30 NĂM CẦM QUÂN, KHÔNG PHẠM SAI LẦM CHIẾN LƯỢC NÀO, ĐẠI
TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP LÀ MỘT VỊ TƯỚNG TÀI DUY NHẤT TRONG LỊCH SỬ QUÂN SỰ THẾ
GIỚI
* Thứ
nhất: Bậc thầy về kết hợp chiến tranh du kích với chính quy:
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ năm
1945 đến 1975 là cuộc chiến tranh dài nhất lịch sử nhân loại. Trong cuộc chiến
tranh ấy, Việt Nam luôn ở thế yếu hơn các đối thủ. Yếu hơn về mọi phương diện
nhưng nghịch lý là Việt Nam lại luôn luôn nắm quyền chủ động chiến trường.
Trong 9 năm chống Pháp, chỉ sau
chiến dịch Việt Bắc 1947, quân Pháp liền rơi vào thế bị động sau khi Đại tướng
đưa vào thực thi kế hoạch phân tán bộ đội vào hoạt động trong vùng địch hậu.
Cuốn tài liệu nổi tiếng của ông về vấn đề này là Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập
trung.
Theo tinh thần này, các đơn vị lớn
phân tán thành từng đại đội nhỏ, luồn sâu vào trong vùng địch tạm chiếm để làm
chỗ dựa cho phong trào đồng thời phát triển thêm lực lượng. Khi cần thiết thì
tập hợp lại thành những tiểu đoàn để tác chiến.
Ngay lập tức, “cú đấm” của quân Pháp
đã đấm vào khoảng không vì không tìm đâu ra chủ lực của đối phương nhưng ở bất
kỳ đâu chúng cũng bị đánh tơi tả, phải rút khỏi Việt Bắc. Theo sau thất bại ấy
chúng phải về lo củng cố hậu phương, xây tháp canh, khống chế giao thông lập
các vùng tề ngụy.
Các đại đội độc lập hoạt động trong
vùng tạm chiếm chính là ý nghĩa khởi nguyên ban đầu cho sự kết hợp tuyệt diệu
giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích. Du kích có chủ lực hỗ trợ
thì du kích mạnh, chủ lực có du kích hỗ trợ thì thông thuộc đường sá và có chỗ
dựa vững chắc về các mặt hậu cần.
Đến kháng chiến chống Mỹ, sự kết hợp
này lại tiếp tục được phát triển lên đỉnh cao mới. Lực lượng của ta tuy ít hơn
Mỹ – Ngụy nhưng bất kỳ cuộc hành quân nào của chúng, đến đâu cũng bị bắn tỉa,
đặt mìn là vì du kích ta có ở mọi nơi. Trong khi đó, chủ lực ta lại tập trung
và thường xuyên cơ động đánh vào những nơi địch tương đối yếu hoặc do tập trung
quân đi càn quét mà sơ hở.
Ngay cả trên
miền Bắc, trong cuộc chiến chống sự phá hoại của không quân và hải quân Mỹ, một
cuộc chiến tưởng chừng chỉ có bộ đội chính quy với các khí tài hiện đại mới
tham gia được. Nhưng thực tế đã cho thấy trong cuộc chiến ấy có sự tham gia của
đủ 3 thứ quân. Chắc nhiều người vẫn còn nhớ hình ảnh các cụ già Hoằng Hóa bắn
rơi máy bay với súng máy 12,7 mm hoặc các đội tự vệ nhà máy, đội dân quân ở Tam
Đảo đã đặt súng đón lõng trên đường bay của máy bay F-111 để bắn rơi loại máy
bay đắt tiền hiện đại nhất của Mỹ chỉ với súng bộ binh hoặc 12,7 mm.
Tướng Peter Mac Donald – nhà nghiên
cứu lịch sử quân sự Anh khi viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ghi những dòng
trang trọng: “Với 30 năm làm tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp
cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của
chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp
chiến tranh du kích với chiến tranh chính qui. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng
có”.
* Thứ
hai: Vị tướng hậu cần kiệt xuất:
Trong tác phẩm “Chiến thắng bằng mọi
giá – Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiên tài của Việt Nam”, nhà sử học Mỹ Cecil
Currey cho rằng: “Ông Giáp là chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về chiến tranh
nhân dân… là một vị tướng hậu cần vĩ đại của mọi thời đại”.
Lời đánh giá của Cecil Currey quả
thực xác đáng. Vì có thể nói không ngoa rằng, chưa có vị tướng nào làm nhiều
đường sá như Tướng Giáp. Chỉ tính riêng con đường vận tải Trường Sơn đã vượt
qua rất xa cả về quy mô lẫn tính phức tạp so với con đường Miến Điện nổi tiếng
trong Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Con đường Trường Sơn đã nối liền
được hậu phương lớn với tiền tuyến lớn. Sự ra đời của con đường có bàn tay chỉ
đạo sát sao của Đại tướng và chính nó nằm trong một chỉnh thể tư duy quân sự
của ông.
Ta không thể thắng Mỹ bằng một trận
đánh dàn quân quy ước. Vậy chỉ còn cách phải phát triển tiếp lối đánh đại đội
độc lập, tiểu đoàn tập trung thời đánh Pháp. Đưa chủ lực vào để hỗ trợ phong
trào đấu tranh chính trị của nhân dân đồng thời huấn luyện du kích để tạo thành
cái thế đấu tranh trên hai chân (chính trị – quân sự). Muốn như thế thì phải có
đường vận chuyển. Do đó đường Trường Sơn ra đời và nó chính là điểm mấu chốt
trong công tác hậu cần của ta thời chống Mỹ.
Trong từng trận đánh cụ thể, Đại
tướng lại càng quan tâm đến công tác hậu cần. Lý do chính để Đại tướng hoãn
trận Điện Biên Phủ là do phương án chiến đấu chưa đảm bảo chắc thắng đồng thời
còn nhiều khó khăn đặt ra trong quá trình chiến đấu mà chưa có biện pháp khắc
phục.
Khi tổ chức lại theo phương án “đánh
chắc tiến chắc”, Đại tướng đã chỉ đạo làm lại công tác hậu cần từ đầu để đảm
bảo những điều kiện tốt nhất cho thắng lợi.
Một câu chuyện được kể trong hồi ký
Chiến trường mới của Thượng tướng Nguyễn Hữu An cho thấy mối quan tâm của Đại
tướng đối với công tác hậu cần trong chiến đấu.
Đó là trong chiến dịch giải phóng
Cánh Đồng Chum mang mật danh là chiến dịch Z diễn ra cuối năm 1971. Cuối tháng
11, tướng An về Hà Nội báo cáo quyết tâm và kế hoạch chiến dịch sau một thời
gian nghiên cứu chiến trường. Cuối buổi họp, tướng Giáp nhắc đi nhắc lại: “Phải
đảm bảo chắc thắng. Khi chuẩn bị vào Long Chẹng phải nhớ làm đường vận tải tiếp
tế hậu cần trước”.
Tuy nhiên, khi kết thúc đợt 1 chiến
dịch, một số sĩ quan ở mặt trận nóng vội đã ra lệnh: phải thừa thắng tiến
nhanh vào Long Chẹng, bỏ qua việc làm đường tiếp tế hậu cần. Nhớ lại lời dặn
của tướng Giáp, tướng An có ý kiến dừng lại làm đường nhưng trong không khí
thừa thắng, ít người quan tâm. Cuối cùng đã không làm đường mà cứ thế xông
thẳng lên. Kết quả là pháo không bắn tới tầm nên không yểm trợ được cho bộ
binh. Cuối cùng quân ta không hoàn thành được mục tiêu Long Chẹng trong đợt 2
chiến dịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét