Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
nói chung về ngoại giao nói riêng là một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc
của các thế lực, thù địch, phản động, mục đích cuối cùng là phủ nhận, tiến tới
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng ta có thể thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”: “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, với tinh thần Việt Nam đã và
đang thực sự “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và là thành viên
tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, ngoại giao “cây tre Việt Nam”
đã đạt được nhiều kết quả, thành tích rất tốt đẹp. Từ phá thế bị bao vây, cấm
vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
Cho đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193
quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17
nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện” và là thành viên của
hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như LHQ, ASEAN, APEC, ASEM, WTO.
Phát triển quan hệ với các nước lớn là một trong
những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Quan điểm
của Đảng ta trong quan hệ với các nước lớn là tạo lập cân bằng, một mặt thúc
đẩy quá trình cải thiện, mở rộng và phát triển quan hệ với từng nước lớn, mặt
khác vẫn tiếp tục giữ vững độc lập, thống nhất và định hướng xã hội chủ nghĩa,
không để các nước lớn áp đặt hoặc lôi kéo vào những tập hợp lực lượng gây bất
lợi trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt trong quan hệ với các nước lớn khác.
Với phương châm chỉ đạo: “Láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và bốn tốt: “láng giềng
tốt, đồng chí tốt, bạn bè tốt, đối tác tốt” quan hệ Việt - Trung ngày càng phát
triển đi vào chiều sâu. Ngoài quan hệ ngoại giao nhà nước, quan hệ giữa hai
đảng cộng sản cầm quyền và giữa các đoàn thể chính trị - xã hội không ngừng
phát triển. Với Mỹ, Việt Nam chủ động thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan
hệ hợp tác, coi đây là bước đi cần thiết để thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa. Kể từ khi bình thường hóa
quan hệ ngoại giao (7/1995), quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến quan
trọng, hai nước xác lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 10/9/2023.
Với Liên bang Nga, trong những năm qua, quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga không
ngừng được củng cố và phát triển, đi vào chiều sâu, hiệu quả, có độ tin cậy cao
về chính trị.
Thực tiễn đó đã khẳng định, sau hơn 35 năm đổi mới:
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”. Điều này cũng bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc chính sách ngoại giao
của Việt Nam của các thế lực thù địch.
SỰ TÔN TRỌNG CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI THỂ CHẾ
CHÍNH TRỊ VIỆT NAM CÓ Ý NGHĨA LỚN
4// Nguyễn Văn Thiện – Lớp 50B
Sự
kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng thực hiện chuyến thăm cấp nhà nước đến Việt Nam vừa qua,
đã chính thức cho thấy sự tôn trọng của nước Mỹ đối với vai trò lãnh đạo của Đảng,
điều mà nhân dân Việt Nam đã từng kỳ vọng nhưng đã không thành cách đây gần 80
năm.
Gần 80 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần
kiên trì viết thư gởi Tổng thống Mỹ Harry Truman, Ngoại trưởng James Byrnes để đề nghị Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt
Nam, thiết lập mối bang giao và giao lưu kinh tế, văn hoá, giáo dục, quân sự... Thì phía Mỹ khi ấy đã không tôn trọng quyết định
của nhân dân Việt Nam. Nên sự nhiệt thành của Người không thể trở thành hiện thực,
buộc cả hai nước đã phải trải qua những trang sử đau thương trước khi trở thành
đối tác quan trọng của nhau.
Nhìn ở một góc độ khác, đó chính là sự phản đối của
Mỹ về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam... trải qua 75 năm điều hành đất nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã không
những dẫn dắt dân tộc đi qua những năm tháng chiến tranh bằng sự chiến thắng
thuyết phục mà còn đưa nền kinh tế lệ thuộc, què quặt thời hậu chiến vươn mình
trở thành nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất Châu lục.
Sự vững vàng
về chính trị, đường lối, cương lĩnh, và thành tựu kinh tế, đã làm nên uy tín của
Đảng cộng sản Việt Nam .
Sức mạnh đó cuối cùng đã đủ để chú Sam ngả mũ thán
phục.
Lịch sử dường như đã bù đắp lại mong mỏi của Người..
Lần này, chính phía Mỹ đã chủ động đặt vấn đề nâng
cấp quan hệ với Việt Nam lên tầm cao mới. Chính sự chủ động đó đã chứng minh
Hoa Kỳ đã biết tôn trọng sự khác biệt trong thể chế chính trị giữa hai nước, và
là sự công nhận đối vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đặc biệt sự tôn trọng không có khoảng cách đã thể
hiện rõ Tổng thống Mỹ đã vui lòng; không tị hiềm khi nhận được lời mời của Tổng
Bí Thư, thay vì phải là người đồng cấp
là Chủ tịch nước.
Đây là sự hiểu
biết rõ mới, rất lớn từ các nhà lãnh đạo
Mỹ đối với thể chế chính trị của nước ta.
Chính hành động đó lại càng làm cho mối quan hệ Mỹ
– Việt được ghi nhận thêm nhiều ý nghĩa đặc biệt.
CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM
4//
Nguyễn Văn Thiện – Lớp 50B
Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói
chung về ngoại giao nói riêng là một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của
các thế lực, thù địch, phản động. Bài viết: “Trì hoãn dân chủ hóa đất nước:
thêm một tội ác của đảng CSVN” của Đào Tăng Dực đăng trên “Baotiengdan” là một
trong những số đó.
Trong bài viết, Đào Tăng Dực dùng những ngôn từ hết sức
xấc xược, phản động, bôi nhọ, vu khống, xúc phạm đến Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong lịch sử dân tộc. Y cho rằng: “Sách lược ngoại giao nổi bật của CSVN
là đu dây giữa các cường quốc. Khi xưa giữa Nga và Tàu. Bây giờ giữa Tàu và Hoa
Kỳ. Vì đu dây là quốc sách nên hoàn toàn không có sự sáng tạo để tìm con đường
riêng mà chỉ còn bắt chước như bầy khỉ vậy”. Chính vì thế mà Đảng ta trở nên “độc
tài, vị kỷ và bảo thủ”, đã “trì hoãn tiến trình dân chủ hóa đất nước” hay “gieo
đau thương và tai họa cho quá nhiều thế hệ dân tộc suốt 7 thập niên”. Luận điệu
trên hoàn toàn phản động, xuyên tạc chính sách ngoại giao của Việt Nam, đặc biệt
với các nước lớn, mục đích cuối cùng là phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã xây dựng nên một
trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo mang đậm bản sắc
“cây tre Việt Nam”: “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn,
cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, với tinh thần Việt Nam đã và
đang thực sự “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và là thành viên
tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, ngoại giao “cây tre Việt Nam”
đã đạt được nhiều kết quả, thành tích rất tốt đẹp. Từ phá thế bị bao vây, cấm vận,
chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Hiện nay,
Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các
nước lớn, và bạn bè truyền thống. Nhờ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng
rãi của quốc tế. Cho đến nay, “nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước
trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ
đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện” và là
thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan
trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO. Đối ngoại Đảng, ngoại giao
Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương,
doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu, góp phần
củng cố chính trị, quốc phòng, an ninh; kinh tế, văn hóa – xã hội được đẩy mạnh,
qua đó tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác. Hiện
nay, Việt Nam đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 3 FTA thế
hệ mới có tiêu chuẩn rất cao. Đối ngoại đã giữ vai trò tiên phong trong việc giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Phát triển quan hệ với các nước lớn là một trong những
thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Quan điểm của Đảng
ta trong quan hệ với các nước lớn là tạo lập cân bằng, một mặt thúc đẩy quá
trình cải thiện, mở rộng và phát triển quan hệ với từng nước lớn, mặt khác vẫn
tiếp tục giữ vững độc lập, thống nhất và định hướng xã hội chủ nghĩa, không để
các nước lớn áp đặt hoặc lôi kéo vào những tập hợp lực lượng gây bất lợi trong
quan hệ đối ngoại, đặc biệt trong quan hệ với các nước lớn khác.
Với phương châm chỉ đạo: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và bốn tốt: “láng giềng tốt, đồng
chí tốt, bạn bè tốt, đối tác tốt” quan hệ Việt – Trung ngày càng phát triển đi
vào chiều sâu. Ngoài quan hệ ngoại giao nhà nước, quan hệ giữa hai đảng cộng sản
cầm quyền và giữa các đoàn thể chính trị – xã hội không ngừng phát triển. Hợp
tác kinh tế thương mại giữa hai nước được đẩy mạnh. Với Mỹ, Việt Nam chủ động
thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ hợp tác, coi đây là bước đi cần thiết
để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng
hóa. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao (7/1995), quan hệ Việt – Mỹ
đã có những bước tiến quan trọng, hai nước xác lập quan hệ Đối tác toàn diện
vào tháng 7/2013. Với Liên bang Nga, trong những năm qua, quan hệ Việt Nam –
Liên bang Nga không ngừng được củng cố và phát triển, đi vào chiều sâu, hiệu quả,
có độ tin cậy cao về chính trị. Hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước phát
triển năng động. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước không ngừng tăng…
Thực tiễn đó đã khẳng định, sau hơn 35 năm đổi mới: “Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”. Điều này cũng bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc chính sách ngoại giao của Việt
Nam của Đào Tăng Dực và đồng bọn./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét