Dù ở mỗi thời kỳ cách mạng, trong từng nhiệm vụ mang
những tên gọi khác nhau nhưng có thể nói Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam
chính là nơi hội tụ của “ý Đảng, lòng Dân”, là nơi tập hợp các giai cấp, các
tầng lớp trong xã hội để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Ngay
từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định rất rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là đánh
đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa người
dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Ngay từ khi thành lập,
trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta xác định nhiệm vụ của cách mạng đó là: “Đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập...”.
Cần khẳng định, đường lối chiến lược và sách lược của
cách mạng mà Đảng ta xác định là hoàn toàn đúng đắn. Trên cơ sở nền tảng ấy,
trong quá trình lãnh đạo căn cứ vào biến chuyển cụ thể của tình hình từng giai
đoạn, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển cho sát hợp, đáp ứng kịp thời yêu
cầu. Những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng mà Đảng ta xác định đó cũng là khát
vọng cháy bỏng của nhân dân ta - khát vọng được làm chủ đất nước, được sống
trong hòa bình, độc lập, tự do. Sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân” đã trở
thành sợi dây gắn kết cả dân tộc Việt Nam lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng
hợp của cách mạng. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán và đặt
nội dung ấy vào nhiệm vụ trung tâm của cách mạng.
Từ năm 1930 đến 1945, Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ
Chí Minh đã bám sát tình hình thế giới và trong nước, đề ra nhiều chủ trương,
đường lối, giải pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp lãnh đạo toàn dân kết thành
một khối đứng lên đấu tranh giành thắng lợi.
Ngay sau khi thành lập, Đảng ta đã kịp thời lãnh đạo quần
chúng nhân dân đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và phong kiến
bằng cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Mặc dù
chưa thành công và bị thực dân Pháp dìm trong biển máu nhưng cao trào cách mạng
1930-1931 đã khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đây chính là cuộc tổng diễn tập đầu tiên nhằm chuẩn bị thế và lực cho
tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám sau này.
Tình hình thế giới và trong nước sau cuộc tổng diễn
tập lần thứ nhất có những diễn biến mới. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
(tháng 7-1936), Đảng ta xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân
quyền Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp,
trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống
chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng ta xác định thay đổi
chủ trương, hình thức và phương pháp cách mạng, bằng việc kêu gọi các đảng phái
chính trị, các tổ chức quần chúng và nhân dân hành động, đấu tranh thông qua
phong trào dân chủ 1936-1939. Mục tiêu của phong trào dân chủ là đòi tự do, dân
sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình
thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Để tập hợp quần chúng nhân
dân, phát huy được sức mạnh “lòng dân”, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận
Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Bằng sức mạnh đoàn kết và tinh thần đấu
tranh kiên quyết của quần chúng, phong trào dân chủ 1936-1939 đã buộc chính
quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân
chủ. Thông qua phong trào, quần chúng nhân dân được giác ngộ về chính trị, tích
cực tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất và trở thành lực lượng chính trị
hùng hậu của cách mạng… Có thể nói phong trào dân chủ 1936-1939 là cuộc tổng
diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế
giới và trong nước từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 6/11/1939,
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 được triệu tập. Trên cơ sở
phân tích, nhận định tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị đã đề cập tới
việc tận dụng thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và đề ra
đường lối đấu tranh vũ trang nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến,
thành lập chính quyền cách mạng. Với đường lối cách mạng được đề ra tại Hội
nghị Ban Chấp Hành Trung ương Đảng lần thứ 6, cách mạng Việt Nam bước vào một
giai đoạn mới - giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang lật
đổ chính quyền thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và chính quyền về
tay nhân dân.
Đặc biệt, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tình
hình trong nước và những biến động to lớn, mau lẹ của tình hình thế giới, tháng
5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 của Đảng họp dưới sự chủ
trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Nghị quyết Hội nghị đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc
này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được”.
Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, vấn đề đặt
ra là phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng, mọi giai cấp, mọi tầng lớp
trong xã hội vào một mặt trận dân tộc thống nhất. Nhằm giải quyết vấn đề này,
ngày 19/5/1941, Mặt trận Dân tộc thống nhất chống phát-xít Pháp - Nhật lấy tên
là Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh được thành lập. Trong tuyên
bố của mình, Việt Minh đã chỉ rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các
giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không
phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải
phóng và sinh tồn". Việt Minh cũng nhận thấy rõ tinh thần và ý chí cách
mạng của quần chúng nhân dân là rất lớn, nhân dân luôn sẵn lòng hy sinh tài sản
và tính mạng để thực hiện mục tiêu làm chủ đất nước, sống trong hòa bình, độc
lập, tự do.
Bằng những chủ trương đúng đắn, chỉ trong thời gian
ngắn dưới ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong
xã hội đã quy tụ, tập hợp, phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy
tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để
góp phần vào thành công của cách mạng. Có thể nói dưới sự lãnh đạo của Đảng và
ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, tinh thần yêu nước, sức mạnh quật
cường của “lòng Dân” được nhân lên gấp bội. Các đoàn thể cứu quốc như: Công
nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… là
những hình thức được Mặt trận Việt Minh tổ chức và phát triển rộng khắp. Khi
sức mạnh của “ý Đảng, lòng Dân” hội tụ thì tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức cùng các tầng lớp lao
động khác đã thực sự trở thành động lực chủ yếu của cách mạng.
Đầu tháng 8/1945, tình hình thế giới, đặc biệt là
Chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Việt
Nam. Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhìn thấy thời cơ ngàn năm có
một đang đến gần. Trong bối cảnh cùng lúc phải đối phó với nhiều lực lượng quân
sự nước ngoài tràn vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật, Đảng ta nhận thấy nếu
không đón bắt được thời cơ và kịp thời hành động thì cách mạng sẽ khó khăn. Từ
những nhận định, phân tích ấy, chớp thời cơ Đảng ta đã đoàn kết và khơi dậy,
phát huy sức mạnh của “lòng Dân”, phát động Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền
trên toàn quốc. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa
đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét