Độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH là một trong những nội dung trọng tâm của tư tưởng
Hồ Chí Minh; trong đó, những luận giải của Người về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam là biểu trưng mẫu mực về sự thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin, về tinh thần sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh
các nước thuộc địa. Đây là những luận điểm đặt tiền đề quan trọng và là kim chỉ
nam cho cho hành trình tới tương lai tươi sáng của dân tộc; là nền tảng vững chắc
cho việc tiếp tục phát triển hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện mới. Trong di sản lý luận của mình, C.Mác
và Ph.Ăng ghen đã đưa ra những dự đoán về xã hội tương lai - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Hai ông đã có công biến CNXH vốn là học thuyết không tưởng thành học
thuyết có cơ sở khoa học. Tuy vậy, do điều kiện lịch sử, các nhà sáng lập ra chủ
nghĩa xã hội khoa học chỉ có thể dự đoán những nét chủ yếu, chứ không thể nêu
lên một cách chi tiết những quan niệm của mình về xã hội tương lai. Hơn nữa, những
dự đoán ấy được hình thành chủ yếu trên cơ sở nghiên cứu hiện thực xã hội TBCN
phát triển tương đối cao ở một số nước Tây Âu. Vấn đề đặt ra là: chế độ cộng sản
có thể áp dụng được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng không? Có thể có
một mô hình CNXH chung cho mọi quốc gia, dân tộc không?
Về
vấn đề thứ nhất, ngay từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cho rằng cần
xem xét tình hình cụ thể ở lục địa châu Á về mặt lịch sử và địa lý. Bằng nhãn
quan chính trị sắc sảo và sự hiểu biết sâu rộng, trên cơ sở nghiên cứu, xem xét
các nước châu Á một cách toàn diện cả về lịch sử, xã hội - văn hoá, kinh tế,
chính trị... Người đi đến kết luận: “Bây giờ hãy xét những lý do lịch sử cho
phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”(5). Bởi ở
châu Á, tư tưởng về cộng đồng xã hội, bình đẳng, giáo dục và đề cao giá trị
nhân văn; tư tưởng phải đấu tranh cho hạnh phúc của con người, đề cao nhân
dân... đã phát triển sớm, trở thành cơ sở thuận lợi để tiếp nhận tư tưởng của
chủ nghĩa cộng sản. Cuối thế kỷ XX, một sự thật lịch sử là trong khi một mô
hình CNXH tan rã ở các nước XHCN châu Âu, thì chế độ XHCN lại được củng cố và
phát triển ở các nước châu Á như Việt Nam, Trung Quốc... Thực tế đó đã chứng
minh nhận định thiên tài của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
Về
vấn đề thứ hai. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự đoán
về xã hội tương lai, song các ông không cho rằng, trong tương lai CNXH sẽ chỉ
có một mô hình duy nhất. CNXH về bản chất và mục tiêu là thống nhất, nhưng có
nhiều mô hình khác nhau, thể hiện sự đa dạng, phong phú trong việc lựa chọn con
đường đi lên CNXH. Mô hình CNXH ở mỗi quốc gia bao giờ cũng mang trong nó những
nét đặc thù về lịch sử, văn hóa, dân tộc của quốc gia đó.
Hồ
Chí Minh tiếp cận CNXH từ nhiều phương diện khác nhau: từ chủ nghĩa yêu nước và
khát vọng giải phóng dân tộc, từ phương diện đạo đức, từ góc độ văn hoá... Trên
các phương diện, Người đều thấy rằng, về bản chất, CNXH là một chế độ mới khác
biệt, một chế độ thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả. “Chỉ có chủ nghĩa cộng
sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc...”. Đối với Việt Nam,
CNXH là con đường phát triển tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sau này, trong lý luận nhận thức về CNXH,
Người khẳng định thêm nhiều luận điểm quan trọng: “Không có chế độ nào tôn trọng
con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được
thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”; CNXH là “nhằm làm
cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc
làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”... Giá trị xuyên suốt và đặc sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình CNXH gắn liền với khát vọng cháy bỏng của
Người; đó là xã hội giải phóng thật sự con người, xã hội do nhân dân lao động
làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chế độ
chính trị - xã hội ưu việt là nhằm giải phóng con người về mặt chính trị. Khi
đó, con người mới thực sự là mục tiêu theo ý nghĩa chân chính của nó. Mặt khác,
giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột và nô dịch trong xã hội có giai cấp đối
kháng là động lực mạnh mẽ, là công cụ chủ yếu để khai thác và phát huy mọi khả
năng vật chất và tinh thần của con người vào sự phát triển xã hội. Xã hội XHCN,
theo Hồ Chí Minh quan niệm, là một xã hội trong đó con người được tự do, bình đẳng,
hạnh phúc, phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Ngay sau khi Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã nêu những nhiệm vụ cấp bách của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cả sáu vấn đề người đưa ra đều liên quan đến con
người và giải phóng con người. Đó là:
Nhân
dân đang đói, làm gì để thoát khỏi nạn đói.
Nhân
dân đang dốt, làm gì để thoát khỏi dốt.
Nhân
dân chưa được hưởng dân chủ, làm gì để nhân dân được hưởng tự do.
Nhân
dân bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, phải làm gì để thoát khỏi nạn này.
Nhân
dân phải chịu nhiều thứ thuế, phải bỏ ngay các thứ thuế đó cho dân.
Nhân
dân bị thực dân chia rẽ, phải làm gì để đoàn kết nhân dân lại.
Trong
suốt quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH, Người thường xuyên nhắc nhở Đảng
và Chính phủ phải luôn chăm lo cho dân: việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm,
việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Đảng
cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân”. Như vậy, yêu thương những con người lao động,
đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất công, khỏi sự nghèo
đói, dốt nát là điểm xuất phát trong cách tiếp cận mô hình CNXH của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Đặt
con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, CNXH là xã hội duy nhất mà
quyền con người trở thành hiện thực và có khả năng phát huy cao nhất mọi tiềm
năng con người (cá nhân, tập thể, cộng đồng). Với Hồ Chí Minh, con người là chủ
thể tích cực của lịch sử, nhân dân là giá trị quý báu nhất, cao nhất; của dân,
tài dân, sức dân là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển. Không có dân ủng
hộ giúp đỡ thì cách mạng không có sức mạnh, không thể thành công. Không có dân
thì Đảng không có lực lượng. Có dân, được dân tin, dân yêu, dân phục, lại có đường
lối đúng để dẫn dắt dân tranh đấu thì việc khó mấy cũng giải quyết được.
Nói
đến quyền con người trong CNXH không thể không nói đến tư tưởng dân chủ. Dân chủ
XHCN chính là sự thể hiện quyền con người của cá nhân và cộng đồng ở mức cao nhất.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân
thì dân chủ là của quý báu nhất trên đời của nhân dân; dân chủ nghĩa là: dân là
chủ và dân làm chủ. Quan niệm đó thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa tính nhân
văn và tính pháp lý của dân chủ, được thể hiện thống nhất trong nội hàm dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân và vì nhân dân. Nhưng để nhân dân thực hiện được
vai trò cách mạng của mình, đem lại hạnh phúc cho chính mình, cần phải có sự
lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới công việc thực tế
để xây dựng nền dân chủ tiến bộ thực sự của dân, do dân, vì dân. Người luôn
quan tâm xây dựng Đảng trên cả ba phương diện: tư tưởng, lý luận; đường lối
chính trị; tổ chức cán bộ. Người đòi hỏi Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn
minh, cán bộ đảng viên phải “chính tâm”, “nghiêm pháp”; tuyệt đối trung thành với
lợi ích của giai cấp, của nhân dân, ngoài ra không còn lợi ích nào khác. Đảng
và nhà nước không phải là “cứu tinh” của nhân dân mà có trách nhiệm phụng sự
nhân dân, là đày tớ của nhân dân. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đảng
phải quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chú trọng nâng cao
dân trí; đặt dân sinh, dân trí, dân chủ trong quan hệ thống nhất.
Khi
xác lập những đặc trưng cơ bản của CNXH, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin cũng nhấn mạnh, CNXH không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân
theo, không phải là những sắc lệnh từ trên xuống, mà nó là một phong trào hiện
thực, là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Vì thế, mọi sự gò
ép, bất chấp hiện thực, công thức hóa những tư tưởng lý luận trên thực tế đều
phải trả giá. CNXH hiện thực luôn phát triển, do đó quan niệm về nó cũng phải
được phát triển.
CNXH
và cách mạng XHCN ở Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản nhưng được diễn ra
ở một xứ thuộc địa không hoàn toàn giống một cuộc cách mạng do giai cấp vô sản
lãnh đạo ở phương Tây như các nhà kinh điển Mác - Lênin đã chỉ ra. Vì vậy, tính
cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi sự vận dụng cần phải “Xem
xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đông”. Đồng thời, nó phải được cụ thể hóa, phát triển và hoàn thiện
trong quá trình cách mạng. Hơn nữa, CNXH và con đường đi lên CNXH có nhiều nội
dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng và luôn mang tính khả biến, gắn
với diễn trình lịch sử trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng. Bởi vậy, để
cách mạng thắng lợi, đòi hỏi trong nghiên cứu, hoạch định đường lối và chỉ đạo
thực tiễn phải có quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển; phải thấy rõ, phân
tích và giải quyết tốt các mối liên hệ, có bước đi phù hợp và những điều kiện
cơ bản bảo đảm cho con đường cách mạng được hiện thực hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ tìm ra con đường cách mạng Việt Nam mà đã không ngừng phát triển hoàn
thiện nó qua các thời kỳ lịch sử với những quan điểm đúng đắn, sáng tạo.
Tính
cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định
con đường cách mạng Việt Nam đã được lịch sử kiểm chứng. Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, miền Bắc đi lên CNXH, sau chiến thắng 30-4-1975 cả nước đi lên CNXH.
Sự phát triển không ngừng của đất nước trước những cam go, thử thách và biến động
thăng trầm của lịch sử, những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong gần
thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Sự vận động của thực tiễn cách mạng đòi hỏi lý luận về mô hình CNXH phải
có bước phát triển mới. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và tám đặc trưng được xác định
trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã phản ánh tổng quát, toàn diện
quan niệm về CNXH của Đảng ta, là sự tiếp nối kiên định, hiện thực hóa tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH trong điều kiện mới của đất nước./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét