Đổi mới mô hình tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo tinh thần Đại hội XIII của
Đảng
(LLCT) - Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta không ngừng được đổi mới. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương, các địa phương có nhiều quyền tự chủ và không gian chính sách để thực hiện các mục tiêu phát triển của mình. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế. Bài viết phân tích, đánh giá về thực trạng và đề xuất một số giải pháp để tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi trọng việc
xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy và hiệu quả hoạt động của chính quyền địa
phương. Trong điều kiện đất nước có chiến tranh, chính quyền địa phương được tổ
chức và hoạt động theo cơ chế chỉ huy tập trung. Đại hội VI của Đảng đã đề ra
đường lối đổi mới đất nước. Đại hội chủ trương thực hiện phân cấp quản lý
giữa Trung ương và địa phương với nguyên tắc có tính nền tảng là: “Việc phân
cấp quản lý phải bảo đảm quyền làm chủ của ba cấp: quyền quyết định của trung
ương (bao gồm cả các ngành trung ương) đối với những lĩnh vực then chốt, những
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, bảo đảm cho sự phát triển cân đối của toàn bộ nền
kinh tế; quyền chủ động của các địa phương trong việc thực hiện trách nhiệm
quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ; quyền tự chủ sản xuất - kinh
doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và vai trò làm chủ của các tập thể lao động.
Trong sự phân công, phân cấp quản lý, trách nhiệm phải đi đôi với quyền hạn,
nghĩa vụ gắn liền với lợi ích”(1).
Trải qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển, mô hình tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương (CQĐP) không ngừng được xây dựng và phát triển. Tuy
nhiên, vẫn còn một số vấn đề đặt ra đòi hỏi phải tiếp tục được đổi mới. Do đó,
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính
quyền địa phương”(2) và “đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền”(3).
1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Về mô hình tổ chức, trước đổi mới năm 1986, mô hình CQĐP ở nước ta được tổ
chức theo một mô hình đồng nhất, chưa có sự phân biệt giữa chính quyền ở nông
thôn và chính quyền ở đô thị. Kể từ khi đổi mới đất nước đến nay, mô hình tổ
chức và hoạt động của CQĐP ở nước ta đã có nhiều bước cải cách và phát triển
trên cả hai phương diện pháp lý và thực tiễn. Năm 2013, Quốc hội thông qua Hiến
pháp, trong đó quy định về CQĐP phù hợp với nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 111 của Hiến pháp năm
2013 xác định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Trên cơ sở hiến định của Hiến pháp
năm 2013, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 đã xác định rõ về chính quyền địa phương ở
nông thôn, đô thị, hải đảo. Như vậy, theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức
CQĐP năm 2015, mô hình CQĐP được đa dạng hóa, phù hợp với đặc điểm tự nhiên,
kinh tế - xã hội ở các đơn vị hành chính; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, đặc trưng của các đơn vị hành chính này.
Thực tiễn xây dựng CQĐP, đặc biệt là chính quyền đô thị đã tiếp tục đặt ra
yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐP. Do đó, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP
năm 2019 ra đời đã sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Theo đó,
Điều 4 của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 được sửa đổi như sau: “Chính quyền địa
phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt” (khoản 1 Điều 2); Luật này
cũng sửa đổi, bổ sung Điều 44 của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 thành: “Chính
quyền địa phương ở quận là cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể
Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương” (khoản 14 Điều 2);
Điều 58 của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 được sửa đổi, bổ sung thành: “Chính
quyền địa phương ở phường là cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể
Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương” (khoản 17 Điều 2).
Sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và
Luật Tổ chức CQĐP năm 2019 đã bổ sung và hoàn thiện cơ sở pháp lý về mô hình
chính quyền đô thị.
Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý về đổi mới mô hình tổ
chức CQĐP, Quốc hội cũng triển khai một số thí điểm để làm căn cứ đổi mới mô
hình tổ chức CQĐP ở nước ta. Cụ thể, trong giai đoạn 2009-2016, Quốc hội đã
tiến hành thí điểm đề án không tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) quận, huyện,
phường ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước theo Nghị quyết số 26/2008/QH12.
Nội dung cơ bản của đề án là duy trì HĐND ở CQĐP các đơn vị hành chính cơ
bản như tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, xã, thị xã và thị trấn, còn các
đơn vị hành chính trung gian như quận, huyện, phường thì không cần tổ chức HĐND
mà chỉ cần thành lập UBND hoặc có thể không có UBND mà chỉ có bộ phận làm việc
như “cánh tay nối dài” của chính quyền cấp trên. Các quận, huyện, phường tham
gia thí điểm được quy định trong Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội gồm có 67 huyện, 32 quận và 438 xã của 10 tỉnh, thành phố trên
cả nước, trong đó có Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian thực hiện thí
điểm từ năm 2009 và kéo dài trong hơn 6 năm. Đồng thời, Chính phủ và các bộ,
ngành có liên quan cùng các địa phương tham gia thí điểm đã ban hành các văn
bản quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện và chuẩn bị các điều kiện cần thiết
khác để đề án thí điểm được triển khai có hiệu quả. Kết quả thí điểm của đề án
là căn cứ thực tiễn để Đảng và Nhà nước tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các
chính sách đổi mới CQĐP theo hướng đa dạng hóa về mô hình tổ chức, xây dựng bộ
máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Từ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, Quốc hội khóa XIV ban
hành các Nghị quyết về tổ chức thí điểm mô hình chính quyền đô thị ở Hà Nội, Đà
Nẵng và xây dựng chính quyền đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, ngày
27-11-2019, Quốc hội đã thông qua nghị quyết số 97/2019/QH14 về thí điểm mô
hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội (gọi tắt là Nghị quyết số
97/2019/QH14). Theo Nghị quyết, mô hình chính quyền đô thị ở Thành phố Hà Nội
sẽ bao gồm: CQĐP ở thành phố, huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn là cấp CQĐP đầy
đủ, gồm HĐND và UBND (nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện theo quy định của Luật Tổ
chức CQĐP, quy định khác của pháp luật có liên quan và các nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể tại Nghị quyết số 97/2019/QH14); CQĐP ở phường thuộc quận, thị xã là
UBND phường (nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và chế độ làm việc thực hiện
theo quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị quyết số 97/2019/QH14). Thời gian thực
hiện kể từ ngày 1-7-2021 đến khi Quốc hội có quyết định chấm dứt việc thí điểm
này.
Đối với thành phố Đà Nẵng, ngày 19-6-2020, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết
số 119/2020/QH14 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ
chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng (gọi tắt là Nghị quyết số
119/2020/QH14). Theo Nghị quyết, CQĐP ở thành phố Đà Nẵng, huyện Hòa Vang và
các xã là cấp CQĐP đầy đủ, gồm có HĐND và UBND; CQĐP ở các quận và phường thuộc
quận tại thành phố là UBND quận, UBND phường. Thời gian thí điểm bắt đầu từ
ngày 1-7-2021 đến khi Quốc hội có quyết định chấm dứt việc thí điểm.
Ngày 16-11-2020, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 131/2020/QH14 về tổ chức
chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. Theo Nghị quyết, CQĐP ở
Thành phố Hồ Chí Minh là cấp chính quyền đầy đủ, gồm HĐND thành phố và UBND
thành phố; CQĐP ở các quận là UBND quận (thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của Nghị quyết này và theo phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND
thành phố); CQĐP ở các phường thuộc quận là UBND phường (thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết này và theo phân cấp, ủy quyền của
UBND, Chủ tịch UBND thành phố, UBND quận); CQĐP ở các đơn vị hành chính khác
của Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức CQĐP.
Thành phố là một trong những đơn vị đã tham gia thí điểm không tổ chức HĐND quận,
huyện, phường trên diện rộng, với số lượng đơn vị hành chính thí điểm nhiều
nhất cả nước (24 quận, huyện và 259 phường). Vì vậy, việc tổ chức chính quyền
đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có đầy đủ cơ sở pháp lý và đã được thực tiễn
kiểm nghiệm.
Cùng với đẩy mạnh cải cách về tổ chức bộ máy, CQĐP cũng được trao nhiều
thẩm quyền hơn trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình. Chủ trương phân cấp, phân quyền đối với CQĐP được đề ra từ Đại hội VI của
Đảng và được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ và
Luật Tổ chức CQĐP năm 2019, các luật chuyên ngành, các nghị quyết của Quốc hội
và Chính phủ. Các chính sách phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh đối với chính
quyền cấp tỉnh, trên các lĩnh vực cơ bản như hành chính, tổ chức bộ máy, nhân
sự. Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP và tiếp đó là Nghị quyết số 21/2016/NQ-CP của
Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. Gần đây, Quốc hội tiếp tục gia tăng quyền tự chủ đối với một
số tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương bằng các cơ chế, chính sách đặc thù.
Ba địa phương được Trung ương áp dụng thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù
là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Cụ thể:
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở xem xét đề xuất của Thành phố,
ngày 24-11-2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 54/2017/QH14 về
thí điểm cơ chế, chính sách phát triển đặc thù cho Thành phố Hồ Chí Minh (gọi
tắt là Nghị quyết số 54/2017/QH14) trao cho chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh
nhiều quyền hạn hơn so với quy định của các luật chuyên ngành. Với 18 nội dung
thuộc 5 lĩnh vực như quản lý đất đai, quản lý đầu tư, quản lý tài chính - ngân
sách, cơ chế phân cấp ủy quyền và chế độ chính sách cho cán bộ, công chức, viên
chức.
Đối với thành phố Đà Nẵng, sau quá trình thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW,
Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về xây dựng và phát triển
thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Với nghị quyết này, Bộ
Chính trị đã đồng ý với quan điểm “cần có cơ chế, chính sách đặc thù để xây
dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng, tạo động lực cho phát triển khu vực miền
Trung - Tây Nguyên và cả nước...”. Chủ trương của Bộ Chính trị đã được thể chế
hóa bằng Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình
chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà
Nẵng. Cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng tập trung trên
các lĩnh vực quy hoạch đô thị, quản lý tài chính - ngân sách, tăng thẩm quyền
cho HĐND thành phố trong việc quyết định một số lĩnh vực mà trước đây vốn thuộc
thẩm quyền của Chính phủ.
Đối với Thành phố Hà Nội, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 115/2020/QH14 thí
điểm áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù về quản lý thu, chi ngân sách
nhà nước, mức dư nợ vay và sử dụng Quỹ dự trữ tài chính, gia tăng thẩm quyền
đối với HĐND Thành phố trong việc quyết định một số vấn đề chính sách phát
triển của địa phương.
Bên cạnh các đô thị lớn được Trung ương áp dụng thí điểm các cơ chế, chính sách
đặc thù, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV, Quốc hội tiếp tục thông qua một số
cơ chế, chính sách đặc thù đối với 4 địa phương là Hải Phòng, Nghệ An, Thanh
Hóa và Thừa Thiên Huế.
Các cơ chế, chính sách đặc thù được áp dụng cho 7 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương là những thí điểm bước đầu nhằm bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của CQĐP trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền, phân
cấp đã được quy định trong Luật Tổ chức CQĐP. Kết quả thí điểm này sẽ là cơ sở
để Trung ương tiếp tục hoàn thiện thể chế phân cấp, phân quyền theo hướng bảo
đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các địa phương.
Thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP đã mang lại nhiều kết quả
tích cực. CQĐP được đổi mới theo hướng đa dạng hóa về mô hình tổ chức, phù hợp
với tính chất đơn vị hành chính. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp huyện, cấp xã
được sắp xếp tinh gọn hơn nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Chính sách phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh đã mang lại cho CQĐP nhiều quyền tự
chủ và không gian chính sách để phát triển.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mô hình tổ chức và hoạt động của CQĐP
ở nước ta còn nhiều hạn chế. Kể từ khi đổi mới đến nay, nước ta đã nhiều lần
thực hiện sáp nhập, chia tách các đơn vị hành chính dẫn đến sự biến động liên
tục về số lượng, đặc biệt là các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Năm 1986, cả nước
có 45 tỉnh, thành phố và hiện nay, đã tăng lên 63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương(4). Vấn đề đơn vị hành chính chưa được làm rõ cả về lý
luận và thực tiễn đã dẫn đến sự lúng túng của Trung ương trong việc lựa chọn mô
hình tổ chức CQĐP. “Do không xác định đúng các đơn vị hành chính nên chúng ta
không giải quyết được vấn đề tổ chức mấy cấp chính quyền ở tỉnh, mấy cấp chính
quyền ở thành phố, cấp nào có hội đồng nhân dân, còn cấp nào chỉ có ủy ban nhân
dân”(5).
Về mức độ tự chủ của chính quyền địa phương, việc xây dựng và hoàn thiện
thể chế về phân cấp, phân quyền là những nỗ lực của Trung ương nhằm tăng quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, với cách
tiếp cận về nguyên tắc và cơ chế phân cấp như hiện nay, mức độ tự chủ vẫn chưa
đạt được. Các địa phương vẫn còn thiếu nguồn lực và các điều kiện để tự chủ. Do
đó, nhiều địa phương chưa có năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quá
trình quản lý, điều hành các công việc của địa phương.
Về mô hình chính quyền đô thị, mặc dù đã được triển khai ở một số địa
phương, song mới đang ở giai đoạn bắt đầu, sẽ còn rất nhiều bước phải thực hiện
để có thể xây dựng và vận hành được tổ chức bộ máy trong thực tiễn.
Ngoài ra, việc nghiên cứu, xây dựng thể chế ở các đơn vị hành chính - kinh
tế đặc biệt là vấn đề mới, cần sự nỗ lực và đồng thuận rất lớn giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
Đánh giá về những hạn chế của CQĐP ở nước ta hiện nay, Đại hội XIII của
Đảng đã nêu rõ: “Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số nơi
chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ
ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế”(6). Do đó, Đại hội
chủ trương tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của CQĐP.
2. Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Từ những thành công và hạn chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế
về tổ chức và hoạt động của CQĐP, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định:
“Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực
hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các
mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả”(7).
Về phân cấp, phân quyền, Đại hội chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân
quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ
trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương”; “Đổi mới phân cấp ngân
sách nhà nước, phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách theo
hướng tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, đồng thời bảo đảm
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, khuyến khích và thúc đẩy sáng tạo của chính
quyền địa phương”(8).
Để tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng, trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu và thực hiện
một số giải pháp sau đây:
Một là, tổ chức và phân chia hợp lý các đơn vị hành chính và đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức
Để tiếp tục đổi mới về mô hình tổ chức CQĐP, trước hết, cần tổ chức lại các
đơn vị hành chính một cách hợp lý. Việc xác định đơn vị hành chính nông thôn,
đô thị hay hải đảo sẽ là cơ sở để xác định những nhu cầu phát triển thể chế
pháp lý phù hợp với tính chất đơn vị đó. Đây là cơ sở để đa dạng hóa mô hình tổ
chức và hoạt động của CQĐP phù hợp với đơn vị hành chính đang được Đảng và Nhà
nước đẩy mạnh trong thời gian qua. Bên cạnh đó, cần tổ chức lại các đơn vị hành
chính theo hướng giảm số lượng các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Hiện nay nước ta
có 63 tỉnh, thành phố với quy mô diện tích và dân số nhỏ hơn so với các tỉnh
thành phố các nước trong khu vực và trên thế giới(9). Do đó, cần
nghiên cứu và tiến hành tổ chức lại các đơn vị hành chính theo hướng giảm số
lượng các đầu mối bằng phương án sáp nhập tỉnh, tiến tới nghiên cứu mô hình
quản lý cấp vùng như đề xuất của một số đại biểu Quốc hội và Bộ Nội vụ hiện nay(10).
Việc xây dựng CQĐP cấp vùng là cần thiết nhằm tạo ra khả năng liên kết,
phối hợp giữa CQĐP các tỉnh; tập trung các nguồn lực đầu tư, phát triển cho cả
vùng, hạn chế việc đầu tư, phát triển dàn trải ở mỗi tỉnh; xóa bỏ sự cạnh tranh
không lành mạnh và các xung đột về lợi ích cục bộ giữa các tỉnh; phát huy vai
trò của liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội; giảm số lượng các đầu
mối, qua đó giảm gánh nặng điều hành của Chính phủ đối với các đơn vị hành
chính cấp tỉnh, tránh sự phân mảnh về thể chế và bảo đảm các mục tiêu phát
triển dài hạn của quốc gia.
Cùng với việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính các cấp, Trung ương cần
nghiên cứu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Đối với đội ngũ
cán bộ các cấp hiện có, khi tiến hành sắp xếp lại về tổ chức, bộ máy phải đồng
thời nghiên cứu phương án sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức cho phù hợp với
vị trí việc làm, chế độ đãi ngộ. Đồng thời, cần tổ chức bồi dưỡng, nâng cao
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu từ vị trí việc làm mới. Cần có
chính sách thu hút, đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ có đủ đức, đủ tài để tạo mối
quan hệ gắn bó giữa nhân viên với tổ chức, phát huy năng lực phục vụ của cán
bộ, công chức trong bộ máy chính quyền các cấp. Hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu
hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có
triển vọng và đặc biệt phải chú trọng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện
đội ngũ cán bộ kế cận.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về chính quyền địa phương, đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế pháp lý về CQĐP trên cơ sở phân
định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP, phân định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn giữa chính quyền Trung ương và CQĐP. Trong cơ cấu CQĐP ở nước ta,
CQĐP cấp tỉnh là cấp cao nhất, có địa vị pháp lý quan trọng, có thẩm quyền và
chịu trách nhiệm chính đối với sự phát triển của địa phương. Do đó, cần hoàn
thiện thể chế chính quyền cấp tỉnh theo hướng tăng cường trao quyền và các
nguồn lực, điều kiện đi kèm để cấp chính quyền này có đủ công cụ và thẩm quyền
trong quản lý, điều hành các công việc của địa phương, bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả quản lý kinh tế - xã hội và kỷ luật, kỷ cương nhà nước trên địa bàn.
Về nguyên tắc phân cấp, phân quyền, cần nghiên cứu và áp dụng theo phương
châm: việc nào, cấp nào thực hiện có hiệu quả hơn thì giao cho cấp đó; đối với
những công việc sự vụ thì cần thực hiện theo nguyên tắc những gì cấp dưới không
làm được thì cấp trên mới phải làm; phân cấp, phân quyền phải rõ thẩm quyền,
trách nhiệm và mỗi việc chỉ do một cấp thực hiện, gắn với chức năng, nhiệm vụ
của mỗi cấp, đồng thời phải bảo đảm các điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực
và các điều kiện cần thiết khác để thực hiện.
Đối với những nhiệm vụ đã được phân cấp, chính quyền cấp đó phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm về các quyết định của mình; chính quyền cấp trên tăng cường
kiểm tra, giám sát nhưng không can thiệp, làm thay cấp dưới.
Ba là, tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của CQĐP phù hợp với
tính chất của các đơn vị hành chính - lãnh thổ
Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp lý về CQĐP nhằm đáp ứng
yêu cầu tiếp tục đổi mới CQĐP các cấp. Trước hết, về mô hình chính quyền đô thị
đang được thí điểm ở Hà Nội, Đà Nẵng và triển khai ở Thành phố Hồ Chí Minh,
Quốc hội và CQĐP ở các thành phố này cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện về thể
chế và tổ chức bộ máy, hoàn thành việc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức
cho phù hợp với những vị trí việc làm mới. Chú trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, đặc biệt là về quy hoạch phát triển đô thị,
quản lý phát triển hạ tầng, môi trường đô thị và vấn đề ứng phó với biến đổi
khí hậu; quản lý xây dựng đô thị, thiết kế đô thị và bảo tồn di sản đô thị,
quản lý đất đai, nhà ở và thị trường bất động sản, vốn đầu tư xây dựng đô thị,
chính sách và giải pháp về vốn cho xây dựng phát triển đô thị.
Đẩy mạnh xây dựng thành phố thông minh, hiện đại; tăng cường các cơ chế
giám sát của người dân đối với hoạt động của chính quyền đô thị. Đối với các
thành phố đang thực hiện thí điểm, cần có những tổng kết, rút kinh nghiệm kịp
thời để điều chỉnh trước khi chính thức tổ chức mô hình CQĐP. Tăng cường phân
quyền, phân cấp cho chính quyền đô thị, bảo đảm quyền tự chủ trong các lĩnh vực
từ ngân sách, tài chính, tổ chức bộ máy, quản lý dân cư, bảo vệ môi trường.
Đối với các đô thị lớn hoặc khu vực lõi đã được phát triển hoàn thiện thì
cần hoàn thiện tổ chức bộ máy và tăng cường trao quyền rộng rãi hơn để đô thị
có khả năng tự quyết những lĩnh vực như quy hoạch, hạ tầng và đất đai; các đô
thị quy mô nhỏ, tổ chức bộ máy tinh gọn và được giao tự chủ các vấn đề thấp
hơn.
Đối với các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, chính quyền Trung ương
cần đẩy mạnh việc tiếp tục nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý và cơ sở thực
tiễn, tham khảo kinh nghiệm của thế giới, lấy ý kiến của các nhà khoa học, các
chuyên gia, ý kiến rộng rãi trong nhân dân để sớm hoàn thiện thể chế về mô hình
CQĐP phù hợp với đặc thù của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Bốn là, tăng cường xây dựng chính quyền điện tử
Xây dựng chính quyền điện tử là một trong những giải pháp quan trọng trong
cải cách hành chính với mục tiêu là nâng cao mức độ hài lòng của người dân, cải
tiến hiệu quả và minh bạch hoạt động chính quyền; bảo đảm tính công bằng, chuẩn
mực, hiệu quả, tiết kiệm trong quản lý nhà nước. Do đó, xây dựng chính quyền
điện tử là một xu thế quản trị quốc gia ở các nước trên thế giới hiện nay.
Ở nước ta, ngay từ những năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến xu
hướng xây dựng chính phủ điện tử và cho đến nay, theo đánh giá của Liên hợp
quốc, “Việt Nam đã có sự tăng hạng về chính phủ điện tử liên tục trong 06 năm
qua (từ vị trí thứ 99 năm 2014 lên vị trí thứ 86 trong năm 2020)”(11).
Do đó, xây dựng chính phủ điện tử là một nội dung quan trọng được đề cập trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030: “Đẩy mạnh xây dựng
chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng
số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng
bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ
sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh
nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã
hội và đời sống nhân dân”(12).
Để xây dựng thành công chính quyền điện tử cần tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin và sử dụng công nghệ thông minh, kết nối và vận hành thông suốt
các phần mềm quản lý tác nghiệp để từng bước mở rộng việc cung cấp các loại
hình dịch vụ công. Chủ động rà soát, bổ sung kịp thời các quy định để hoàn
thiện cơ sở pháp lý và đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
nhà nước và cung ứng dịch vụ công như quy định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ
liệu; định danh và xác thực điện tử cho cá nhân, tổ chức. Tăng cường giải quyết
thủ tục hành chính bằng môi trường điện tử, dần dần chuyển từ hình thức làm
việc bàn giấy sang điều hành, xử lý công việc trên môi trường điện tử. Nâng cao
tỷ lệ và mức độ hiệu quả của việc tiếp nhận, xử lý thủ tục hành chính dịch vụ
công, đẩy mạnh cải cách hành chính, công khai, minh bạch, chống tham nhũng;
nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Tích cực tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn người dân và doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ công trực tuyến và giao tiếp với cơ quan nhà nước tại địa phương
thông qua hệ thống chính quyền điện tử. Tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng kỹ
thuật, các nền tảng dùng chung, cơ sở dữ liệu của các ngành để xây dựng chính
quyền điện tử. Bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
chính quyền các cấp, đáp ứng yêu cầu triển khai chính quyền điện tử tại các địa
phương.
NguỒN:
ThS HOÀNG THỊ THẢO
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét