Những thành tựu của Việt Nam sau 35 năm đổi mới, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là những luận cứ xác đáng để phản bác những quan điểm sai trái về chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế tại Đại hội XIII của Đảng.
Đại hội XIII của Đảng đã thành
công rất tốt đẹp nhưng các thế lực thù địch vẫn đưa ra rất nhiều luận điệu sai
trái nhằm xuyên tạc đường lối của Đảng, tạo ra sự nghi ngờ trong nhân dân về
con đường mà chúng ta đang thực hiện. Cụ thể, chúng cho rằng chính sách đối
ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế tại Đại hội XIII của Đảng
là lý thuyết, phi thực tế. Chúng ngụy biện không thể có độc lập tự chủ trong
hội nhập quốc tế; đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược
lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ. Đồng thời, chúng còn
cho rằng, thể chế chính trị của Việt Nam là khác biệt, không phù hợp với chuẩn
mực chung của quốc tế; với một Đảng duy nhất cầm quyền càng không thể hội nhập
quốc tế. Nhìn lại lịch sử phát triển chính sách đối ngoại của nước ta, đặc biệt
những thành tựu sau 35 năm đổi mới, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn sẽ
là những luận cứ xác đáng để phản bác những quan điểm sai trái đó.
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là mối
quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy và
hỗ trợ lẫn nhau. Trong cương lĩnh và văn kiện của Đảng ta, mối quan hệ biện
chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rất rõ. Đây chính
là cơ sở để phát triển chính sách đối ngoại Việt Nam trong suốt những năm đổi
mới vừa qua. Một trong các bài học được rút ra trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã
chỉ rõ mối quan hệ này, cụ thể là: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trong bất cứ hoàn cảnh nào cần
kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy
cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực”(1). Trong phần những
định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, Cương lĩnh cũng nêu rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích
quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào
sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(2).
Rõ ràng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế được thể hiện rất cụ thể trong cương lĩnh của Đảng. Mối quan
hệ này còn được thể hiện trong các nội dung của chính sách đối ngoại nói chung
và được cụ thể hoá nội hàm của nó trong từng nội dung và điều kiện cụ thể. Đây
là cơ sở, nền tảng xây dựng chính sách đối ngoại của đất nước chúng ta trong
suốt những năm sau này.
Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng
cũng nêu rõ đường lối đối ngoại của Việt Nam thể hiện mối quan hệ biện chứng
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, nội dung cần thực hiện: “Thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế”… “Đặc biệt, chú trọng xử lý và giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển… giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế”(3). Các văn kiện Đại hội XII, XIII đều tiếp
tục khẳng định những nội dung nêu trên, cụ thể hoá mối quan hệ độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế cho từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng
nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình
hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có
lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(4).
Đồng thời, Báo cáo chính trị cũng nhấn mạnh bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống
nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của nhà nước với các hoạt động đối ngoại
và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đối ngoại song phương với nâng tầm đối ngoại đa
phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa
phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và
các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan
trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể. Đẩy
mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt
là với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng
khác, tạo thế đan xen lợi ích và gia tăng độ tin cậy. Chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc
gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.
Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta
được thể hiện qua cương lĩnh và các văn kiện, Nghị quyết của Đảng đều khẳng
định quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Đảng là mối
quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ này
được cụ thể hoá qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, phù hợp điều kiện,
bối cảnh phát triển cụ thể trên cơ sở của nguyên tắc lấy lợi ích quốc gia dân
tộc là trên hết, bảo đảm hội nhập quốc tế luôn dựa trên nguyên tắc giữ vững độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội
nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Quá trình này cũng
thể hiện sự phát triển của cả nhận thực và thực tiễn từ chú trọng hội nhập kinh
tế đến hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế
là trọng tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác là điều kiện và hỗ trợ cho hội
nhập kinh tế. Từ hội nhập đơn tuyến sang đa tuyến trên tất cả các cấp độ song
phương, khu vực và toàn cầu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét