Tư tưởng đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Đảng luôn xác định, “đoàn kết” là giá trị cốt lõi, “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
NHÂN
DÂN ĐÓNG VAI TRÒ CHỦ THỂ, VỊ TRÍ TRUNG TÂM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, PHÁT
TRIỂN VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc.
Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung
cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá
trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư
tưởng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập
trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc,
phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân
dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất
sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh
lớn nhất là ở Nhân dân, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1), đoàn kết được Nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to
lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết
đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải
đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta,
bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(2). Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không
chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công,
đại thành công”(3).
Kế
thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất
quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng
nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế
độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước
phồn vinh, hạnh phúc.
Ngay
sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, quan điểm đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam chú trọng, đưa lên nhiệm vụ hàng đầu. Cùng với việc thống nhất nước nhà về
mặt Nhà nước, ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thống
nhất các đoàn thể nhân dân và các tổ chức Mặt trận dân tộc trong cả nước (Các
tổ chức Mặt trận là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt
Nam). Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận cả nước được tổ chức trọng thể
tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 31/1 đến ngày 4/2/1977, quyết định lấy tên
là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh dấu bước phát triển lớn mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc trên phạm vi cả nước, mở ra một thời kỳ hoạt động mới của Mặt
trận và các đoàn thể quần chúng, góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa của dân tộc.
Đại
hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nắm vững chuyên chính vô sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Muốn đưa vào sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là
phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và
không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng chế
độ làm chủ tập thể là xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân
lao động, có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân
lãnh đạo. Quan điểm này đã được Đại hội V của Đảng khẳng định: Thành công
rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà
nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về
mọi mặt, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội xác định một trong
những nhiệm vụ trọng tâm là Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể
của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng cường Nhà nước
là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Tại
Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện,
có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết
toàn dân tộc như: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động”(4). Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước, trong đó nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân
tộc: (1) Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…; (2)
Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đến Đại hội VIII, Văn kiện Đại hội một
lần nữa khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân
là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng
đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà
công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”. Đại hội IX nhấn mạnh: Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đại hội X chỉ rõ, nhiệm vụ phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong
bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và
là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”(5).
Tiếp
tục khẳng định quan điểm của các nhiệm kỳ đại hội trước, Đại hội XI chỉ rõ: Đại
đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích
giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở
vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân...”3. Đại hội XII nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn
cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc”(6). Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện
và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân
trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải
quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Đại
hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung một số nội dung, phương châm:
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác
định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng
định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong toàn bộ quá trình
xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
ĐẠI
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC – CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA MỌI THÀNH CÔNG
Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược,
sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công,
chiến thắng. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.
Vượt
qua những khó khăn, thách thức nặng nề những năm sau khi đất nước thống nhất
bởi hậu quả tàn phá nặng nề của chiến tranh kéo dài chưa kịp được khắc phục,
đất nước bị bao vây, cấm vận, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu bộc lộ nhiều khiếm khuyết… Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công
tác xây dựng mặt trận dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc và phát huy
mạnh mẽ vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa đất nước tiến lên.
Chỉ
thị số 17-CT/TW của Đảng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển của
Mặt trận, đề cao vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc, có ý nghĩa thiết thực
đối với việc tạo ra sức mạnh nội sinh để đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế,
xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ vững
chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng; tạo điều kiện,
tiền đề để phá bỏ bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa quan hệ với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Đặc
biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và
biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân;
động viên Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia
các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.
Đảng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội kịp thời có chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp
với mọi lực lượng nhân dân tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp
phần động viên Nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, năng động, hăng hái tham
gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và chính
quyền các cấp mở rộng quan hệ hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với nhân dân các
nước trên thế giới.
Trong
bối cảnh tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng và cả hệ thống chính
trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức
đồng lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt
qua đại dịch Covid-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò
nòng cốt trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, Đảng đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận
động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo phát huy quyền làm chủ của
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; mở rộng, nâng cao
hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động Nhân dân tích cực tham gia
các phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội...
Những
kết quả đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thể của Việt Nam
trên trường quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân
dân Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn phát triển mới, cao hơn, sâu sắc hơn.
Đánh
giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận
về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn
diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững
bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững
đất nước”.
Những
thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ
tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
NHỮNG
BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUÝ BÁU
Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược xuyên
suốt quá trình cách mạng Việt Nam, có vai trò quyết định thành công của cách
mạng
Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc vì lợi ích của Nhân dân, lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi
mà còn lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc... để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc, ta cần đoàn kết để xây dựng nước nước nhà. Ai có
tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn
kết với họ”.
Trước
sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán xác định đoàn kết là giá trị cốt
lõi trong kho tàng truyền thống quý báu của dân tộc và đại đoàn kết toàn dân
tộc là đường lối chiến lược, là cội nguộn sức mạnh, là động lực chủ yếu mang
đến thành công cho cách mạng Việt Nam. Đây cũng là giá trị cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho chiến lược đại đoàn
kết của Đảng Cộng sản Việt Nam đi tới thắng lợi.
Vì
vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc “là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(7).
Đại
đoàn kết toàn dân tộc phải lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm
nền tảng và do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Khối
đại đoàn kết toàn dân tộc muốn mở rộng và phát triển thì cần phải có một hình
thức tổ chức, đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đoàn kết mọi người dân Việt Nam yêu
nước, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nam nữ, lứa
tuổi… nhưng không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát mà là một
khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
là lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và coi đó là một nguyên tắc có ý nghĩa như là một quy luật để xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một tất yếu vì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bởi chủ nghĩa
Mác-Lênin mới đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của nhân dân Việt Nam trong lịch
sử.
Xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải theo nguyên tắc đảm bảo
lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân lao
động; đồng thời quan tâm đến quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân
Trong
mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc - thực hiện đại đoàn kết trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích cao
nhất của quốc gia - dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Trước
đây, trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc thì lợi ích tối thượng chung là
giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quyền lợi của bộ phận, của
giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Nếu không
đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc,
giữa củng cố miền Bắc và giải phóng miền Nam; giữa cải thiện đời sống của nhân
dân lao động với việc xóa bỏ giai cấp địa chủ và cải tạo đối với giai cấp tư
sản dân tộc. Trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp lúc đó, để khối đại đoàn kết
toàn dân được tăng cường, mặt trận dân tộc thống nhất phải được mở rộng, Đảng
đã nêu nguyên tắc tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, giàu
mạnh, coi đó là mẫu số chung để thực hiện đoàn kết dân tộc.
Tại
Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng
của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện
giữa Ý Đảng - Lòng Dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của
toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Phát
huy vai trò, sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc
Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường
lối chiến lược tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đảng
luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện dân chủ trên lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp các ngành. Mọi hoạt
động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải
phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị,
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong
trào thi đua yêu nước. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại
diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích
cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng
thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và
ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc:
lấy dân làm gốc, phát huy quyền làm chủ của dân, nguồn lực nhân dân, thực hiện
đoàn kết toàn dân; lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng và do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi
cơ bản của nhân dân lao động; tổ chức đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc
thống nhất; lấy tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục làm phương thức
hoạt động chủ yếu.
TS.
Lê Hải Bình
Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng,
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét