Thực tế, "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài" và "vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, cho nên, cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn phấn đấu để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân; suốt đời tận trung với nước, tận tâm phụng sự nhân dân, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư… Những điều căn cốt này đã được mỗi quần chúng nhận thức rõ. Vì thế, khi đã xác định phấn đấu trở thành đảng viên, tất yếu mỗi người đều không chỉ cần phải tuân thủ những quy định, nguyên tắc thuộc về tổ chức, sinh hoạt và Điều lệ Đảng mà còn phải trải qua quá trình phấn đấu, tu dưỡng, thử thách để trưởng thành.
Đảng
Cộng sản Việt Nam là một tổ chức, cũng ở trong xã hội và Đảng trong sạch, vững
mạnh được quyết định bởi số lượng, chất lượng đảng viên và việc thực hiện
nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng. Số lượng đảng viên là cần thiết, song số
lượng đó chỉ trở thành sức mạnh khi đạt được những yêu cầu về chất lượng. Vì thế,
công tác phát triển Đảng toàn diện vào các vùng, các ngành, các giới, nhất là
trong thanh niên, phụ nữ, bộ đội xuất ngũ; trong các vùng xung yếu và các cơ sở
còn ít đảng viên để khắc phục tình trạng "vùng trắng", nhằm đảm bảo
vai trò lãnh đạo của Đảng là rất cần thiết. Hơn nữa, việc phát triển Đảng trong
hệ thống các trường đại học, cao đẳng, học viện, nhà trường; ở các vùng nông
thôn; trong các khu vực doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài… càng cần phải được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo chất lượng. Nếu không
quán triệt và thực hiện đúng vấn đề có tính nguyên tắc đó; nếu chỉ chú trọng số
lượng mà coi nhẹ chất lượng, thì các tổ chức Đảng dù "đảm bảo chỉ tiêu kết
nạp", song cũng chỉ là "một câu lạc bộ", không thể mạnh mà trái
lại còn trở nên lỏng lẻo, rệu rã. Trên thực tế, việc kết nạp người vào Đảng
luôn được các cấp ủy xem xét toàn diện, từ phẩm chất đạo đức và năng lực công
tác đến trình độ giác ngộ, động cơ vào Đảng; từ quá trình rèn luyện, tu dưỡng
thông qua thử thách thực tiễn đến việc thực hiện nghiêm các nguyên tắc, thủ tục
kết nạp Đảng và theo dõi, đánh giá quá trình phấn đấu trong thời gian là đảng
viên dự bị. Mỗi người khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đều hiểu rõ rằng
vào Đảng/trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là để mưu cầu lợi
ích cho mình, làm giàu cho bản thân và người thân mà là để cống hiến và phụng sự.
Tuy nhiên, thời gian qua, bên cạnh đại đa số giới trẻ, những quần chúng ngoài Đảng
đã và đang nỗ lực trau dồi tri thức, nỗ lực làm việc để gây dựng sự nghiệp cho
mình; thường xuyên tu dưỡng, phấn đấu để vinh dự được trở thành người đảng viên
cộng sản, thì đâu đó cũng vẫn có một bộ phận giới trẻ (công nhân ở các khu công
nghiệp, thanh niên ở các vùng nông thôn…) sống thiếu lý tưởng, hoài bão, chỉ biết
an phận mình. Đồng thời, cũng vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" đã xa rời lý tưởng cách mạng, vi phạm kỷ luật Đảng…, song đó chỉ là
hiện tượng. Cho nên, không thể vì một vài nhận xét về thực trạng công tác phát
triển Đảng ở một số địa bàn cụ thể mà vội quy kết rằng "nếu không bị bắt
buộc" thì người dân "không muốn vào Đảng"; và hiện nay công nhân
lao động, thanh niên "ngại vào Đảng", "không tha thiết vào Đảng"
như các phần tử phản động đã suy diễn, xuyên tạc.
Chỉ
riêng những con số cụ thể này: "Theo dự thảo báo cáo, trong giai đoạn 2010-2020
và 9 tháng đầu năm 2021, tổng số đoàn viên ưu tú do tổ chức đoàn giới thiệu cho
đảng là 2.868.498. Theo phân bổ chỉ tiêu của nhiệm kỳ 2012-2017 số lượng đoàn
viên ưu tú giới thiệu cho đảng xem xét kết nạp so với chỉ tiêu đề ra đạt
99,16%; nhiệm kỳ 2017-2022, tính đến thời điểm hiện tại đạt tỉ lệ 87,39%. Số lượng
đoàn viên ưu tú được kết nạp đảng, theo số liệu thống kê của 67/67 tỉnh, thành
đoàn, đoàn trực thuộc, toàn Đoàn có gần 1,6 triệu đảng viên là đoàn viên đang
sinh hoạt tại các chi đoàn, chiếm 25,39% tổng số đoàn viên cả nước và chiếm
30,76% tổng số đảng viên cả nước" cũng đủ là minh chứng sinh động cho thấy
công tác phát triển Đảng trong đoàn viên, thanh niên những nhiệm kỳ gần đây. Đó
cũng là một trong những bằng chứng bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch
khi cho rằng: cả 3 nhiệm kỳ Đại hội XI, XII, XIII của Đảng cũng không "chữa
được hiện tượng chán đảng" dù có sự vào cuộc của ngành Tuyên giáo, của Tổng
cục Chính trị Bộ Quốc phòng và Bộ Công an.
Thực
tế, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu phấn đấu; đồng thời
cũng là niềm tự hào của mỗi quần chúng ngoài Đảng nói chung, của tuổi trẻ nước
nhà nói riêng. Vì thế, việc vin vào cớ cho rằng thủ tục vào Đảng "rườm
rà", nhất là phải khai lý lịch và được xác minh từ địa phương là thành phần
ưu tú trong xã hội về mọi mặt như đạo đức, lối sống, gương mẫu, trong sạch; phải
đi học lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng và "vào Đảng không đem lại lợi ích cụ
thể gì', "vào Đảng không có gì khác biệt"… đã "cản trở nhiều người
không muốn vào Đảng" chỉ là sự suy diễn cá nhân của những kẻ cơ hội đầy dã
tâm chống phá Đảng. Hơn nữa, trên cơ sở thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW ngày
23/11/1996 của Bộ Chính trị về "Tăng cường công tác xây dựng Đảng, các
đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân" và Kết luận số 80-KL/TW
ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư về "Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW về
“Tăng cường công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân (gọi tắt
là doanh nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” của Bộ Chính
trị (khóa VIII) trong tình hình mới” cùng Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 18/3/2019 của
Ban Bí thư về "Tăng cường xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế
tư nhân”…, công tác phát triển Đảng, thành lập tổ chức Đảng cũng như tạo nguồn
phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp và có vốn đầu
tư từ nước ngoài thời gian qua cũng có những chuyển biến nhất định và đạt được
những kết quả khả quan.
Thông
qua việc thay đổi nhận thức của chủ doanh nghiệp với vấn đề phát triển Đảng và
thành lập tổ chức Đảng; việc khắc phục những khó khăn về thời gian tham dự lớp
cảm tình Đảng của công nhân các khu công nghiệp; nhất là việc đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục về công tác phát triển Đảng trong khối doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, ở các vùng nông thôn… công tác phát triển đảng viên ở những địa bàn này
đã có những thay đổi tích cực. Vì thế, câu chuyện "giới trẻ nhạt Đảng",
"giới trẻ ngại vào Đảng" là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam mà một luận
điệu thù địch nêu ra không phản ánh đúng thực tế công tác phát triển Đảng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đó chỉ là một vài hiện tượng đơn lẻ, chỉ là thiểu số, không
phải là bản chất, cho nên sự quy chụp đó là vội vàng, là thiển cận và ác ý; là
bôi đen sự thật để xuyên tạc công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng của Đảng Cộng
sản Việt Nam nói chung, công tác phát triển Đảng nói riêng.
Đương
nhiên, để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiên phong, trong thực tế, Đảng Cộng
sản Việt Nam không chỉ chú trọng công tác phát triển Đảng mà còn luôn tự chỉnh
đốn và đổi mới. Một mặt, các cấp ủy Đảng chủ động làm tốt công tác tuyên truyền,
giáo dục, tạo nguồn trong quần chúng tích cực, đảm bảo về số lượng, cơ cấu hợp
lý; bồi dưỡng, theo dõi, giúp đỡ để họ có đủ điều kiện trở thành đảng viên cộng
sản; xem xét toàn diện về mọi mặt (trình độ giác ngộ, phẩm chất đạo đức, năng lực
công tác, uy tín trước quần chúng…) và thử thách trong thực tiễn; bồi dưỡng, kết
nạp và giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức. Mặt khác, Đảng
thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, để kịp thời
phát hiện, xử lý, đưa ra khỏi Đảng những kẻ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong từng tổ
chức cơ sở Đảng/những kẻ đã xa rời lý tưởng cách mạng, thiếu tu dưỡng đạo đức
cách mạng của người đảng viên, không còn là "tấm gương" cho quần
chúng noi theo.
Một
trong những nội dung quan trọng của Văn kiện Đại hội XIII cần được cả hệ thống
chính trị và cấp ủy Đảng các cấp quán triệt sâu sắc là: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát
huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân
của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”.
Theo đó, để công tác phát triển Đảng thật sự đảm bảo chất lượng, toàn Đảng
không chỉ cần phải nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò của nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên này theo đúng tinh thần Chỉ thị số 28-CT/TW ngày
21/1/2019 của Ban Bí thư về "Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà
soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng" mà
còn phải chú trọng, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục trong cán bộ, đảng
viên nói chung, quần chúng ngoài Đảng nói riêng về mục đích, ý nghĩa của công
tác phát triển đảng viên. Đồng thời, quan tâm đào tạo, rèn luyện phẩm chất đạo
đức và bản lĩnh chính trị cho thế hệ trẻ, cho những quần chúng ngoài Đảng trong
các tổ chức chính trị-xã hội ở các vùng, các địa bàn, các giới… để chủ động
phát hiện và tạo nguồn dự bị của Đảng; tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng để giúp quần
chúng, đảng viên mới nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng,
bồi đắp lý tưởng cách mạng, xác định đúng đắn động cơ vào Đảng trên cơ sở giác
ngộ lý tưởng và tự giác phấn đấu, rèn luyện để được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Cùng
với đó, các tổ chức cơ sở Đảng phải quán triệt sâu sắc quan điểm "trọng chất
lượng hơn số lượng", để khi tiến hành các khâu, các quy trình phát triển Đảng
vừa tránh sa vào hiện tượng chạy theo chỉ tiêu mà tùy tiện hạ thấp tiêu chuẩn,
điều kiện của người vào Đảng vừa tránh được tình trạng mắc bệnh hẹp hòi, cầu
toàn, gây tác hại nhiều mặt, làm tổn hại đến việc bổ sung nguồn sinh lực cho Đảng.
Trong quá trình triển khai, một mặt, phải thường xuyên đổi mới, nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ và tuyên truyền, giáo dục về mục tiêu, lý tưởng của Đảng;
phát huy vai trò, trách nhiệm của người đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán
bộ lãnh đạo, quản lý để làm gương cho quần chúng tự nguyện phấn đấu vào Đảng. Mặt
khác, điều chỉnh linh hoạt những bất cập (bố trí các lớp cảm tình Đảng, lớp đảng
viên mới bằng hình thức trực tuyến, học vào ngày nghỉ, ngoài giờ hành chính, bố
trí địa điểm, thời gian cho phù hợp điều kiện thực tế…) để tạo thuận lợi cho những
đối tượng đặc thù; đồng thời, thực hiện nghiêm các khâu, các quy trình bồi dưỡng,
kết nạp, giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức để Đảng thật sự
thu hút và kết nạp được những người ưu tú nhất, tiêu biểu nhất về phẩm chất, bản
lĩnh, năng lực, trí tuệ vào Đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét