Trong giai đoạn hiện tại, không một quốc gia nào có thể bỏ qua vấn đề nhân quyền mà có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với nước khác và không gặp phải sự phản kháng của nhân dân. Vì thế, quay trở lại với các tư tưởng chính trực, đúng đắn và nhân văn được thực tế và lịch sử thừa nhận về quyền con người (QCN) của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính tất yếu khách quan. Tuy nhiên, thời đại ngày nay đã khác với những năm 50, 60 của thế kỷ XX nên những vấn đề mà người dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đối mặt trong lĩnh vực phát triển kinh tế nhằm bảo đảm QCN cũng có nhiều vấn đề mới, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo và khoa học và phù hợp.
1. Trong lĩnh vực kinh tế, QCN được Hồ Chí Minh giải thích một cách
giản dị, đó là làm cho dân được ấm no và giàu có. Để nhân dân Việt Nam được no
cơm, ấm áo, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: phải phát triển sản xuất. Người nói: “Muốn
xã hội giàu thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tăng gia sản
xuất”. Muốn phát triển sản xuất, phải tiết kiệm để tích lũy vốn cho đầu tư phát
triển, phải nắm vững và tích cực cải tiến công nghệ, phải áp dụng các hình thức
tổ chức sản xuất tối ưu.
Dù theo chủ nghĩa nào thì phát
triển kinh tế cũng là điều kiện vật chất để công dân cải thiện cuộc sống và vị
thế trong xã hội. Thực tế cho thấy, ở các nước có chế độ chính trị tư bản chủ
nghĩa, khi thu nhập đầu người khá cao, vượt qua nhiều mức thu nhập thỏa mãn nhu
cầu tất yếu, chính phủ có thể tăng thu thuế để cung cấp nhiều loại phúc lợi xã
hội cho dân cư, tức bảo đảm QCN một cách phổ biến. Một chính phủ không có nguồn
lực tài chính thì khó có thể duy trì bộ máy quyền lực của mình, nói gì đến hỗ
trợ công dân bằng phúc lợi xã hội. Chính vì thế, ưu tiên phát triển kinh tế,
với tư cách điều kiện và nội dung quan trọng bảo đảm QCN, một trong những tư
tưởng kiên định của Hồ Chí Minh cần được phát huy.
Trong giai đoạn đến 2030 và
2045, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao năng suất
lao động để đạt được thu nhập cao trên cơ sở ứng dụng thành quả cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu giúp Việt Nam tăng
trưởng nhanh, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội, bảo đảm QCN. Đây là
nhiệm vụ không hề dễ dàng, nhưng không phải bất khả thi. Trên thế giới đã có
nhiều nước hoàn thành quá trình này trong 25-30 năm. Năm 2020 Việt Nam đã lỡ
hẹn với mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cần tính toán các
kế hoạch khả thi. Một trong những điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ này là đội
ngũ lao động đáp ứng yêu cầu và quản lý nhà nước nhằm tạo môi trường thích ứng.
Trong điều kiện đó, tư tưởng người lao động phải tự giác, tự chủ hoàn thành
nhiệm vụ của mình, không dựa dẫm, ỷ lại vào xã hội, nhà nước và yêu cầu đối với
cán bộ mà Hồ Chí Minh đề ra là vừa hồng,vừa chuyên phải được vận dụng thực chất
và phù hợp với tình hình mới.
Phát triển kinh tế trong điều
kiện hội nhập vào thị trường thế giới trong đó quyền chi phối còn nằm trong tay
các nước tư bản lớn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mọi công dân phải linh hoạt ứng
biến, một mặt, giống như khẳng định của Hồ Chí Minh, phải kiên định mục tiêu xã
hội chủ nghĩa, bởi chỉ có xã hội chủ nghĩa mới cho phép quảng đại người lao
động có điều kiện vật chất và tinh thần làm chủ xã hội, làm chủ chính mình. Tuy
nhiên, phải thoát khỏi tư tưởng nóng vội cho rằng có thể xây dựng chủ nghĩa xã
hội bằng biện pháp hành chính.
Phát triển kinh tế phải tuân
theo quy luật là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, do đó, phải phát huy mọi nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế,
tạo điều kiện cho từng người dân tự chủ quyết định trong điều kiện kinh tế thị
trường bằng cách thừa nhận và đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế,
trong đó lấy cạnh tranh lành mạnh làm thuốc thử loại bỏ thành phần kinh tế có
hiệu quả hoạt động thấp hơn các thành phần kinh tế khác. Không nên áp đặt cho
thành phần nào đó vai trò kiểm soát nền kinh tế.
Mặt khác, cần tuân thủ pháp
luật quốc tế, vì đó là điều kiện đầu tiên để Việt Nam có thể hội nhập, từ đó
tăng khả năng, cơ hội và nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững, dù rằng pháp
luật quốc tế chưa phải công bằng do sự kiểm soát của các nước tư bản chủ nghĩa.
Ở đây nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đưa ra vẫn có giá trị định hướng, soi sáng cho
chúng ta. Đó là, Việt Nam sẽ thiết lập quan hệ với tất cả các nước tôn trọng và
đối xử thành thật với chúng ta. Mọi vấn đề lợi ích phải dựa trên nguyên tắc
cùng có lợi và chủ quyền quốc gia.
2. Các tư tưởng về tự do, độc lập, bình đẳng giữa các dân tộc,
trên cơ sở đó thiết lập thể chế để người dân lao động được quyền tự chủ trong
các quyết định liên quan đến họ của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, nhất là
đối với Việt Nam trong giai đoạn đến 2030 và 2045. Tuy nhiên, vận dụng các tư
tưởng đó vào thực tiễn cần phù hợp với thời đại và đặc thù Việt Nam thể hiện
qua một số quan điểm sau đây:
Một
là, Việt Nam ngày nay đã khác xa
thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay Việt Nam không chỉ độc lập, thống nhất,
mà còn trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế cũng như có quan hệ kinh
tế với nhiều nước trên thế giới. Vì thế, cách hiểu về độc lập, nhất là độc lập
về kinh tế đã khác những năm 50-60 của thế kỷ XX. Độc lập kinh tế không phải là
không phụ thuộc vào đầu tư, thương mại với nước khác. Độc lập về kinh tế thể
hiện ở khía cạnh Việt Nam có tiếng nói trong xây dựng pháp luật quốc tế cũng
như có cơ cấu kinh tế tiến bộ hiện đại, định vị vững vàng trong chuỗi giá trị
toàn cầu.
Hai
là, mặc dù xu hướng toàn cầu hóa đã
định hình rõ nét, chi phối đời sống kinh tế của các nước trên thế giới, nhưng
mâu thuẫn lợi ích giữa các nước theo nguyên tắc cạnh tranh vẫn tồn tại dai dẳng
có thể dẫn đến các xung đột, chiến tranh. Việt Nam cần hòa bình để phát triển
kinh tế nên chính sách đối ngoại phải hết sức tinh nhạy, mềm dẻo nhằm theo tinh
thần của Hồ Chí Minh là: hợp tác với tất cả các nước tôn trọng độc lập và quan hệ
trung thực với Việt Nam, nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho dân cư.
Ba
là, đẩy mạnh giáo dục, tuyên
truyền, vận động, cung cấp tri thức, kỹ năng để công dân Việt Nam có thể làm
chủ theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nếu Việt Nam có đội ngũ lao động có kỹ năng,
tri thức, thái độ lao động vượt trội so với các nước khác, có các doanh nghiệp
được tổ chức tốt, có môi trường đáp ứng yêu cầu chi phí thấp cho đầu tư thì có
thể hoàn thành công nghiệp hóa trong thời gian ngắn và tăng nhanh thu nhập cho
dân cư, tăng thu ngân sách nhà nước và trụ vững trên thị trường thế giới.
Bốn
là, xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế theo tinh thần của Hồ Chí Minh, đó là những người tận trung với
nước, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đi cùng với
chính sách đãi ngộ thỏa đáng để họ tập trung cho công việc. Hơn nữa cần có cơ
chế kiểm soát chặt chẽ cán bộ của Đảng và Nhà nước cũng như thiết lập cơ chế
giám sát của dân cư để bảo đảm cán bộ quản lý kinh tế phải là những tấm gương
trong tạo điều kiện cho nhân dân và bản thân họ làm chủ xã hội theo tinh thần
xã hội chủ nghĩa.
3. Để có thể vận dụng hiệu quả và phát triển sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN định hướng
đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, thiết nghĩ, Đảng, Chính phủ và mọi công
dân cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ
nhất, nghiên cứu sâu sắc, chắt lọc
các tư tưởng tinh túy còn giá trị đến ngày nay của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực
phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN. Những tư tưởng sau đây của
Hồ Chí Minh cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng: (i) QCN chỉ có thể được thực
hiện khi dân tộc có quyền độc lập, tự quyết và quyền này phải được các nước tôn
trọng. Muốn vậy phải trở thành một nước giàu, mạnh; (ii) phải phát triển kinh
tế toàn diện cả công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trên cơ sở cải tiến kỹ thuật
và tổ chức sản xuất; (iii) mỗi người, cả nông dân, công nhân, trí thức, công
thương… đều phải nỗ lực tự chủ phát triển kinh tế trên cương vị người làm chủ,
không thể trông chờ, chây ì dựa vào nhà nước, người khác, nước khác; (iv) Đảng,
Nhà nước thông qua cán bộ quản lý kinh tế phải tạo điều kiện cho công dân làm
chủ thông qua chế độ quản lý dân chủ, chế độ dân phê bình cán bộ, cán bộ đi sâu
đi sát nhân dân.
Thứ
hai, sau khi đã xác định rõ
các tư tưởng cốt lõi, cần xây dựng kế hoạch, phương thức tuyên truyền, vận động
thực chất, phù hợp với từng ngành nghề, từng đối tượng như Hồ Chí Minh đã làm,
như đối với công nhân, đối với nông dân, người làm dịch vụ, đối với các dân tộc
ít người, thanh niên, phụ nữ... Điều quyết định là gây dựng ở mỗi công dân ý
chí tự lực, tự cường, có ý chí vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. Đồng
thời cũng xác định rõ những nghĩa vụ, yêu cầu, nhiệm vụ mà mỗi công dân phải
hoàn thành trên cương vị của mình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hạn chế khai thác
khía cạnh thần thánh hóa Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ
ba, muốn phát triển kinh tế,
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần kỹ thuật, thái độ làm việc tích cực, sáng tạo của
người lao động, thái độ tận tâm, phong cách dân chủ của cán bộ quản lý. Muốn
vận dụng các tư tưởng này vào thực tiễn Việt Nam hiện nay cần cải cách hệ thống
giáo dục và đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu đào tạo được đội ngũ lao động chuyên
nghiệp, thành thạo nghề và có năng lực sáng tạo để làm chủ quá trình sản xuất.
Cần chọn lọc, bồi dưỡng, quản lý, đãi ngộ, kiểm soát để có đội ngũ cán bộ quản
lý vừa hồng, vừa chuyên.
Thứ
tư, thực hiện QCN cần những
con người nhận thức được quyền của mình và xã hội hỗ trợ họ thể chế thực hiện,
nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy, ngoài việc đề cao giáo dục tuyên
truyền trong các trường phổ thông, trường dạy nghề về QCN, cần xây dựng thể chế
hỗ trợ công dân thực hiện QCN. Trong kinh tế là các thể chế hỗ trợ bảo vệ quyền
sở hữu tài sản hợp pháp. Trong quan hệ xã hội là các thể chế hỗ trợ người yếu
thế, người thuộc các dân tộc ít người. Cần thừa nhận và hỗ trợ các tổ chức phi
chính phủ đại diện cho lợi ích của các nhóm dân cư trong giải quyết các quan hệ
kinh tế với Nhà nước.
Thứ
năm, tạo điều kiện tăng trưởng kinh
tế đi đôi với chính sách thuế và phúc lợi xã hội hợp lý để phân phối của cải xã
hội công bằng giữa những nhóm người có điều kiện khách quan khác nhau, nhưng có
nhu cầu giống nhau.
Hồ Chí Minh là tấm gương của
đạo đức cách mạng, là người suốt đời phấn đấu vì dân, vì nước. Những tư tưởng
của người về phát triển kinh tế tạo điều kiện bảo đảm QCN vẫn còn nguyên giá
trị định hướng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Thực hiện nghiêm chỉnh,
thực chất những tư tưởng định hướng đó Việt Nam nhất định sẽ đạt được các mục
tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII đặt ra
cho giai đoạn đến 2030 và 2045
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét