Năm 2022, Việt Nam có 142.779 người đi lao động ở nước ngoài theo đường chính ngạch, gửi về nước 4 tỉ USD. Còn Phillipines có 1.2 triệu người đi lao động ở nước ngoài và gửi về 32.5 tỉ USD, xấp xỉ 10% tổng sản lượng kinh tế!
Xuất khẩu lao động không chỉ mang lại lợi ích cho kinh tế vĩ mô mà còn là cơ hội đổi đời cho nhiều lao động trẻ, được trải nghiệm môi trường làm việc đa dạng ở nước ngoài và tích lũy một khoản tiền tiết kiệm đáng kể sau những năm tháng làm việc vất vả. Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách kỳ vọng rằng lao động xuất khẩu hồi hương sẽ mang lại những kỹ năng và kinh nghiệm quý giá, gia nhập vào lực lượng lao động đang rất cần nhân sự có tay nghề cao.
Hơn nữa, xuất khẩu lao động cũng có một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trong hai lần nâng cấp ngoại giao lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc (2022) và Nhật Bản (2023), xuất khẩu lao động là chủ đề được các bên hết sức quan tâm. Lao động Việt Nam gần đây đã thay thế lao động Trung Quốc để trở thành nhóm lao động nước ngoài lớn nhất ở cả Nhật Bản và Hàn Quốc (trừ người Hàn Quốc có quốc tịch Trung Quốc), với số lượng lần lượt là 512.000 và 113.000 người.
Xuất khẩu lao động, mặc dù mang lại nhiều tác động tích cực, nhưng nên được tiếp cận như một đòn bẩy tạm thời thay vì là động năng tăng trưởng lâu dài.
Vì lý do đó, Chính phủ coi trọng xuất khẩu lao động và từ lâu nhìn nhận đây là giải pháp then chốt để phát triển nhân lực, giải quyết vấn đề thất nghiệp, tạo kiều hối và nâng cao kỹ năng cho người lao động. Kết quả là kể từ năm 2010, hơn 1,4 triệu lao động đã ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng ngắn hạn. Quốc hội đã ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng vào năm 2020 để điều chỉnh lĩnh vực đang bùng nổ này.
Tất nhiên, bức tranh xuất khẩu lao động không chỉ toàn màu hồng. Có 3 vấn đề chính đã, đang và sẽ phải giải quyết:
- Hoạt động này có thể cạnh tranh với thị trường lao động trong nước. Đặc biệt, lĩnh vực sản xuất đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động do nhiều người chọn cơ hội làm việc ở nước ngoài thay vì trong nước.
- Thứ hai, xuất khẩu lao động tạo ra những hệ quả xã hội to lớn. Tương tự như Philippines, ở nước ta, các địa phương có nhiều lao động ở nước ngoài gặp nhiều vấn đề với sự tan rã của cấu trúc gia đình truyền thống, tỷ lệ ly hôn cao và tệ nạn xã hội gia tăng. Các công nhân ở nước ngoài cũng đối diện với nhiều rủi ro hơn ở trong nước. Việc mong muốn có thu nhập cao hơn – một phần là để trả các khoản phí môi giới rất cao – khiến nhiều người lựa chọn trốn ra làm việc bất hợp pháp, ở lại quá thời gian cho phép, vi phạm hợp đồng, và dễ rơi vào các cạm bẫy lừa đảo. Điều này làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội ở nước sở tại và cũng khiến hình ảnh Việt Nam bị ảnh hưởng.
- Thứ ba, xuất khẩu lao động, tương tự như tài nguyên thiên nhiên, có thể dẫn đến tình trạng mà các nhà kinh tế gọi là “lời nguyền tài nguyên”, khi một quốc gia bị lệ thuộc vào một nguồn tài nguyên và khiến nền kinh tế không thể phát triển. Việt Nam đã đi qua được một nửa “cơ cấu dân số vàng”, khi cứ hai người trong độ tuổi lao động từ 15-64 tuổi trở lên mới có một người phụ thuộc. Đối với hầu hết các quốc gia, đây là cơ hội chỉ có một lần để thoát “bẫy thu nhập trung bình” nhờ cơ cấu tuổi thuận lợi. Hàn Quốc, từng là nước xuất khẩu lao động lớn với ước tính khoảng 1,6 triệu lao động hợp đồng từ năm 1963-1987, đã tận dụng thành công xuất khẩu lao động để tài trợ cho quá trình công nghiệp hóa trong những năm 1970. Đến những năm 1990, khi đạt được vị thế quốc gia có thu nhập cao, Seoul dần chuyển hướng từ xuất khẩu sang nhập khẩu lao động giá rẻ phục vụ cho ngành sản xuất trong nước.
Phân tích cơ bản thì như thế. Còn ai đó ngồi ở nước ngoài gáy về thì nghe to lắm, mà thực tế đúng kiểu "tầm nhìn xa không đầy ba mét"./.
Yêu nước ST.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét