Trên
mạng xã hội hiện nay đã xuất hiện những “lời vận động” cử tri không đi bầu cử
ĐBQH khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Họ không biết rằng
hoặc cố tình không biết đi bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân. Để có
quyền bầu cử, cả dân tộc, toàn thể nhân dân ta phải đấu tranh hàng nghìn năm,
phải đổ biết bao xương máu, chúng ta mới có được.
Quyền
bầu cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực hiện quyền lựa
chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực của nhà nước. Quyền bầu cử
bao gồm việc đề cử, giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu, tức là quyền chủ động
trong lựa chọn của công dân. Thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp bỏ phiếu bầu
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình, để thay mặt
mình thực hiện quyền lực nhà nước; góp phần thiết lập ra bộ máy nhà nước để
tiến hành các hoạt động quản lý xã hội.
Trước
năm 1945, Việt Nam chưa bao giờ có Hiến pháp, chưa có bầu cử ĐBQH, đại biểu
HĐND các cấp. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mang lại cho nhân dân ta nhiều quyền
lợi mà trước kia họ chưa bao giờ có, trong đó có quyền bầu cử và quyền ứng cử.
Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 đã khẳng định quyền ứng cử và bầu cử
của công dân tại Điều 18, được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa khóa I
thông qua ngày 9-11-1946 nêu rõ: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi, không
phân biệt gái, trai, đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người
mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21
tuổi và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền
bầu cử và ứng cử”. Trải qua 3 bản Hiến pháp sau đó (các năm: 1959, 1980 và
1992), quyền bầu cử và ứng cử vẫn tiếp tục được khẳng định. Hiến pháp hiện hành
(Hiến pháp năm 2013) tại Điều 27 hiến định: "Công dân đủ mười tám tuổi trở
lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định". Như
vậy, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, quyền bầu cử, ứng cử được coi là quyền quan trọng của công dân,
đi đôi với quyền là trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân. Vận động cử tri không
đi bầu cử là vi phạm pháp luật, vi phạm quyền và nghĩa vụ của công dân.
Cũng
có người phát biểu trên mạng xã hội hoặc trả lời báo chí nước ngoài rằng, việc
bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp ở nước ta là “áp đặt, thiếu dân chủ”. Xin
thưa với các vị, trên thế giới này, khi nói đến bầu cử, ứng cử ở một quốc gia
có dân chủ, công bằng hay không, người ta phải xem xét toàn bộ hệ thống bầu cử,
ứng cử và nhất là kết quả của hệ thống đó được áp dụng vào bối cảnh đặc thù về
lịch sử, văn hóa chính trị của một quốc gia-dân tộc và xu thế tiến bộ của nhân
loại như thế nào, chứ không thể chỉ nhìn vào một yếu tố nào đó để khái quát,
đánh giá. Hệ thống pháp luật về bầu cử của Việt Nam ra đời từ khi ra đời nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa đến nay đều có quy định cử tri bầu ĐBQH và HĐND các cấp
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nguyên tắc này
được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, bảo đảm số lượng đại biểu của mỗi địa
phương tỷ lệ với số cử tri của địa phương đó. Các cử tri được bầu cử trực tiếp
các đại diện của mình ở các cơ quan dân cử từ cấp cơ sở đến Quốc hội.
Là
một quốc gia có nhiều dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
điều này. Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND hiện hành (Luật số 85/2015/QH13)
quy định: “Số lượng người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc
hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Dân
tộc của Quốc hội, bảo đảm có ít nhất mười tám phần trăm tổng số người trong
danh sách chính thức những người ứng cử ĐBQH là người dân tộc thiểu số".
Thực tế trong nhiều nhiệm kỳ qua, tỷ lệ đại biểu thuộc dân tộc thiểu số luôn
luôn cao hơn tỷ lệ dân số. Nhiệm kỳ khóa XI, số đại biểu là người dân tộc thiểu
số chiếm 17,2%; nhiệm kỳ khóa XIV, chiếm 17,3%; trong khi đó, tỷ lệ 53 dân tộc
thiểu số chỉ chiếm khoảng 13% dân số Việt Nam.
Phù
hợp với xu hướng tiến bộ xã hội, nâng cao vai trò của phụ nữ, Luật Bầu cử ĐBQH
và đại biểu HĐND hiện hành quy định: “Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử
ĐBQH do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất ba
mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử
đại biểu Quốc hội là phụ nữ”. Theo báo cáo của Quỹ Phát triển Phụ nữ Liên hợp
quốc (UNIFEM), tỷ lệ nữ ĐBQH của Việt Nam trong những nhiệm kỳ gần đây cao hơn
nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét