Có nhiều nội dung cần vận dụng phương pháp luận Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay. Trong phạm vi bài viết, xin nêu lên bốn vấn đề.
1. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Một số người cho rằng, Hồ Chí Minh không phải là nhà lý luận mà
chỉ là người hoạt động thực tiễn có tài. Nhận định này không đúng, vì ở Hồ Chí
Minh, tư duy và hành động kết hợp một cách nhuần nhuyễn với nhau, lý luận luôn
luôn đi cùng thực tiễn, trong lý luận có chất thực tiễn đúc kết ở đó và trong
thực tiễn có sự chỉ đạo của lý luận. Hồ Chí Minh hay nêu lên những cặp chỉnh
thể, như học đi đôi với hành, nói đi đôi với làm, lý luận kết hợp với thực
tiễn, v.v.
Hồ Chí Minh nêu lên quan niệm về mối quan hệ giữa lý luận với thực
tiễn: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh
nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm
thành kết luận. Rồi đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý
luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực
tế… Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi… Có kinh nghiệm mà không
có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ… Lý luận cốt để áp dụng vào công
việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông.
Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành,
thì khác nào một cái hòm đựng sách… Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận
cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà
không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”(3).
Hồ Chí Minh vừa coi trọng lý luận vừa coi trọng thực tiễn vì thực
tiễn khái quát nên lý luận và chính lý luận lại chỉ đạo thực tiễn. Ở Hồ Chí
Minh, chúng ta thấy không có sự tuyệt đối hóa mặt nào giữa chúng. Thậm chí,
nhìn xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh thì trong lý luận đã có thực tiễn, trong
thực tiễn đã có lý luận; chỉ khi muốn nghiên cứu thật sâu với tư cách là một
yếu tố chuyên biệt thì chúng ta mới có thể cắt lát riêng ra, nhưng việc cắt lát
cũng chỉ là tạm thời trong một động thái nào đó của thao tác nghiên cứu, còn về
bản chất của nội dung phương pháp luận này là sự thống nhất biện chứng “2 trong
1”.
Điều này phải được thể hiện ngay trong cương lĩnh, đường lối, nghị
quyết, chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường lối đúng đắn của Đảng
bao giờ cũng phản ánh sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Trong
khoảng hơn ba chục năm trở lại đây, ở Việt Nam lý luận chính trị đã có một số
biểu hiện của sự lạc hậu so với thực tiễn. Không ít những vấn đề thực tiễn
không được lý luận soi sáng; nhiều vấn đề thực tiễn chưa được tổng kết hoặc
tổng kết một cách chưa thấu đáo. Điều đó một mặt phản ánh sự biến chuyển nhanh
chóng, khó lường của tình hình thực tiễn; mặt khác phản ánh thực trạng của công
tác nghiên cứu lý luận còn nhiều hạn chế. Ở đây, cần nghiêm khắc nhìn về phía
nguyên nhân chủ quan, tức là ở nhận thức tầm quan trọng của công tác này; ở
việc tổ chức bộ máy; ở xây dựng đội ngũ nghiên cứu, tham mưu; ở phương pháp
nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn chưa phù hợp, chưa đạt yêu cầu. Vận dụng
phương pháp luận Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện
nay cần chú ý đặc biệt đến công tác này để khắc phục cho được tình trạng đó;
đặc biệt có cả việc hoạt động của tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên,
trong từng cá nhân, cũng phải luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực
tiễn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn hiện nay đang đứng trước những yêu cầu lớn. Đó là khắc phục tình trạng dạy chay, học chay, chạy theo kiến thức, ít dạy và học về kỹ năng. Cần trở lại quan điểm có tính phương pháp luận mà Hồ Chí Minh ghi trong quyển sổ của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương tháng 9/1949: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải Cần, kiệm, liêm, chính, Chí công, vô tư”(4). Có như thế mới khắc phục được tình trạng đào tạo, bồi dưỡng chưa thiết thực, còn nặng về lấy chứng chỉ, bằng cấp, mà chưa chú trọng đúng mức tới việc học để hiểu biết lý luận, vận dụng lý luận vào thực tế; tổng kết thực tiễn để bổ sung cho lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hồ Chí Minh nhìn sự vật và hiện tượng trong một tổng thể vận động với những cái chung và cả những cái riêng, những đặc điểm trong sự vận động cụ thể của điều kiện hoàn cảnh nhất định nào đó và xem xét chúng trong xu thế chung. Trong cuộc sống, Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ điều đó khi đặt con người nằm chung trong một thực thể của tự nhiên để hòa đồng với thiên nhiên, thân thiện với thiên nhiên, tác động thuận cho thiên nhiên tươi tốt hơn chứ không vùi dập, làm xấu, làm hỏng thiên nhiên. Hồ Chí Minh cũng đặt mọi hoạt động của con người vào sự vận động chung của xã hội mà con người cần là và thực tế là một thực thể tác động tích cực vào xã hội để tạo ra sự tiến bộ xã hội. Vì coi tính bao quát là một nguyên tắc tư duy và hành động, như là một phương pháp luận, cho nên Hồ Chí Minh xem xét cách mạng Việt Nam trong quan hệ tổng thể với cách mạng thế giới. Cũng chính vì thế mà Hồ Chí Minh rất ghét căn bệnh địa phương chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa, biệt phái, hẹp hòi, cục bộ và hàng loạt căn bệnh khác nữa nói lên sự tách rời cái riêng ra khỏi cái chung. Người coi một con người như là một bộ phận trong một cỗ máy khi vận động tương tác nhau.
Trong khi nhìn bao quát, phương pháp luận Hồ Chí Minh còn chỉ rõ điểm nhấn, cái bộ phận nào có tính trọng điểm để hướng hành động một cách tập trung ưu tiên vào đó. Trọng điểm này có khi không phải là trọng điểm của cả một quá trình dài mà chỉ là trọng điểm của một giai đoạn, một thời kỳ nào đó mà thôi. Khi nhìn lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh nhìn thấy trước hết là lực lượng lãnh đạo, lực lượng “gốc” là công nông rồi nhìn bao quát cả “đồng bào”. Hồ Chí Minh hay có cách nói, cách viết chỉ ra cho mọi người rõ cái “gốc”, cái nền tảng của vấn đề, chẳng hạn: cán bộ là cái gốc của mọi công việc; huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng; gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; dân là gốc của nước; đạo đức cách mạng là gốc của cây, là nguồn của sông, là cái căn bản của con người, v.v. Với phương pháp luận này, Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn cho những người cách mạng giải quyết một cách biện chứng, đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở Việt Nam qua các thời kỳ. Đồng thời, với phương pháp luận này, Hồ Chí Minh đã tìm thấy điểm tương đồng, từ đó nhân lên điểm tương đồng, hạn chế điểm khác biệt trong các giai cấp, tầng lớp của xã hội Việt Nam để tạo ra lực lượng cách mạng tổng hợp giành thắng lợi. Khi nhìn nhiệm vụ thì Hồ Chí Minh thấy rõ những việc “cần kíp”, “cần thiết” trong từng giai đoạn để tập trung nguồn lực vào giải quyết cho có hiệu quả.
Học tập và làm theo phương pháp luận Hồ Chí Minh trong công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước hiện nay đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam, cả tổ
chức và cả từng cán bộ, đảng viên phải:
1) Có tầm nhìn xa và sâu về mục tiêu, con đường phát triển. Đó là
yêu cầu về tính bao quát. Muốn như vậy thì phải có tầm trí tuệ, nghĩa là phải
có năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Năng lực này không tự nhiên mà có, nó
được tích lũy qua quá trình hoạt động của Đảng và sự phấn đấu bền bỉ của đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong thực tế.
2) Cần chú trọng hơn nữa việc tổng kết quá trình thực thi những nhiệm vụ đã đặt ra. Trong tổng kết, cần chú trọng tìm tòi những quy luật vận động của tình hình. Có như thế Đảng mới có những quyết sách phù hợp thực tế, có cái nhìn bao quát, không những cho cả một thời kỳ dài mà còn cho cả những nhiệm vụ trước mặt của từng giai đoạn nhỏ. Quy luật cần được tôn trọng, nếu vi phạm thì sẽ bị quy luật trừng phạt. Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 và nhiều Đại hội tiếp theo đều nhấn mạnh vấn đề phải tôn trọng quy luật khách quan. Ở đây thuộc về bản lĩnh chính trị và tầm trí tuệ. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người lúc nào, bao giờ cũng bình tĩnh, thanh thản, và do như thế cho nên Người có những quyết sách đúng. Sở dĩ như vậy là Người có bản lĩnh chính trị cao cường, có tầm nhìn xa, rộng, sâu, nắm được quy luật, chiều hướng phát triển của sự vật và hiện tượng, làm chủ được bản thân mình. Phương pháp luận này giúp cho Hồ Chí Minh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác gềnh, hiểm nguy để tới đích quang vinh. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có cương lĩnh là tầm nhìn xa. Cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận - thực tiễn trong nước và thế giới để bổ sung và phát triển nó như đã từng bổ sung và phát triển năm 2011. Đảng đã có những nghị quyết cho từng khóa đồng thời có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ít nhất từng chặng 10 năm. Đó cũng có thể coi là sự phản ánh tầm nhìn bao quát và có trọng tâm, trọng điểm. Nhưng, quan trọng hơn là cần xác định, làm rõ thêm những vấn đề tầm nhìn như thế đã đúng chưa, đồng thời cần điều chỉnh ở khâu nào, có phải do chủ quan duy ý chí như Đảng đã tự phê bình không. Hơn nữa, nhiều chính sách quốc gia (phần nhiều là biểu hiện trọng tâm, trọng điểm ở từng giai đoạn nhỏ - thường được hiểu là các giải pháp đột phá) cần được xem xét cho phù hợp và mang tính hiệu quả.
3. Luôn luôn giải phóng, đổi mới và phát triển
Hồ Chí Minh nhìn sự vật và hiện tượng trong một trạng thái vận
động không ngừng. Đó là một quá trình giải phóng mọi trở lực: trở lực bên
ngoài, trở lực bên trong, thậm chí trở lực nằm ngay trong mỗi tổ chức của hệ
thống chính trị, trong mỗi con người, để phát triển bền vững. Phương pháp luận
Hồ Chí Minh về điểm này là ở chỗ tổ chức chính trị - xã hội và con người phải
luôn luôn thích nghi với mọi hoàn cảnh. Muốn thích nghi, phải luôn luôn tự đổi
mới để phát triển. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn nhanh nhạy với cái mới.
Quá trình phát triển là quá trình phủ định biện chứng cái cũ, nhân lên yếu tố
mới. Đó cũng là quá trình luôn luôn giải phóng, giải phóng mọi sự ràng buộc lạc
hậu để bắt kịp những điều tiến bộ.
Từ sớm, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, Hồ Chí Minh
đã không ít lần tuyên bố chính sách “mở cửa và hợp tác”(5), tức là
có ý thức chủ động đổi mới và phát triển. Trong Lời kêu gọi Liên hợp
quốc năm 1946, Hồ Chí Minh nêu:
“Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân
thủ những nguyên tắc dưới đây:
1 - Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của
hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối
giữa các nước có chủ quyền.
2 - Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi
chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các
nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá
giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục
quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và
những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không
quân”.
Thật đáng ngạc nhiên về tầm nhìn xa và rộng của Hồ Chí Minh, vì
quan điểm đổi mới để phát triển, mở cửa và hợp tác trên đây được đặt ra từ rất
sớm và có tính nhất quán ở Hồ Chí Minh. Điều này nói lên tính phương pháp luận
của sự phát triển. Phát triển là một quá trình tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ
và luôn luôn sửa đổi bản thân mình, biết kế thừa những yếu tố tiến bộ đã và
đang có. Cũng trên tinh thần đó, đối với công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, ở Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn luôn tự
đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình, coi đó là quy luật tồn tại và phát triển
của bản thân Đảng.
Đất nước Việt Nam đang tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, nhưng trong điều kiện giai đoạn hiện nay là mở cửa, hội nhập quốc tế
trong khi quốc tế có những biến chuyển nhanh chóng, khó lường, phức tạp, vừa có
những thời cơ để phát triển, vừa có những thách thức, nguy cơ. Với phương pháp
luận Hồ Chí Minh, đất nước càng cần có sự đổi mới lớn hơn, cập nhật tình hình
nhanh hơn và cần chú ý tới tính hiệu quả lớn hơn để cho đất nước phát triển bền
vững. Đổi mới, giải phóng và phát triển, theo phương pháp luận Hồ Chí Minh phải
bảo đảm cho thế chân vạc của đất nước thật vững, đó là: 1) Chủ nghĩa Mác -
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; 2) Chủ nghĩa xã hội; 3) Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thế đứng đó muốn vững phải luôn luôn được phát triển sáng tạo. Giáo điều là con
đường chết của sự nghiệp đổi mới và phát triển. Đương nhiên, sáng tạo ở đây
không phải là thoát ly bản chất của thực thể mà từ đó sáng tạo. Tiếp cận mục
tiêu phát triển của đất nước Việt Nam, theo phương pháp luận Hồ Chí Minh, là ở
sự phát triển bền vững, chứ tuyệt nhiên không phải ở chỗ tăng trưởng kinh tế,
đành rằng, tăng trưởng kinh tế là một trong nhiều tiêu chí bảo đảm cho sự phát
triển bền vững. Nếu chỉ chú trọng tới tăng trưởng kinh tế thôi, thậm chí tăng
trưởng bằng mọi giá, thì sẽ sa vào kinh tế phiệt - điều trái hoàn toàn với
phương pháp luận Hồ Chí Minh. Một vấn đề nữa là, ở đây đổi mới, giải phóng và
phát triển còn là giữ được chủ quyền. Chủ quyền ở đây không chỉ là lãnh thổ mà
chủ quyền còn bao hàm cả nhận thức, ở đường lối, quan điểm, không bị sức ép từ
bên ngoài, không lệ thuộc bên ngoài, không làm theo bên ngoài mà không chịu
nhìn vào thực tế đất nước.
4. Mọi suy nghĩ và hành động đều thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn
Giải phóng cho con người theo chủ nghĩa nhân văn mácxít là mục
tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản. Ở xã hội cộng sản, mà Hồ Chí Minh đã ghi
thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam khi xác lập cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, thì con người được giải phóng khỏi mọi
ách áp bức, bóc lột, con người làm chủ xã hội, ở đó con người sống trong tự do
thật sự. Vấn đề có tính phương pháp luận Hồ Chí Minh là ở chỗ, mọi suy nghĩ và
hành động, mọi lúc, mọi nơi, người cách mạng đều phải hướng tới mục tiêu giải
phóng đó. Mọi công cuộc giải phóng trước đó, như giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng giai cấp, đều chỉ là mục tiêu của từng chặng đường, chỉ có
con người được giải phóng toàn diện, được ngự trị ở vương quốc tất yếu của tự
do, thì đó mới thực sự là mục tiêu cuối cùng và cao cả nhất.
Chính vì thế, thước đo duy nhất cho hiệu quả tư
duy và hành động của người cách mạng, của tổ chức cách mạng Việt Nam là ở chỗ
đưa lại quyền lợi chính đáng cho nhân dân. Mọi suy nghĩ và hành động trái với
lợi ích đó đều là những yếu tố có tính chất đi ngược lại với nguyên tắc phương
pháp luận Hồ Chí Minh.
Nội dung phương pháp luận này của Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cho
cách mạng Việt Nam hiện nay cần vận dụng là:
1) Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xã hội
xã hội chủ nghĩa chính là một xã hội đi tới giải phóng con người. Mọi suy nghĩ
và hành động hiện nay làm tổn hại tới mục tiêu và con đường đó đều trái với
phương pháp luận Hồ Chí Minh. Không vì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không
còn; không vì trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trước đây và hiện
nay có một số tiêu cực, thậm chí nảy sinh một số quái thai; không vì trong thực
tế ở Việt Nam có điều này điều nọ tiêu cực mà đi đến phủ nhận mục tiêu và con
đường đó để đi theo con đường khác.
2) Lấy hiệu quả phục vụ nhân dân làm thước đo cho trình độ lãnh
đạo của Đảng cũng như hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Với nội
dung phương pháp luận này của Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
chính trị - xã hội nói chung, cán bộ, đảng viên phải hành động trên tinh thần
phục vụ nhân dân. Tất cả vì con người, mà cụ thể ở đây là tất cả vì tự do, hạnh
phúc của nhân dân, đó chính là chương trình hành động lớn nhất của hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay. Khác với C.Mác, Ph.Ăngghen khi coi đảng cộng sản
là bộ phận tinh túy nhất của giai cấp vô sản đại công nghiệp; khác với
V.I.Lênin khi coi đảng cộng sản là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh coi Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ
chức chính trị từ trong xã hội mà ra, là Đảng con nòi, xuất thân từ giai cấp
lao động; vì thế Đảng chính là con của dân, là có quan hệ máu thịt với nhân
dân. Vì vậy, Đảng phải làm tròn chữ Hiếu đối với nhân dân.
3) Đảng và hệ thống chính trị nói chung cũng như cán bộ, đảng viên phải “nâng cao dân chúng”, nghĩa là phải làm cho dân giác ngộ cách mạng, để luôn luôn trở thành “dân tiên tiến”. Đảng không được coi mình là một nhóm tách rời nhân dân để đi đến nhận thức và hành động cho lợi ích nhóm. Bản chất vấn đề ở đây là ở chỗ: mục đích của Đảng và của nhân dân, của Tổ quốc là một. Đồng thời, tránh thói mị dân, tránh “theo đuôi quần chúng”. Sự nghiệp giải phóng con người, tức là theo chủ nghĩa nhân văn, do chính bản thân con người gánh lấy, nhưng hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, phải là tổ chức luôn luôn tiên phong dẫn lối đưa đường. Đảng phải là tổ chức tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”.
4) Vấn đề vị trí, vai trò của nhân dân ở Việt Nam đã được Hiến
pháp, pháp luật quy định rõ ràng. Trách nhiệm của Đảng đối với dân cũng đã được
ghi rõ trong nhiều nghị quyết của Đảng. Vấn đề là ở chỗ thực hiện trong thực tế
như thế nào cho có hiệu quả. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
vẫn là yêu cầu số một hiện nay.
5) Muốn bồi đắp và luôn luôn thấm đượm chủ nghĩa nhân văn, trước
hết, tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên phải làm gương trong cuộc sống, trong mọi
lĩnh vực công tác. Phải hy sinh cho lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách
mạng, của nhân dân, như quan điểm của Hồ Chí Minh: “Giàu sang không thể quyến
rũ/Nghèo khó không thể chuyển lay/Uy lực không thể khuất phục” ,
như yêu cầu tư cách của người cách mạng được Hồ Chí Minh ghi trong trang đầu
cuốn sách Đường cách mệnh: “Ít lòng tham muốn về vật chất”.
Đó cũng là điều Hồ Chí Minh gửi gắm trong Di chúc: “Về việc
riêng. Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải
hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Không phải tiếc vì chưa có vật chất đủ đầy, chưa có cuộc sống cao sang, mà tiếc
là không còn sống lâu hơn nữa để phục vụ nhân dân. Đó là sự nuối tiếc đong đầy
chủ nghĩa nhân văn của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Điều này, chúng ta cũng
thấy trong bài trả lời phỏng vấn của Hồ Chí Minh với các nhà báo nước ngoài đầu
năm 1946: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ
phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng
như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng
bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành...”.
Gương sáng của cán bộ, đảng viên là cực kỳ quan trọng đối với giáo
dục con người, là điểm quy chiếu cho mọi suy nghĩ và hành động hướng tới chủ
nghĩa nhân văn. Hồ Chí Minh đã dạy: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do
cán bộ tốt hoặc kém”; “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin tức là cách
mạng phân công cho việc gì, làm chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn
nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu (...) nhưng
nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác” Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta
mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác
- Lênin thiết thực nhất”...
Muốn học tập và làm theo những vấn đề phương pháp luận Hồ Chí Minh, ít nhất phải có ba điều: có tâm thế chủ động, tích cực; hiểu đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có nội dung phương pháp luận; làm cho phù hợp. Những nội dung phương pháp luận Hồ Chí Minh cần được vận dụng sát hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới giai đoạn hiện nay để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vận dụng cho đúng là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay để làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn là một tổ chức chính trị xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét