Cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng hiện nay
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản,
chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng tổ chức, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng, đồng
thời cũng chi phối các nguyên tắc tổ chức, hoạt động khác của Đảng, nhằm bảo
đảm sự thống nhất về tư tưởng và chính trị của Đảng thông qua sự củng cố, thống
nhất về tổ chức. Để nguyên tắc tập trung dân chủ phát huy được hiệu quả trong
Đảng, cần có cơ chế bảo đảm việc thực hiện nghiêm ở các cấp ủy và tổ chức đảng.
Nhận
thức về cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã có
bước tiến mới về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng,
trong việc chuẩn bị các quyết định của Đảng, bầu cử cấp ủy và đánh giá, đề bạt
cán bộ. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng không ít cá nhân lợi dụng chính nguyên
tắc tập trung dân chủ để cố tình thực hiện sai nguyên tắc, lợi dụng yếu tố tập
trung để thâu tóm quyền lực; nhiều cán bộ, đảng viên đã vi phạm nghiêm trọng
nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó có cả đảng viên là cán bộ cấp cao. Nguyên
nhân dẫn đến vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ có cả yếu tố chủ quan và
khách quan. Một trong những nguyên nhân là do nguyên tắc tập trung dân chủ có
nội dung chi phối rất rộng và khá trừu tượng, khó nắm bắt; hơn nữa, mỗi lĩnh
vực, mỗi mặt công tác, hoạt động xây dựng Đảng lại có những yêu cầu cụ thể
riêng. Mặc dù gần đây, Đảng ta đã có nhiều văn bản quy định, hướng dẫn, trong
đó cụ thể hóa cách tiến hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ; nhưng vẫn còn
không ít lĩnh vực, mặt công tác chưa có được những quy định cụ thể như vậy;
hoặc, có quy định nhưng vẫn chưa đủ rõ, tức là chưa có những quy định có tính
hệ thống về cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Thực
tế đó cho thấy, để các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời, ngăn ngừa, hạn chế
tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thì rất cần
tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng hiện nay.
Theo cách hiểu thông thường, cơ
chế là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện”(1).
Khái niệm cơ chế được dùng từ lâu trong khoa học tự nhiên, kỹ
thuật, như cơ chế quang hợp của cây xanh, cơ chế hoạt động của máy phát điện...
Ngày nay, khái niệm cơ chế được sử dụng trong nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Có thể thấy, cơ chế là những quy định về
cách thức tiến hành hoạt động nào đó trong xã hội, trong tổ chức. Cơ chế do tổ
chức, con người đặt ra nhưng lại quy định về hoạt động của tổ chức, con người;
do vậy, cơ chế có thể đúng và có thể sai, phù hợp hoặc không phù hợp, tiến bộ
hay lạc hậu. Cơ chế có nhiều cấp độ, từ đơn giản đến phức tạp. Ở cấp độ cao, cơ
chế còn bao gồm cả quan điểm chính trị - xã hội, các quy phạm pháp luật, các
quy định, quy chế, quy tắc, quy trình cụ thể trong từng tổ chức, từng công
việc.
Từ nhận thức về khái niệm cơ chế như vậy,
cho thấy: Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là
hệ thống những quy định về cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng. Vì cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng bao gồm những quy định về cách thức thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng; do đó, xây dựng cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng thực chất là xây dựng hệ thống các quy định về cách thức
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Xây dựng tốt cơ chế thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng tức là xây dựng, hoàn thiện hệ
thống các quy định chỉ rõ cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Đảng, sẽ vừa hướng dẫn cho các cấp ủy, tổ chức
đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực hiện đúng nguyên tắc này, vừa
ngăn ngừa tình trạng tùy tiện, lúng túng, cố tình làm sai, bóp méo trong thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ càng được hoàn thiện, rõ ràng, sẽ càng bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Những
nội dung cụ thể của cơ chế cần được xây dựng, hoàn thiện để bảo đảm thực hiện
có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
Cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là loại cơ chế chính trị cấp độ cao,
bao gồm cả quan điểm chính trị, các quy định, quy chế, quy trình cụ thể trong
từng tổ chức, từng công việc của Đảng, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên
tắc tập trung dân chủ trong toàn Đảng.
Để xác định nội dung cơ chế thực hiện có
hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, cần nhận thức rõ phạm vi thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Có thể chia ra các lĩnh vực chính
trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, như thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác tổ chức của Đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong hoạt động lãnh đạo; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
sinh hoạt đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các mặt công tác xây
dựng Đảng khác.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác tổ chức của Đảng.
Công tác tổ chức là một trong các mặt công
tác xây dựng Đảng, nhưng do nguyên tắc tập trung dân chủ trước hết là nguyên
tắc tổ chức cơ bản của Đảng và do tính chất quan trọng của công tác tổ chức,
nên cần tách ra thành một lĩnh vực chi phối chính của nguyên tắc tập trung dân
chủ. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức của Đảng bao
gồm: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thiết kế mô hình tổ chức của
Đảng, trong mối quan hệ giữa các tổ chức trong Đảng, giữa đảng viên với tổ
chức; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bầu cử cơ quan lãnh đạo các
cấp; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng và tuân thủ quy chế
làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong thành lập tổ chức mới, kiện toàn, đổi mới tổ chức...
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong hoạt động lãnh đạo, gồm
các khâu: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy trình ban hành nghị
quyết, quyết định lãnh đạo; chế độ thảo luận, ra quyết định, bảo lưu ý kiến
thiểu số; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong chấp hành nghị quyết,
như chế độ chấp hành, chế độ trách nhiệm, chế độ kiểm tra, giám sát; thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách...
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt đảng, gồm các nội dung: Thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tự phê bình và phê bình; thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong đại hội đảng, trong sinh hoạt cấp ủy, chi
bộ; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện quyền và trách nhiệm
của đảng viên; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện bầu cử
trong Đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ báo
cáo, thông báo trong Đảng...
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong các mặt công tác xây dựng Đảng, gồm
các phương diện: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công
tác lý luận, như mối quan hệ giữa chấp hành nghị quyết với yêu cầu sáng tạo,
đổi mới trong nghiên cứu lý luận; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
công tác tuyên truyền, cổ động; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
công tác văn hóa, văn nghệ, trong xử lý mối quan hệ giữa chấp hành nghị quyết,
phục vụ đường lối, chủ trương của Đảng với đòi hỏi sự sáng tạo của văn hóa, văn
nghệ; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các khâu của công tác cán
bộ, như đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, kỷ luật, chính
sách cán bộ...; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác đảng
viên, như kết nạp đảng viên, đánh giá đảng viên, kỷ luật đảng viên...; thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật;
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác dân vận; thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ...
Sự phân chia nêu trên là cần thiết để nhận
thức rõ hơn về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và có cơ sở để xác định
nội dung cơ chế cần xây dựng, hoàn thiện nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Tuy nhiên, sự phân loại này cũng chỉ
mang tính tương đối, vì trong thực hiện các hoạt động lãnh đạo, sinh hoạt nội
bộ và các mặt công tác xây dựng Đảng luôn có sự đan xen nhau.
Những
vấn đề cần chú ý trong xây dựng, hoàn thiện cơ chế để bảo đảm thực hiện có hiệu
quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
Như vậy, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng trên các phương diện chính
là: Trong công tác tổ chức; trong hoạt động lãnh đạo trong sinh hoạt đảng và
trong các mặt khác của công tác xây dựng Đảng. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là việc phức tạp, phạm vi
phải xây dựng các quy định rất rộng, cần sự kiên trì và sự chỉ đạo tập trung.
Việc hoàn thiện cơ chế để bảo đảm thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay cần tập trung
vào xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách thức thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ sao cho khắc phục được những hạn chế, bất cập trong thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, như tình trạng dân chủ hình thức; bóp méo dân chủ
để phục vụ ý đồ cá nhân; không quy được trách nhiệm cá nhân khi có sai phạm xảy
ra; nhân danh nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng hành xử gia trưởng, độc
đoán... Trong xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay, cần lưu ý một số vấn đề sau:
1- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, bầu người đứng đầu
trong các tổ chức của Đảng.
Cần hoàn thiện các quy định về chế độ bầu
cử theo hướng mở rộng bầu cử trực tiếp cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy từ cơ sở
đến cấp huyện, tỉnh từ nay đến năm 2030. Để khắc phục tình trạng dân chủ hình
thức và bóp méo dân chủ trong bầu cử ở nơi này hay nơi khác, theo tinh thần mở
rộng quyền đề cử và tự ứng cử, cần giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa
chọn, quy định bắt buộc có số dư trong giới thiệu ứng cử và bầu cử cấp ủy và cả
các chức danh là người đứng đầu. Sự không hài lòng trong dư luận, tính hình thức
và nguy cơ làm biến dạng dân chủ do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu ở tình
trạng phổ biến là chỉ có một ứng viên cho một chức danh lãnh đạo trong bầu cử
hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng cần tập trung nghiên cứu
thực hiện chế độ để những người tham gia bầu có thể bãi miễn đại biểu do mình
bầu ra.
2- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong Đảng.
Cần hoàn thiện các quy chế làm việc của
các cấp ủy, tổ chức đảng, trong đó quy định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm của
tập thể lãnh đạo (cấp ủy, ban thường vụ, ban cán sự đảng...) theo hướng chỉ bàn
và quyết định những vấn đề lớn, chỉ trực tiếp quản lý cán bộ là người đứng đầu;
đồng thời, tăng thẩm quyền, trách nhiệm của cá nhân là thành viên tập thể lãnh
đạo, người đứng đầu (nhất là bí thư, các phó bí thư cấp ủy), đi đôi với hoàn
thiện các quy định, thiết chế kiểm soát quyền lực bằng chế độ kiểm tra, giám
sát, bỏ phiếu bất tín nhiệm...
Hoàn thiện quy định về chế độ tổ chức, làm
việc của thường trực cấp ủy, ban cán sự đảng và đảng đoàn vì đây là những cơ
cấu tổ chức đặc biệt, được hình thành không do bầu cử trực tiếp, nhưng có trách
nhiệm, thẩm quyền rất lớn, dễ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ nếu thiếu
các quy định cụ thể và chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Trong trường hợp bí
thư cấp ủy đồng thời làm chủ tịch ủy ban nhân dân, vẫn phải bố trí thường trực
cấp ủy đủ ba thành viên lãnh đạo để thực hiện được nguyên tắc tập trung dân
chủ.
3- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong đại hội đảng.
Cần xây dựng, hoàn thiện các quy định bảo
đảm Đại hội đại biểu toàn quốc thật sự là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng;
đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên là cơ quan lãnh đạo có vị trí, vai trò
cao nhất trong tổ chức đảng, khắc phục biểu hiện hình thức của đại hội đảng các
cấp. Ngay trong chính đảng mác-xít đầu tiên do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập
là Liên đoàn những người cộng sản, Điều lệ của Liên đoàn năm 1847 đã quy
định Ban chấp hành trung ương tham dự Đại hội, nhưng không có quyền biểu
quyết(2).
Với quy định này, cho thấy C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã rất quan tâm đến ngăn chặn
ảnh hưởng của ban chấp hành đối với đại hội đảng và là chỉ dẫn có ý nghĩa đối
với vấn đề hạn chế ảnh hưởng quá mức của ban chấp hành đến đại hội đảng.
Cần xây dựng quy định về chế độ thảo luận
trong đại hội đảng bảo đảm sự thảo luận, tranh luận thật sự trong đại hội đảng,
khắc phục tính hình thức của tham luận tại đại hội.
4- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong thực hiện chế độ ra nghị quyết và chấp hành nghị quyết.
Xây dựng, hoàn thiện quy chế ra quyết định
của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể. Các quy định phải bảo đảm để mọi
cán bộ, đảng viên thực hiện được quyền tham gia quyết định công việc của Đảng;
quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến
trong tổ chức; khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết.
Quy định rõ chế độ lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của
đảng viên và nhân dân, hồi đáp các ý kiến góp ý, các kiến nghị.
Xây dựng, hoàn thiện chế độ thảo
luận, tranh luận trong xây dựng nghị quyết bảo đảm khuyến khích mọi đảng viên
thảo luận dân chủ tất cả mọi vấn đề trong phạm vi chức năng tổ chức đảng của
mình; đồng thời, cấp ủy, tổ chức đảng phải tạo cơ chế để khơi gợi, khuyến khích
được đảng viên dân chủ thảo luận, phát huy cao nhất tính sáng tạo và giá trị
đóng góp của đảng viên. Bảo đảm tất cả ý kiến của đảng viên phải được tôn
trọng, ghi nhận, kể cả có đúng, có sai, dù xuôi chiều hay trái chiều. Không đưa
ra các quy định hạn chế ý kiến góp ý, chất vấn, hay đồng nhất việc có ý kiến
trái chiều với sự mất đoàn kết trong tổ chức đảng.
Chế độ ra quyết định phải bảo đảm việc ban
hành nghị quyết của Đảng đều trên cơ sở được tổ chức thảo luận dân chủ rộng
rãi, lấy ý kiến của các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở lên, lấy ý kiến
góp ý của nhân dân nếu cần, được cân nhắc nhiều mặt, phân tích thấu đáo, nhất
là những vấn đề có ý kiến trái chiều trước khi quyết định. Đối với những vấn đề
mới, khó, phức tạp thì cần được tổ chức hội thảo, tọa đàm để tiến hành thảo
luận, trao đổi kỹ lưỡng, xin ý kiến chuyên gia trước khi quyết định.
5- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong thực hiện quyền và nhiệm vụ của đảng viên.
Cần cụ thể hóa các quy định để thực sự thực
hiện được các quyền của đảng viên về: Quyền được thông tin và thảo luận các vấn
đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng; biểu
quyết công việc của Đảng; quyền ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các
cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương; quyền phê bình, chất
vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức;
báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời;
quyền trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi
hành kỷ luật đối với mình.
6- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong thực hiện thẩm quyền của tổ chức đảng các cấp.
Cần xây dựng, hoàn thiện các quy định về
việc tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình nhưng
không trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và nghị quyết của cấp trên. Điều này sẽ ngăn ngừa được tình trạng vi phạm
thẩm quyền khi ban hành các nghị quyết, dẫn đến việc ban hành các nghị quyết
sai trái của một số tổ chức đảng như trong thời gian vừa qua. Thực hiện có nền
nếp chế độ kiểm tra, giám sát các quyết định của tổ chức đảng các cấp và xử lý
các quyết định trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên
và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
7- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong thực hiện chế độ báo cáo và thông báo hoạt động của cấp ủy.
Quy định rõ về chế độ cấp ủy các cấp báo
cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp; cấp ủy
các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước cấp dưới, bảo
đảm thật sự là một “kênh” kiểm soát quyền lực trong Đảng; chế độ định kỳ thông
báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả, thực chất tự phê bình và phê bình.
8- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công tác cán bộ.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức,
có tài. Cơ chế phát hiện, tuyển chọn phải bảo đảm phát hiện từ cơ sở để lựa
chọn được người có đầy đủ phẩm chất, năng lực, xứng đáng được bầu vào cấp ủy
khóa mới; phát hiện người có tài, đức để tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng
dụng.
Thực hiện nghiêm và hoàn thiện chế độ ràng
buộc trách nhiệm cả về chính trị, tinh thần và kinh tế với người đề cử, tiến cử
trong công tác nhân sự nếu việc đề cử, tiến cử vi phạm các quy định, để chống
tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương, thân quen, “cánh hẩu”, “lợi ích nhóm”;
đồng thời, tránh cách làm giản đơn, tùy tiện, vô nguyên tắc trong công tác cán
bộ. Tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát có nền nếp việc chấp hành nghiêm Quy
định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền
lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Cần tập trung kiểm
tra, giám sát thực hiện quy định về không bố trí những người có quan hệ gia
đình (vợ, chồng; bố, mẹ của vợ hoặc chồng; con, anh chị em ruột) cùng đảm nhiệm
các chức danh có liên quan như: Bí thư, phó bí thư, trưởng ban tổ chức, chủ
nhiệm ủy ban kiểm tra cùng cấp ủy; chủ tịch ủy ban nhân dân và người đứng đầu
cơ quan nội vụ, thanh tra cùng cấp ở một địa phương; thành viên trong cùng ban
cán sự đảng, đảng đoàn; người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu trong cùng
địa phương, cơ quan, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát để phát hiện, xử lý
nghiêm những trường hợp xen ghép ý đồ cá nhân, đề ra tiêu chí, tiêu chuẩn, điều
kiện, nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt, không đúng bản chất, không đúng sự
thật nhằm vụ lợi hoặc có lợi cho nhân sự trong quá trình tham mưu thực hiện quy
trình công tác cán bộ; để vợ, chồng, bố, mẹ, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể,
anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để thao túng, can
thiệp công tác cán bộ. Cần thực hiện ráo riết các biện pháp trọng tâm như trên
để đưa việc chấp hành các quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
đi vào nền nếp, trở thành văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị.
Thường xuyên hoàn thiện cơ chế phát hiện,
thay thế kịp thời những cán bộ kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết điểm
nghiêm trọng, không còn đủ uy tín. Tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát có nền
nếp việc chấp hành Quy định số
41-QĐ/TW, ngày 3-11-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc miễn nhiệm, từ
chức đối với cán bộ”.
9- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công tác tư tưởng.
Xây dựng và hoàn thiện chế độ thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác lý luận theo hướng mở rộng dân chủ
trong nghiên cứu lý luận, thu hút và phát huy trí tuệ của đông đảo các chuyên
gia trên các lĩnh vực cùng tham gia; tạo môi trường cho nghiên cứu dự báo phát
triển. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới, khó phải được tổ chức nghiên cứu
một cách thấu đáo, chuyên sâu, bài bản.
Cần quy chế hóa trách nhiệm và khuyến
khích sự cống hiến của đảng viên làm công tác tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, đồng thời cụ thể hóa các điều cấm đối với đảng viên theo Quy
định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều
đảng viên không được làm” trong nói, viết, tuyên truyền, để tạo thành chế độ
vừa phát huy dân chủ, thúc đẩy sáng tạo, vừa bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật trong
công tác tư tưởng.
10- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong thực hiện chế độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số.
Cần xây dựng quy định về chế độ bảo lưu ý
kiến thuộc về thiểu số, gồm: Trường hợp được bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số;
quy trình và thời gian xử lý bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số; quyền và trách
nhiệm của đảng viên có ý kiến được bảo lưu; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý nghiêm
tình trạng bảo lưu mang tính hình thức; ngăn ngừa sự lợi dụng, lạm dụng quyền
dân chủ của một số đảng viên./.
Nguồn:TCCS
(1) Viện Ngôn ngữ học: Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà
Nẵng, 2003, tr. 214
(2) Xem: C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 737
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét