Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tháo gỡ và phá bom từ trường tại Quảng Bình và Hà Tĩnh, đoàn công tác đặc biệt của Hoàng Kim Giao được lệnh đưa những chiến lợi phẩm đã thu được của địch (gồm “Cây nhiệt đới” và các loại đầu điều khiển nổ của bom từ trường mang ký hiệu MK42, đã được các chuyên gia vũ khí Mỹ cải tiến liên tục từ “modem 0” tới “modem 3”) cùng khí tài trang bị trên xe chuyên dụng ra Hà Nội báo cáo kết quả. Ngày 29-12-1968, đoàn dừng chân xin nghỉ nhờ tại xã Nam Hưng (Nam Đàn, Nghệ An).
Biết đây là đoàn chuyên gia phá bom từ trường trên đường về Hà Nội, địa phương đã đón tiếp rất nồng hậu. Đây cũng là thời điểm Mỹ vừa tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, chính quyền xã đã đề nghị đoàn giúp đỡ phá một số quả bom chưa nổ còn nằm lại địa phương, để bà con nhân dân yên tâm sản xuất. Hoàng Kim Giao đã nhận lời, động viên anh em trong đoàn, coi đó là một nhiệm vụ đột xuất...
Sau nhiều ngày phải ăn đồ dã chiến và lương khô, rồi ngủ ngồi trong xe, các chiến sĩ đã được ăn cơm nóng có rau xanh và ngủ nhờ trong nhà dân. Tối ấy, Hoàng Kim Giao cùng chiến sĩ Lương Ngọc Tước mắc võng chụm đầu bên cạnh xe đặc chủng.
Đã mấy chục năm trôi qua, nhưng anh Tước vẫn nhớ như in cái đêm cuối cùng ấy: Như có điềm lạ báo trước, anh Giao hầu như không ngủ, mà thức nói chuyện suốt đêm.
Cứ mỗi lúc thấy Tước im lặng, anh Giao lại hỏi:
- Mày ngủ rồi hả em? Ngủ gì mà sớm thế!
Dù rất mệt và hai mắt muốn nhím lại, nhưng Tước vẫn phải nói:
- Em chưa ngủ đâu! Anh cứ nói chuyện đi!
Hoàng Kim Giao đã nói rất nhiều chuyện: Về tình yêu, hạnh phúc gia đình, về những dự định cho tương lai khi đất nước hoà bình... Anh còn bảo:
- Hồi chiều, khi đi khảo sát địa hình chuẩn bị cho trận đánh ngày mai, anh đã phát hiện ra rất nhiều hài cốt bên cạnh một hố bom. (Có lẽ bom Mỹ đã thả trúng mấy ngôi mộ của các liệt sĩ thanh niên xung phong?) Không hiểu sao anh cứ thấy rờn rợn, bất an và linh cảm một điều gì đó không bình thường vào ngày mai...
Mãi gần sáng, Tước mới thiếp đi. Khi tỉnh dậy, đã thấy anh Giao đang chuẩn bị bộc phá và giây cháy chậm cho trận đánh.
Đã hàng trăm lần cùng nhau tháo gỡ bom từ trường, nhưng chưa lần nào anh Giao dặn dò đồngg đội lại tỷ mỉ và xúc động đến thế. Không ai bảo ai, nhưng tất cả đều hiểu rằng, mỗi lần vào trận đánh là mỗi lần họ phải trực tiếp đối mặt với tử thần, sự sống và cái chết chỉ trong tích tắc. Bởi loại bom từ trường này khi đã rời khỏi máy bay đều có chế độ tự huỷ. (Nếu không bị kích nổ bởi từ trường, thì chúng sẽ tự nổ không theo một quy luật nào). Và sự hy sinh của các chiến sĩ tháo bom cũng là điều dễ hiểu.
Đồng hồ chỉ đúng 7 giờ 30 phút, cả đoàn chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm 3 người bắt đầu xuất phát. Họ chỉ mặc đồ lót, trên người không có một mảnh nhỏ kim loại. Đó là nguyên tắc sống còn khi tiếp xúc với vũ khí giết người này. Theo kế hoạch, 2 nhóm sẽ cùng vào trận để tháo ngòi nổ của 2 quả bom từ trường nằm cách nhau khoảng 700 mét.
Nhóm thứ nhất do anh Giao trực tiếp phụ trách có hai chiến sĩ là Phạm Văn Cư và Lương Văn Tín sẽ tháo ngòi nổ của một quả bom từ trường nằm trên sườn đồi Khe Diêm, sát quốc lộ 15.
Quả bom cỡ lớn, chứa gần 300 kg thuốc nổ cực mạnh này, nằm xuyên sâu vào lòng đất, chỉ còn hở mỗi phần đuôi. Muốn tháo nó, các chiến sĩ phải sử dụng những gói bộc phá loại nhỏ, nặng chừng 2 lạng (nếu bộc phá lớn hơn, bom sẽ nổ theo), đánh bộc đất đá xung quanh. Đánh xong mỗi quả, lại phải dùng tay không để bới đất đá... cho tới khi nào lộ cái “phích” trung gian nối giữa đầu điều khiển và đầu nổ, rồi tháo “phích” để vô hiệu hóa chúng. Chỉ cần một sơ xuất rất nhỏ, cũng có thể làm cho bom phát nổ, hậu quả thật khôn lường...
Chuẩn bị đánh bộc phá, anh Giao nói với Cư:
- Hôm nay để anh trực tiếp thao tác, vì anh có kinh nghiệm, nên sẽ yên tâm hơn. Chú xuống cảnh giới cùng với thằng Tín đi!
Cư không chịu, bảo:
- Anh là kỹ sư, trưởng đoàn, còn em chỉ là chiến sĩ... Nếu cần phải hy sinh thì nên “thí tốt”, chứ đừng “bỏ xe”.
Anh Giao mắng át đi:
- Nói bậy nào! Tính mạng con người ai chả như nhau. Nhưng anh chưa có con cái vướng bận gì. Mà nghe nói vợ chú vừa đẻ con trai phải không? Chú xuống đi, để sau này cháu còn được nhìn mặt bố. Anh ra lệnh đó, không bàn cãi nữa, xuống mau!
Đợi cho Cư xuống tới vị trí an toàn. Anh Giao cho nổ bộc phá đầu tiên, rồi một mình hì hục bới đất xung quanh thân bom. 3 quả bộc phá đã đánh xong, bới hết đất mà cái phích trung gian vẫn chưa hiện ra. Tới khi anh Giao gọi mang quả bộc phá thứ 4 lên, thì Lương Văn Tín bảo với Cư:
- Em đã theo các anh đi đánh bom mấy tháng rồi, mà chưa được trực tiếp trận nào. Anh cho em mang bộc phá và dây cháy chậm lên cho anh Giao, rồi ngó xem “mặt mũi thần chết” nó như thế nào, sau này hòa bình rồi, về quê còn có chuyện mà kể với bạn bè chứ!
Tín là lái xe của Bộ Tư lệnh 500 đi phối thuộc, (không thuộc quân số của Viện Kỹ thuật quân sự), nhập ngũ chưa lâu, mới qua tuổi 18, người cao to, trắng trẻo, rất đẹp trai, quê ở An Dục, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Thấy Tín nằn nì mãi, nể quá nên Cư gật đầu đồng ý.
Cư hồi hộp nhìn theo cái dáng hớn hở của Tín cầm gói bộc phá lúi húi chạy lên sườn đồi, khuất sau mấy bụi sim mua, đoán chừng đã tới vị trí của quả bom... Bỗng, một chớp lửa nhoàng lên, rồi tiếng nổ rung đất, bầu trời như tối sầm bởi khói, bụi và đất đá rơi rào rào. Cư bị sức ép hất ngã, hai tai ù đặc.
Anh bật dậy, vừa chạy ngược lên đồi, vừa gào trong nước mắt:
- Anh Giao ơi! Tín ơi!...
Trước mắt Cư, chỉ còn là một cái hố bom rộng và sâu hoắm...
*
Tại tổ phá bom thứ hai, sau khi nghe một tiếng nổ lớn từ phía đồng đội, khói bụi chưa tan hết, lại nghe tiếp 4 tiếng súng nữa (báo hiệu tử vong), ba anh em: Tước, Kiệt và Thái vội bỏ dở công việc cùng chạy lại.
- Anh Giao và thằng Tín hy sinh cả rồi! – Thấy Cư mặt mũi lem luốc, vừa khóc vừa nói, tất cả đều không cầm được nước mắt.
Buổi trưa hôm đó, theo đề nghị của 4 anh em còn lại trong đoàn công tác đặc biệt, chính quyền xã Nam Hưng đã cử khoảng 20 dân quân lên khu vực bom nổ, làm nhiệm vụ thu gom thi thể cho 2 liệt sĩ. Họ phải vạch từng bụi sim mua, nhẹ nhàng và tỉ mỉ lật từng cục đất mới... nhưng cố gắng hết mức cũng chỉ tìm lại được chừng một kilôgam thi thể...
Không thể phân định được đâu là của Hoàng Kim Giao, đâu là của Lương Văn Tín, họ đành chia đều thành hai gói nhỏ, đặt vào 2 chiếc quan tài. Theo phong tục địa phương, để linh hồn hai anh có đủ xương cốt, hình hài cho siêu thoát, người ta đã đẽo 2 củ chuối thay đầu người và cho thêm vào quan tài những con cá nhỏ...
Đám tang của 2 liệt sĩ Hoàng Kim Giao và Lương Văn Tín được dân quân đốt đuốc, tổ chức vào lúc gần nửa đêm. 2 ngôi mộ cùng nằm trên một đồi cao lộng gió. Cả xã Nam Hưng đều rơi nước mắt. Hội mẹ chiến sĩ của xã đã cử một người chuyên chăm sóc mộ và hương khói cho các anh trong những ngày giỗ và Tết.
Gần 30 năm sau ngày nhà khoa học trẻ Hoàng Kim Giao hy sinh, công trình “Phá thuỷ lôi từ tính và bom từ trường, bảo đảm giao thông 1967 – 1972”, đã được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996). Đây là giải thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta tặng cho các tập thể, cá nhân có công trình, hoặc cụm tác phẩm xuất sắc nhất; các công trình, cụm tác phẩm đó phải có ảnh hưởng to lớn, tích cực tới đời sống văn hóa xã hội, hoặc an ninh, quốc phòng...
Hầu hết các tác giả vinh dự được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đều là những người cao tuổi, những văn nghệ sĩ, trí thức lão thành... Và liệt sĩ Hoàng Kim Giao có lẽ là một trong những người trẻ tuổi nhất Việt Nam được vinh dự là đồng tác giả của công trình được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Ảnh: Chân dung Anh hùng Liệt sĩ Hoàng Kim Giao trước khi hy sinh năm 1968
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét