Đại tướng Phạm Văn Trà từng có một “tuổi thơ dữ dội”. Trong một trận càn năm 1952, cha ông bị Tây bắn gãy chân, chú ông bị bắn chết. Một năm sau, trong trận càn tiếp theo, giặc xông vào nhà, cha ông bị gẫy chân không chạy được, bị chúng xả súng bắn chết tại chỗ. Đang cùng du kích chống càn, ông chạy về đau đớn bế người cha còn ấm nóng trên tay, nuốt nước mắt hứa với cha sẽ vào bộ đội, trả thù nhà, nợ nước. Chính vì thế, mới 17 tuổi, lại “thấp bé nhẹ cân”, ông vẫn khai thêm tuổi, bỏ đá vào quần để xin nhập ngũ. Trong chiến đấu, là người gan dạ, dũng cảm, mưu trí, ông thường xuyên được giao đảm nhiệm vị trí nguy hiểm nhất là ôm bộc    phá đánh hàng rào và lô cốt đầu cầu...

Đại tướng Phạm Văn Trà nổi tiếng là vị tướng dạn dày trận mạc, gan góc, thông minh với những trận đánh bất ngờ, táo bạo đã làm kẻ thù khiếp sợ. Hơn nửa thế kỷ chinh chiến, ông đã trải qua mọi thang bậc, vị trí của người lính, từ những cấp bậc như chiến sĩ liên lạc, tổ trưởng 3 người cho đến cán bộ cấp sư đoàn, quân khu, rồi Tổng tham mưu trưởng, Thứ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Đại tướng Phạm Văn Trà: Vị tướng dạn dày trận mạc
Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Tiểu sử về ông được Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam khái quát, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, từ 1964-1975 chiến đấu ở chiến trường miền Tây Nam Bộ, ông từng giữ các chức vụ từ Tham mưu trưởng Tiểu đoàn đến Trung đoàn trưởng. Từ tháng 12-1975 đến 1977, ông lần lượt giữ các chức vụ Tham mưu trưởng Sư đoàn 4 rồi Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 330, Quân khu 9. Đến tháng 8-1980, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 330, tham chiến tại Campuchia. Tháng 3-1983, ông đảm nhiệm chức Phó Tư lệnh Mặt trận 979. Từ năm 1985-1988, ông giữ chức vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 9. Tháng 6-1988, ông được điều về giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 3. Từ 1989-1993, ông là Tư lệnh Quân khu 3. Tháng 12-1993, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐND VN). Từ tháng 12-1995, ông là Tổng tham mưu trưởng,Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Đến tháng 12-1997, ông được phân công giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay tướng Đoàn Khuê nghỉ hưu.

Ông là một người cộng sản kiên trung, một vị tướng tài năng, luôn nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tuyệt đối trung thành và đi theo con đường của Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Tài thao lược của ông đã được bộc lộ từ những trận chiến đấu “vỡ lòng” trên quê hương Kinh Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến những năm tháng bám trụ ở chiến trường miền Tây Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tiếp đó là gần 10 năm cùng lực lượng vũ trang Quân khu 9 làm nghĩa vụ quốc tế trên đất nước Chùa Tháp, góp phần giải cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt vong Khmer Đỏ...

Với những công lao và thành tích xuất sắc đó, ông được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam (1976); Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công (hạng Nhì, hạng Ba)...

ĐOÀN TRUNG (Tổng hợp)