Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng, kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách và tình cảm, tâm nguyện của Người đối với dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta. Di chúc chứa đựng những tư tưởng lớn, là bản tổng kết lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Di chúc đề cập nội dung hết sức sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng, để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới, xứng danh là Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở nước ta.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nhiều tâm huyết, trí tuệ và suy tư, trăn trở cho công tác xây dựng Đảng. Người căn dặn Đảng ta: việc cần làm trước tiên là “chỉnh đốn lại Đảng”, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ “đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”; đồng thời nhấn mạnh, “Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Xác định rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc tới việc làm thế nào để dân chủ trong Đảng được phát huy mạnh mẽ trong mọi hoạt động của Đảng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ là “của quý báu nhất của nhân dân” và thực hành dân chủ là “chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(1) trong quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.
Thực hành dân chủ trong Đảng thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó có việc tổ chức đảng, đảng viên bàn bạc, thảo luận các vấn đề để đi tới hình thành quyết sách chính trị của Đảng. Dân chủ trong Đảng được phản chiếu trong văn hóa đấu tranh tự phê bình và phê bình, hoạt động chất vấn của tổ chức đảng và đảng viên; phản ánh, kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về bản chất, dân chủ không đối lập với tập trung, kỷ luật, mà chỉ đối lập với sự quan liêu, thói gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền và lạm quyền. Tập trung cũng không đối lập với dân chủ, mà chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, thói tự do vô chính phủ.
Thực hành dân chủ trong Đảng được thể hiện trong tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. V.I. Lê-nin từng chỉ rõ: Không thể có một đảng cách mạng chân chính mà lại phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ. Nếu không có tập trung thì đảng trở thành một tổ chức biệt phái, hỗn độn, một “câu lạc bộ tranh luận”; nếu xa rời dân chủ, đảng sẽ bị biến thành một tổ chức chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Vận dụng đúng đắn quan điểm của V.I. Lê-nin về nguyên tắc tập trung dân chủ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, có lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập “tập trung dân chủ”, nhưng nhiều hơn cả là Người đề cập “dân chủ tập trung”. Tập trung dân chủ bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, là nguyên tắc tổ chức cao nhất và là chế độ lãnh đạo của Đảng, phải được tuân thủ nghiêm ngặt, triệt để, làm cho Đảng ngày càng thống nhất về ý chí và hành động. Người lý giải: Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương; tất cả đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người còn chỉ rõ: “Tập trung trên nền tảng dân chủ. Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên chính; nó là xây dựng trên nền tảng dân chủ”(2). Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, được thể hiện ở chỗ “trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng”(3).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét