Trong cuộc sống cũng như trong công việc,
con người ta quan niệm thế nào thì hành xử như vậy. Quan niệm là kết quả của nhận
thức; hành xử là kỹ năng. Muốn thay đổi cách thức, hành xử hay kỹ năng, thì cần
đổi mới quan niệm, thay đổi nhận thức phù hợp với nhu cầu phát triển. Đó là quá
trình tích lũy kiến thức, cập nhật thông tin để mở mang hiểu biết của mỗi công
dân, mỗi nhóm công chúng và cộng đồng xã hội.
Điều kiện cần và đủ về quyền tự do ngôn luận
Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo
chí là những khái niệm chỉ các trạng thái và cấp độ khác nhau về cùng một vấn đề.
Trong đó, tự do báo chí là vấn đề được nhiều người quan tâm và quan tâm từ các
phương diện khác nhau. Vì báo chí, truyền thông là những kênh truyền dẫn thông
điệp ngôn luận thường xuyên liên tục nhất, phong phú và đa dạng nhất, phổ cập rộng
rãi nhất, tập trung nhất liên quan đến vấn đề tự do ngôn luận. Mặt khác, trong
cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị hiện nay, trong môi trường truyền thông số,
báo chí, truyền thông ngày càng thể hiện vai trò rất quan trọng, là mặt trận
nóng bỏng và là hệ thống phương tiện hữu dụng nhất trong việc thể hiện quyền lực
và sức mạnh chính trị-xã hội, kết nối và thể hiện sức mạnh mềm quốc gia.
Tự do và tự do ngôn luận là vấn đề vừa trừu
tượng, vừa cụ thể, vừa thể hiện nhận thức và hành động lý trí, vừa bao hàm trạng
thái tình cảm, cảm xúc, cảm nhận của con người trong các mối quan hệ có tính chất
lịch sử. Do đó, muốn hiểu khái niệm “tự do”, cần đặt nó trong sự đối lập với “tất
yếu”. Muốn chinh phục cái tất yếu, ngoài nhận thức được bản chất cái tất yếu
ra, cần phải có năng lực và điều kiện chinh phục nó. Nhờ sự phát triển của khoa
học và công nghệ, chúng ta có thể biết được cơn bão sẽ đi qua có khả năng uy hiếp
như thế nào đối với cuộc sống cư dân cả một vùng, nhưng chỉ nhận thức được điều
đó mà thiếu năng lực và điều kiện chinh phục nó, thì cũng chỉ ngồi yên để “chịu
trận” khi cơn bão đến mà thôi.
Trong đời sống xã hội, tất yếu chính là môi
trường pháp lý, điều kiện kinh tế và môi trường văn hóa, hệ thống giá trị đạo đức
do cộng đồng tạo dựng. Theo quan niệm của triết học, nhận thức của con người là
vô hạn-nhận thức được thế giới vật chất vô hạn, nhưng đó là nhận thức của con
người triết học-con người trừu tượng, của loài người nói chung; còn khả năng ấy
tồn tại ở mỗi thế hệ, trong mỗi con người cụ thể, trong mỗi cá nhân thì luôn có
giới hạn.
Do vậy, không thể khẳng định rằng, ở một nước
có nền kinh tế giàu mạnh và xã hội phát triển ở trình độ cao là đã có tự do
ngôn luận hoàn toàn và một nước có nền kinh tế phát triển trung bình thì còn hạn
chế về tự do ngôn luận. Mọi sự ngộ nhận đều dẫn đến sai lầm và sẽ kìm hãm sự
phát triển. Đồng thời, áp đặt quan niệm tự do ngôn luận của nước này lên nước
khác là tư duy chính trị lỗi thời, cũng khó có thể chấp nhận được. Tính chất và
mức độ tự do ngôn luận cần được xem xét trong những điều kiện cụ thể của sự
phát triển; nó biểu hiện nấc thang tiến hóa của xã hội.
Vậy thì,
tự do ngôn luận là mục đích hay phương tiện? Tự do ngôn luận là quyền thiêng
liêng, cao cả của mỗi con người, mỗi dân tộc trong quá trình trao đổi thông
tin, tư tưởng, tình cảm cũng như chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm, nhưng có được
tự do ngôn luận để làm gì? Tự do ngôn luận có phải là đích cuối cùng cần đạt tới?
Không phải, tự do ngôn luận chỉ là phương tiện, hay là phương thức; còn việc sử
dụng phương tiện hay phương thức ấy để làm gì, đạt tới cái gì mới là đích đến của
tự do. Sự nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện sẽ là sai lầm nghiêm trọng và sẽ
gánh chịu hậu quả ngoài mong đợi.
Thời kỳ bắt đầu sự nghiệp cải tổ của Liên Xô
giữa những năm 80 của thế kỷ trước, thông điệp đích của những người chủ trương
cải tổ là “công khai và dân chủ hóa đời sống xã hội”. Trong điều kiện xã hội Xô
viết lúc bấy giờ, việc nêu khẩu hiệu này đã như làn gió thổi bùng lên trạng
thái tinh thần xã hội, nhưng “công khai và dân chủ hóa” để làm gì lại còn là ẩn
số? Vấn đề không phải là công khai để mà công khai, dân chủ để mà dân chủ. Mỗi
con người cần có tự do, mỗi dân tộc cần có độc lập và đích đến của mỗi con người
và mỗi dân tộc nói chung phải là bảo đảm xã hội phát triển lành mạnh, văn minh
và chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao.
Vấn đề cơ bản nhất: Tự do cho ai và tự do
để làm gì?
C.Mác từng khẳng định rằng, không nên bàn đến
có hay không có tự do báo chí; tự do báo chí bao giờ cũng có; vấn đề là tự do
cho ai và tự do để làm gì. Bởi trong xã hội còn phân biệt và khác biệt lợi ích
giữa các giai cấp và các nhóm xã hội, thì tự do cho giai cấp hay nhóm xã hội
này, có thể là hạn chế tự do đối với giai cấp khác, nhóm xã hội khác. Và lẽ
đương nhiên, đối với các giai cấp hay các nhóm xã hội khác nhau, sử dụng tự do
ngôn luận như công cụ nhằm đạt tới những mục đích không giống nhau, chủ yếu vì
lợi ích của giai cấp mình, nhóm xã hội do mình đại diện.
Từ thực
tiễn đấu tranh, C.Mác tổng kết rằng, vũ khí phê phán quyết không thể thay thế
việc phê phán bằng vũ khí; lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng
vật chất, nhưng mỗi khi tinh thần đã thấm vào quần chúng thì chính nó sẽ trở
thành sức mạnh vật chất. Báo chí, truyền thông khi đã thâm nhập vào công chúng
xã hội có thể làm thay đổi, thậm chí điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi của
hàng triệu người-khối vật chất khổng lồ tạo nên sức mạnh xã hội. Do đó, khi
“ngai vàng thống trị” đã về tay giai cấp tư sản, tự do báo chí lại không dành
cho số đông nhân dân lao động, những người trước đó đã đi theo ngọn cờ tự do của
giai cấp tư sản, mà chỉ dành cho những người có tiền, có quyền lực nhằm lũng đoạn
dư luận vì các mục đích của giai cấp và tầng lớp cầm quyền, trong đó chủ yếu là
mục đích chính trị và siêu lợi nhuận. Như vậy, tự do báo chí luôn được xem xét
trong tính lịch sử của nó-cả trên phương diện lịch đại cũng như đồng đại.
Trong biên bản trả lời phỏng vấn sâu qua
email với tác giả bài viết vào tháng 4-2009, Tom McEnroy, Tổng biên tập một tờ
báo ở Mỹ đã thừa nhận rằng, “báo chí Mỹ đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu. Điều
đó có nghĩa là bạn không thể xuất bản những điều có thể gây tổn hạn đến lợi ích
của mình. Hoa Kỳ là một nước tư bản, và bất kỳ thực thể nào: Nhà thờ, bệnh viện,
đài truyền hình, trước hết là một doanh nghiệp và phải tự nuôi sống mình. Nếu
tôi cho đăng một quan điểm chống Chính phủ, một vài người sẽ không đồng ý và có
thể sẽ áp đặt những hình phạt kinh tế đối với tờ báo của tôi để thể hiện sự
không hài lòng của mình. Ví dụ, họ có thể kêu gọi những người ủng hộ họ không
mua báo của tôi”.
Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác
cũng đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến quyền con người nói chung, quyền tự
do ngôn luận nói riêng; nhưng các văn bản này cũng lưu ý rằng, các quyền này có
thể chịu hạn chế do pháp luật nước sở tại đặt ra.
Do đó, trong quá trình thực hiện quyền tự do
ngôn luận, nên lưu ý đến mấy vấn đề sau đây.
Thứ nhất, thừa nhận quyền tự do ngôn luận,
nhất là thể hiện quyền này trên báo chí và các phương tiện truyền thông, cũng đồng
thời cần hiểu rằng, các quyền này đều được chế định bởi các yếu tố như môi trường
pháp lý, môi trường văn hóa và chính năng lực nhận thức và thực thi quyền của
công dân.
Thứ hai, mục đích của việc thừa nhận và thực
hiện quyền công dân nói chung, quyền tự do ngôn luận nói riêng là vì lợi ích
công-lợi ích của cộng đồng vì sự phát triển bền vững đất nước trong quá trình hội
nhập quốc tế, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
chứ không phải để thỏa mãn “ngôn luận tự do” của cá nhân hay nhóm xã hội, không
phải để “cá lớn nuốt cá bé”; mặt khác, kết quả của việc nhận thức và thực hiện
quyền này là quá trình đánh dấu những nấc thang trong quá trình phát triển.
Thứ ba, đây là quá trình nỗ lực không ngừng
từ nhiều phía, từ Nhà nước đến công dân và cộng đồng xã hội nhằm nỗ lực thống
nhất cùng tạo điều kiện để mở mang hiểu biết, ngày càng tạo ra nhiều tương đồng
trong nhận thức, giảm dần sự khác biệt; trong đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng
như chủ thể thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm
thiết lập quan điểm nền tảng xây dựng “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”; với
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”
cũng nhằm giúp cộng đồng và công dân có thêm điều kiện nâng cao nhận thức, mở
mang hiểu biết và thay đổi hành vi trong thực hiện quyền tự do ngôn luận./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét