên tục trong nhiều năm qua, góp phần chuyển dịch cơ cấu xuất nhập
khẩu theo hướng chất lượng hơn.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế
cũng cho thấy cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế. Đặc biệt, qua những cuộc khủng hoảng, hoặc những biến động của
thế giới cho thấy để hội nhập thành công phải có nội lực mạnh, đồng thời phải
đa phương hoá, đa dạng hoá các đối tác, các thị trường để tránh những rủi ro và
lệ thuộc. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài cũng cho thấy cần phải nhận
thức sâu sắc hiệu quả của thu hút đầu tư, nhất là giai đoạn hiện nay, phải bảo
đảm thu hút được công nghệ cao, công nghệ sạch và làm tốt việc chuyển giao công
nghệ cũng như gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài.
Hội nhập trong lĩnh vực văn hoá xã hội. Cùng với sự hội nhập nhanh, sâu rộng và
toàn diện trong lĩnh vực kinh tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá - xã
hội cũng có những bước phát triển quan trọng. Hội nhập với tốc độ cao hơn, toàn
diện hơn, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác và chất lượng hội nhập
ngày càng nâng cao. Việt Nam đã ký hơn 100 thoả thuận, điều ước quốc tế song phương
có nội dung văn hoá, đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng
nhiều. Các hình thức giao lưu văn hoá, phim ảnh, thời trang… của Việt Nam với
quốc tế ngày càng nhiều.
Hội nhập văn hoá cũng là cơ hội để Việt Nam quảng bá đất nước, con người, văn
hoá Việt Nam và tiếp thu giá trị văn hoá các nước. Nhờ có hội nhập mạnh mẽ về
văn hoá mà bạn bè quốc tế đến Việt Nam ngày càng nhiều. Trong suốt nhiều năm
vừa qua, khách du lịch đến Việt Nam đều tăng với tốc độ cao, góp phần cả về
phát triển kinh tế và văn hoá, xã hội. Cũng từ thành công của hội nhập trong
lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hoá tại
Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ
hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hoá tiêu biểu của nhiều quốc gia
trên thế giới. Từ đó, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích
giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hoá- xã hội được
tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Việt Nam. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng tạo công ăn việc làm, góp phần giảm
nghèo bền vững ở Việt Nam. Sau 35 năm đổi mới và hội nhập, tỷ lệ nghèo giảm
mạnh. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ gần 60% vào năm 1993 xuống
còn 37,4% năm 1998, xuống còn 13,4% năm 2008 và đến năm 2016 chỉ còn 5,8%.
Hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.
Thực hiện chính sách hội nhập quốc tế toàn
diện, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng an ninh cũng không ngừng được
phát triển và mở rộng. Hội nhập quốc phòng - an ninh vừa phục vụ cho sự nghiệp
phát triển đất nước vừa góp phần bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia
trong bối cảnh mới. Việt Nam đã chuyển từ chủ trương tham dự, sang phát huy vai
trò thành viên có trách nhiệm trên nhiều diễn đàn khu vực và toàn cầu. Nội dung
hội nhập quốc tế để giữ nước từ xa, từ sớm, giữ nước từ khi “nước còn chưa
nguy”. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh với các nước
lớn và các nước trong khu vực. Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện các cơ chế đối
thoại Quốc phòng - An ninh, giao lưu biên phòng với các nước láng giềng như
Trung Quốc, Lào, Campuchia, trao đổi hữu nghị của tàu hải quân được đẩy mạnh.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng
tuỳ viên quân sự tại hơn 30 nước và hơn 40 nước có văn phòng tuỳ viên quân sự
tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh quốc
phòng khu vực và từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế về an
ninh quân sự toàn cầu. Việt Nam cũng đã tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình
của Liên hợp quốc. Việt Nam đã gửi các sỹ quan thông tin đến các Phái bộ gìn
giữ hoà bình của Liên hợp quốc tại Cộng hoà Trung Phi, Nam Xu Đăng và tiếp theo
đó đã triển khai các bệnh viện dã chiến cấp 2 và công binh. Như vậy, Việt Nam
không chỉ giữ vững độc lập chủ quyền của Tổ quốc mà còn chủ động, tích cực đóng
góp vào việc duy trì hoà bình, an ninh quốc tế.
|
Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội
nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta. Về mặt lý luận đây là mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, bất
kỳ quốc gia nào muốn hội nhập quốc tế thành công đều phải vận dụng hợp lý mối quan
hệ này. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong suốt những năm đổi
mới vừa qua đã thể hiện nhất quán và từng bước cụ thể nội dung của chính sách
đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cho từng giai đoạn phù hợp với
bối cảnh nhất định. Đó cũng là quá trình phát triển quan hệ đối ngoại và hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
Thực tiễn triển khai và kết quả đạt được sau
35 năm đổi mới cho thấy chính sách đối ngoại trên là hoàn toàn đúng đắn và khoa
học. Hội nhập quốc tế của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng
và chiều sâu. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các
nước trên thế giới, xây dựng đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với nhiều
nước, trong đó có nhiều nước lớn, có vị trí và tầm ảnh hưởng quan trọng của thế
giới và khu vực. Việt Nam cũng tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế và khu
vực quan trọng và thực sự có nhiều đóng góp quan trọng và có trách nhiệm trong
những tổ chức này. Quá trình đó, Việt Nam cũng đã từng bước hội nhập toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội và quốc phòng - an
ninh. Trong đó hội nhập kinh tế là nòng cốt, là cơ sở, hội nhập trong các lĩnh
vực khác là toàn diện và bổ sung cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập quốc tế
đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn có ý lịch sử của đất nước
trong 35 đổi mới vừa qua.
Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế
nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung thực sự là những luận
cứ xác đáng nhất để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch về lĩnh vực
này./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét