Chủ Nhật, 3 tháng 10, 2021

Ý NGHĨA LỊCH SỬ NGÀY GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ HÀ NỘI

 

 

  Ngày 10 tháng 10 năm 1954 chính là ngày Giải phóng thủ đô Hà Nội – niềm tự hào dân tộc, ngày mà Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chính thức tiến vào tiếp quản Hà Nội từ tay Thực dân Pháp sau Chiến tranh Đông Dương. Giải phóng thủ đô ngày 10/10/1945 Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thì Hiệp định Giơnevơ về việc đình chiến ở Đông Dương đã được ký kết. Sau nhiều ngày đấu tranh sôi nổi, tại Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương các hiệp định về việc chuyển giao Hà Nội đã được ký kết vào ngày 30/9/1954 và 02/10/1954.  Ngay sau đó, Chính Phủ đã chỉ đạo các đội công an, trật tự cảnh vệ và hành chính tiến vào thủ đô Hà Nội để chuẩn bị cho việc tiếp quản thành phố. Theo nghị quyết ngày 17/9/1954 của Hội đồng Chính phủ, thiếu tướng Vương Thừa Vũ đã thành lập Ủy ban quân chính của thành phố Hà Nội, do tư lệnh sư đoàn Quân Tiên phong làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch là bác sĩ Trần Duy Hưng. Theo kế hoạch đã định trước, vào sáng 8/10/1954 các đơn vị của quân đội ta đã chia nhiều đường để tiến vào ngoại thành Hà Nội. Đến khoảng 16 giờ 30 phút thì tiến đến đường Đê La Thành, Vĩnh Tuy, Bạch Mai, Ngã Tư Sở, Ô Cầu Giấy và Nhật Tân. Đến 6 giờ sáng ngày 09/10/1954, quân đội ta lại theo nhiều đường từ ngoại thành và tiến vào nội thành, sau đó chia thành nhiều cánh quân để tiến vào 5 cửa ô chính rồi tỏa đi các nơi. Đến 16 giờ 30, quân đội ta đã hoàn toàn kiểm soát được thành phố Hà Nội, tiếp thu thành phố gọn gàng và trật tự. Bộ đội ta tiến đến đâu thì nhân dân ta đổ ra hai bên đường, tung hoa phất cờ, reo mừng tới đó. Các cổng chào, khẩu hiệu được dựng lên khắp các đường phố, cờ đỏ sao vàng rực rỡ bay phất phới khắp nơi. Ngày 10/10 là ngày gì? Ngày thủ đô chính thức sạch bóng quân thù 05.00 giờ sáng ngày 10/10: Toàn bộ người dân thủ đô ăn mặc chỉnh tề và cầm theo cờ tổ quốc, ảnh Bác Hồ, hoa tươi, sau đó xếp thành một đội ngũ trật tự đi theo từng công sở, xí nghiệp, trường học, khu phố..., kéo tới những con đường mà đã được thông báo là bộ đội ta sẽ hành quân qua. Đoàn xe đầu tiên sẽ do thiếu tướng Vương Thừa Vũ cùng với đó là Chủ tịch Ủy ban Quân chính và Phó Chủ tịch Ủy ban Quân chính dẫn đầu đi qua phố Hàng Đường, Hàng Đào và sau đó là đi qua trung tâm thành phố. 08.00 giờ sáng: Cánh quân ở phía Tây  những chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn Thủ đô xuất phát từ Quần Ngựa. Các chiến sĩ bắt đầu diễu binh đi qua Kim Mã, Hàng Đẫy, Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Đào,… và đến 09.45 thì tiến vào Cửa Đông thành Hà Nội. 08.45: Cánh quân phía Nam bắt đầu xuất phát từ Việt Nam học xá và tiến qua Bạch Mai, phố Huế, sau đó vòng quanh hồ Gươm rồi lại vòng lại chiếm lĩnh toàn bộ khu vực Đồn Thủy và Đấu Xảo. 09.30: Đoàn cơ giới và pháo binh bắt đầu xuất phát từ Bạch Mai, qua phố Huế, đến 10.0 5 thì tới Bờ Hồ, sau đó đi qua Hàng Ngang, Hàng Đào, chợ Đồng Xuân, rồi rẽ sang Cửa Bắc để tiến vào thành lúc 10.45. 15.00 . Còi Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội đã nổi lên một hồi dài, khi đó mấy chục vạn nhân dân thủ đô đã trang nghiêm dự lễ chào cờ do Ủy ban Quân chính tổ chức. Sau lễ chào cờ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính trân trọng đọc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi nhân dân Thủ đô Hà Nội nhân ngày giải phóng. Ngày 10/10/1954 chính là ngày thủ đô Hà Nội chính thức sạch bóng quân thù, hân hoan chào đón những con người kiên cường bất khuất đã giành chiến thắng và mang lại hòa bình cho thủ đô. Đây là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt to lớn, là một niềm tự hào to lớn của mỗi người con Việt Nam. Sự kiện đã mở ra một thời kỳ mới, vô cùng vẻ vang trong lịch sử ngàn năm văn hiến Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Kể từ ngày đó, Thủ đô Hà Nội của chúng ta đã hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị, là một bước đệm quan trọng để giải phóng đất nước, Bắc - Nam thống nhất. Nhân dân lao động cũng từ đó vĩnh viễn xóa bỏ các chế độ áp bức, bóc lột, đứng lên làm chủ vận mệnh của cuộc sống, phấn khởi xây dựng xã hội mới, mở đầu cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tại nước ta.

Mối quan hệ của quyền con người

 


Quyền con người và vấn đề đói nghèo

Đói nghèo không đơn giản chỉ là vấn đề thu nhập, mà còn là công bằng xã hội và quyền con người. Liên hợp quốc khẳng định, đói nghèo cùng cực và cách biệt xã hội tạo thành sự vi phạm nhân phẩm, cản trở sự hưởng thụ quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, lập tức giảm nhẹ và dần dần xóa bỏ tình trạng nghèo khổ cùng cực, phải là ưu tiên cao đối với cộng đồng quốc tế.

Quyền con người và dân chủ

Dân chủ và quyền con người có mối quan hệ gắn bó với nhau. Trong quan niệm của UNESCO, dân chủ bảo đảm các quyền và tự do cơ bản. Phương pháp thảo luận tập thể, công khai để giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội sẽ không thể thực hiện được nếu không có các quyền như: tự do ngôn luận, quyền lập hội, tự do đi lại và an ninh thân thể. Mọi người có thể dựa vào dân chủ để bảo vệ các quyền đó, bởi vì chúng là tối quan trọng cho việc tồn tại các nền dân chủ.

Quyền con người và pháp quyền

Hội nghị thế giới về các quyền con người tại Viên (Áo,1993) đã nhấn mạnh, hệ thống pháp quyền bao gồm các cơ quan thi hành pháp luật, các cơ quan công tố, đặc biệt là ngành tư pháp theo đúng các chuẩn mực thông thường trong các văn kiện quốc tế về quyền con người là điều kiện thiết yếu để thực hiện một cách đầy đủ các quyền con người và là điều không thể thiếu đối với quá trình dân chủ và phát triển bền vững.

Quyền con người và phát triển con người

Với tiêu đề quyền con người và phát triển con người. Báo cáo phát triển con người của UNDP đã đánh giá, quyền con người và phát triển con người đều có cùng quan điểm và mục đích chung là bảo đảm tự do, hạnh phúc và phẩm giá cho mọi người. Phát triển con người là nền tảng để công nhận quyền con người và quyền con người là cơ sở để phát triển con người một cách đầy đủ.

Quyền con người và đa dạng văn hóa

Quyền con người phổ biến không phải phụ thuộc vào một truyền thống văn hóa duy nhất, mà là kết quả đóng góp của nhiều nền văn hóa khác nhau trong gi đình nhân loại. UNESCO đã ghi nhận: Mọi dân tộc, mọi nhóm người, bất kể thành phần hay nguồn gốc xuất thân, đều có khả năng đóng góp chúng vào tiến bộ văn hóa, văn minh, đều có quyền bình đẳng để đạt được những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ. Tuy nhiên sự dân dạng văn hóa phải gắn với thực hiện các quyền con người phổ biến phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, Bộ luật quốc tế về quyền con người và các văn kiện quốc tế về quyền con người.

Nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với nhà nước và xã hội trong thực hiện quyền con người

 


Vấn đề nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với nhà nước và xã hội đã được quan tâm trong nhiều truyền thống văn hóa, trong các tư tưởng chính trị, triết học và luật học. Về mặt xã hội, công dân có tư cách là thành viên của một cộng đồng chính trị, một chế độ nhà nước và chịu sự chi phối của quy tắc: phục tùng luật pháp. Thời kỳ phục hưng và cận đại, tư cách công dân gắn liền với sự tuân thủ một luật lệ bền vững, hoặc tuân thủ ý chí trung trong một thể chế chính trị. Nói cách khác, công dân vì lợi ích của mình và vì lẽ phải, không chỉ có quyền mà có nghĩa vụ chính trị đối với tập thể. Trong các xã hội có hiến pháp dân chủ hiện nay, quan niệm phổ biến đều cho rằng: Sự tham gia của người dân vào một nền dân chủ theo hiến pháp cũng đòi hỏi người công dân phải có trách nhiệm tôn trọng các luật và các quyết định của tập thể trong các hoạt động công cộng, ngay cả khi cá nhân không hoàn toàn không đồng ý với các  luật lệ và quyết định đó…đó là điều cốt yếu cho xã hội công dân. Quan niệm khá phổ biến đã được thể hiện trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng quy định rõ về quyền và nghĩa vụ công dân.

Tạm đình chỉ thực hiện quyền con người trong bối cảnh khẩn cấp

 


Điều 4 ICCPR (1966) cho phép các quốc gia tạm đình chỉ thực hiện quyền trong bối cảnh khẩn cấp quốc gia. Tuy nhiên đây chỉ là những biện pháp mang tính chất “ngoại lệ và tạm thời” và các quốc gia phải chứng minh được hai điều kiện: thứ nhất, có tình trạng khẩn cấp diễn ra trong thực tế đe dọa vận mệnh của dân tộc; thứ hai, đã tuyên bố một cách chính thức về tình trạng khẩn cấp đó. Tuy nhiên không phải mọi tình hình rối loạn nào ở quốc gia cũng dẫn đến ban bố tình trạng khẩn cấp. Vấn đề này thường  phải chịu sự  xem xét của Ủy ban Giám sát Công ước. Mặt khác, các biện pháp áp dụng phải có những giới hạn trong phạm vi địa lý và mức độ cần thiết của tình trạng khẩn cấp. Nói cách khác, nó như một phương thức cuối cùng đòi hỏi phải được áp dụng.

Theo quy định tại khoản 2, Điều 4 ICCPR (1966), các biện pháp được áp dụng không được vi phạm các điều sau đây: Điều 6 (quyền sống); Điều 7 (quyền không bị tra tấn và các hình thức trừng phạt vô nhân đạo, hạ nhục, hoặc bị sử dụng làm thí nghiệm y học, khoa học nếu không có sự đồng ý của người đó); Điều 8 (không bị bắt giữ làm nô lệ, nô dịch); Điều 11 (không bị bỏ tù vì lý do không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng); Điều 15 (Không được áp dụng hồi tố trong tố tụng hình sự); Điều 16 (được công nhận là thể nhân trước pháp luật) và Điều 18 (quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo)

Quyền có thể bị hạn chế trong một số trường hợp

 


Giới hạn quyền được quy định trong một số điều ước quốc tế về quyền con người, theo đó luật quốc tế cho phép các quốc gia thành viên đưa ra những biện pháp hợp lý để hạn chế thực hiện một số quyền. Theo Điều 4 ICESCR (1966), những hạn chế này phải tuân thủ các điều kiện: a)Các biện pháp hạn chế phải được quy định trong pháp luật quốc gia; b)Không trái với bản chất quyền bị hạn chế; c)Vì mục đích thúc đảy phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.

          Các quy định trên mang hàm nghĩa, biện pháp hạn chế không thể áp dụng theo cách thức độc đoán, tùy tiện. Trong một số công ước quốc tế có quy định cụ thể một số quyền phải chịu giới hạn, vì các mục đích: a)An ninh quốc gia; b) Trật tự công cộng; c)Sức khỏe và đạo đức xã hội; d)Quyền và tự do của người khác. Các quyền có thể chịu giới hạn như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền tự do đi lại; quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng; quyền tự do lập hội; quyền hội họp hòa bình;v.v…

Thế hệ quyền thứ ba của quyền con người

 


Quyền con người thế hệ thứ ba bao gồm các quyền chủ yếu như: quyền phát triển; quyền được sống trong hòa bình; quyền được sống trong môi trường trong sạch; quyền được thông tin. Trên thực tế quyền con người thế hệ thứ ba đã có trong chương trình nghị sự của Liên hợp quốc từ năm 1952. Tuy nhiên phải đến thập niên 70 (thế kỷ XX), quyền này mới có vai trò nổi bật trong những hội nghị quốc tế quan trọng và được ghi nhận trong một số văn bản của Liên hợp quốc, như: Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa (1960); Tuyên bố về quyền của các dân tộc được sống trong hòa bình (1986); tuyên bố về quyền phát triển (1986); Tuyên bố Viên và chương trình hành động (1993);v.v…

Thế hệ quyền thứ hai của quyền con người

 


Quyền con người thế hệ thứ hai là quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Chúng là kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân, người lao động cho mục tiêu công bằng về kinh tế, xã hội tại nhiều nước tư bản phát triển ở thế kỷ XIX như Anh, Đức, Pháp. Đầu thế kỷ XX, với sự ra đời của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới – nước Nga Xô viết (1917) và sự hình thành tổ chức lao động quốc tế (ILO,1919), thì quyền con người thế hệ thứ hai có vai trò nổi bật trong các văn bản quốc tế và quốc gia. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai tiếp tục được ghi nhận trong các Công ước của ILO, trong UDHR (1948), ICESCR (1966) và trong một số hiến chương, Điều ước quốc tế, khu vực. Quyền thế hệ thứ hai thường được gọi là “Quyền con người tích cực” nhằm xác định vai trò chủ động của nhà nước trong việc tạo ra môi trường công bằng, thuận lợi để mọi người, mọi công dân có quyền làm việc, tiếp cận hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, được hưởng phúc lợi xã hội và tham gia vào đời sống văn hóa v.v…

Thế hệ quyền thứ nhất của quyền con người

 


Nội dung quyền con người thế hệ thứ nhất là quyền tự do cá nhân trên lĩnh vực dân sự, chính trị. Các quyền này đã được ghi nhận trong các văn kiện quan trọng như: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776); Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789); UDHR (1948); ICCPR (1966) cũng như trong một số Hiến chương, Điều ước quốc tế và khu vực.

Đặc điểm quyền con người thế hệ thứ nhất là xác định nguyên tắc bảo vệ cá nhân, các công dân trước quyền lực chính trị của nhà nước. Vì vậy ngay từ khi được thừa nhận, nó đã trở thành tiêu chí về tính hợp pháp của một chế độ chính trị. Theo ý nghĩa của nó, quyền con người thế hệ thứ nhất mang tính cơ bản và thiết yếu đối với phẩm giá con người và cho phép các công dân chống lại sự lạm quyền của cơ quan nhà nước. Chính vì vậy các quyền này đòi hỏi nhà nước không chỉ tồn tại như một bộ máy cai trị, có trách nhiệm bảo đảm an ninh xã hội, mà còn có nghĩa vụ thừa nhận, tôn trọng phẩm giá các quyền bình đẳng bất di, bất dịch của mọi người, mọi công dân.

Quyền con người được phân loại theo lĩnh vực


Quyền con người có hai nhóm chính với các lĩnh vực khác nhau: Nhóm các quyền dân sự, chính trị bao gồm: quyền sống, quyền không bị tra tấn, hạ nhục; quyền không bị bắt làm nô lệ; quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền bình đẳng trước tòa án; quyền tự do đi lại, lựa chọn nơi cư trú; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền tự do ngôn luận; quyền bầu cử và tham gia các công việc nhà nước, xã hội. Nhóm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa bao gồm: quyền làm việc quyền được thành lập và gia nhập công đoàn; quyền được hưởng an sinh xã hội; quyền có mức sống thích đáng; quyền đạt tới một tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể; quyền được giáo dục; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa; quyền có nơi ở thích đáng; quyền được tiếp cận với nước v.v…

Giữa hai nhóm quyền nêu trên có sự phân biệt nhất định. Chẳng hạn các quyền dân sự, chính trị đòi hỏi nghĩa vụ “thực hiện ngay” thì các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa bổ sung thêm nghĩa vụ “thực hiện từng bước”. Về cơ bản các quyền dân sự, chính trị đòi hỏi nhà nước giảm sự can thiệp vào sự hưởng thụ quyền; trong khi đó quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đòi hỏi nghĩa vụ hỗ trợ tích cực và hơn nữa, nó gắn liền với sự vận hành của kinh tế thị trường, thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân trong việc cung cấp nhiều hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Trong tình trạng khẩn cấp, xung đột, thảm họa, thiên tai, môi trường…thì một số quyền dân sự, chính trị có thể bị hạn chế, còn các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa lại đòi hỏi nhà nước không được giảm bớt nghĩa vụ của mình, mà phải chủ động nhằm ngăn ngừa sự vi phạm các quyền này như: tình trạng bỏ đói, cự tuyệt chăm sóc y tế, cố ý cản trở hàng cứu trợ, chiếm đoạt tài sản, hủy hoại các công trình văn hóa… 

Quyền con người được phân loại theo chủ thể


Chủ thể quyền con người bao gồm: các các nhân và các nhóm xã hội. Với tư cách cá nhân, tất cả mọi người, tất cả các công dân đều được hưởng quyền con người phổ biến. Ngày nay, bảo vệ quyền cá nhân đã trở thành nội dung chủ yếu trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Các nhóm xã hội cũng có tư cách là chủ thể của quyền con người, quyền của họ là quan niệm là các quyền chung của một nhóm hay của một tập thể có một số đặc điểm riêng biệt, đặc thù. Chẳng hạn quyền của nhóm người thiểu số là quyền của các thành viên trong một nhóm với những đặc điểm khác biệt về dân tộc, tôn giáo, hay ngôn ngữ. Tự bản thân họ hay trong cộng đồng với các thành viên khác của nhóm họ có quyền được hưởng nền văn hóa riêng của mình, được thực hiện quyền tôn giáo riêng của mình, hay sử dụng ngôn gữ riêng của mình. Quyền của nhóm được thể hiện dưới hình thức tập thể và bao hàm cả hình thức cá nhân. Riêng đối với quyền tự quyết dân tộc chỉ được thực hiện dưới hình thức tập thể, vì chủ thể của quyền này là “các dân tộc”. Việc bảo vệ quyền tự quyết dân tộc có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hiện thực hóa quyền của các cá nhân. Đó chính là lý do mà Liên hợp quốc đã đưa quyền này vào một điều khoản riêng và đặt nó đứng trước tất cả các quyền khác trong cả hai công ước: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR, 1966) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, 1966) 

Các tỉnh ĐBSCL đồng loạt ghi nhận F0 từ dòng người hồi hương

 Các tỉnh Đồng Tháp, TP Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng, Cà Mau... ghi nhận nhiều ca mắc Covid-19 mới là công dân trở về từ vùng có dịch.

Các tỉnh ĐBSCL đồng loạt ghi nhận F0 từ dòng người hồi hương - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Dòng người hồi hương về các tỉnh ĐBSCL (Ảnh: CTV)

 Cụ thể, ngày 3/10, Cần Thơ ghi nhận 34 ca mắc Covid-19 mới, nâng tổng số ca nhiễm lên 5.790 ca.  Trong đó 6/14 ca ở khu cách ly trở về từ vùng dịch, 19 ca ở khu phong tỏa, một ca qua xét nghiệm sàng lọc cộng đồng (ca này cũng trở về từ vùng dịch).

Trong ngày, Cần Thơ có 65 bệnh nhân Covid-19 được điều trị khỏi, nâng tổng số bệnh nhân được điều trị thành công lên 4.867 trường hợp.

Theo báo cáo của Tiểu ban, Thông tin tuyên truyền, trong ngày 3/10, tỉnh Đồng Tháp có 35 ca dương tính (tăng 29 ca so ngày hôm qua). Trong đó có 33 về từ vùng dịch, một ca trong các cơ sở cách ly y tế, một ca trong cộng đồng.

Tổng số ca dương tính là 8.346 ca đã điều trị khỏi, 7.805 ca; số ca tử vong 214 trường hợp.

Theo báo cáo của Ban chỉ đạo phòng chống dịch tỉnh, tính từ ngày 1/3 đến trưa 3/10, tỉnh An Giang đã tiếp nhận hơn 17.700 người dân từ các tỉnh Đông Nam Bộ về quê tự phát, địa phương đã đón về cách ly là 6.346 người; số đang sàng lọc, phân loại là 11.576 người; qua sàng lọc có 30 người dương tính với SARS-CoV-2 và đã được cách ly điều trị riêng.

Ngày 3/10, tỉnh Hậu Giang ghi nhận 4 ca mắc mới trong đó có 2 ca là người dân hồi hương về từ vùng dịch. Tính từ đầu đợt dịch (ngày 08/7) đến nay tỉnh Hậu Giang đã ghi nhận tổng số 565 ca mắc, hiện đã điều trị khỏi 483 ca.

Theo thông tin từ sở chỉ huy phòng chống dịch Covid-19 tỉnh Cà Mau, trong 2 ngày qua số lượng công dân Cà Mau tự phát về quê từ các tỉnh, thành phố phía Nam như TPHCM, Bình Dương... rất lớn, với trên 6.000 người.

Kết quả xét nghiệm ngày đầu tiên cho hơn 1.000 người thì có 25 người dương tính với SARS-Cov-2.

Tại Bến Tre, ngày 3/10, tỉnh có 4 ca mắc Covid-19, trong đó có 3 ca là công dân hồi hương.

Ngày 3/10, Sóc Trăng ghi nhận 19 trường hợp mắc Covid-19, trong số này có 6 người về từ vùng dịch.

Hoàng Tùng

Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của quyền con người


Quyền con người, quyền công dân có phạm vi rộng, bao trùm lĩnh vực: chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền trong mỗi lĩnh vực là khác nhau, song chúng đều có mối quan hệ tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Việc thực thi các quyền kinh tế cấp bách không thể bỏ qua hay vi phạm quyền dân sự, chính trị, quyền xã hội, văn hóa. Quyền thoát khỏi đói nghèo, quyền có mức sống thích đáng gắn bó chặt chẽ với quyền tự do ngôn luận, báo chí và tham gia quản lý nhà nước, xã hội. Quyền về việc làm, thu nhập có mối liên hệ không thể tách rời với quyền được giáo dục, chăm sóc sức khỏe. 

Nâng cao sức mạnh nội sinh cho đất nước bằng nhân lực có kỹ năng nghề

  Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Lê Tấn Dũng nhấn mạnh, nội lực và sức mạnh nội sinh của đất nước có thể được nâng cao chính bằng sức mạnh của kỹ năng và năng lực hành nghề ở nguồn nhân lực.

Phóng viên Dân trí có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Lê Tấn Dũng về vấn đề phát triển kỹ năng lao động nhằm nâng cao nội lực, sức mạnh nội sinh cho phát triển đất nước nhân ngày Kỹ năng lao động Việt Nam 4/10.

Nâng cao sức mạnh nội sinh cho đất nước bằng nhân lực có kỹ năng nghề - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Lê Tấn Dũng.

Kỹ năng lao động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa

Xin Thứ trưởng cho biết sự cần thiết của kỹ năng lao động trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19?

- Kỹ năng lao động luôn có vai trò rất quan trọng, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của công nghệ, số hóa, tự động hóa, toàn cầu hóa đã tác động sâu sắc đến mô hình phát triển của các quốc gia, thúc đẩy nhu cầu nâng cao kỹ năng lao động trên toàn thế giới.

Ngay trong bối cảnh dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp, tác động nặng nề lên nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, Bộ LĐ-TB&XH đã phối hợp với các Bộ, ngành tham mưu Quốc hội và Chính phủ có nhiều chính sách và ưu tiên nguồn lực để hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động.

Trong đó có chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phục hồi sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, chống đứt gãy chuỗi cung ứng lao động và thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như: Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 (gói hỗ trợ 26.000 tỷ đồng) và Nghị quyết 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 (gói hỗ trợ 38.000 tỷ đồng) về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Quyết định số 1446/QĐ-TTg ngày 30/8/2021 Phê duyệt Chương trình "Đào tạo, đào tạo lại nâng cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư". Trước đó ngày 28/5/2020 Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 24/CT-TTg về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới...

Nhân dịp ngày Kỹ năng lao động Việt Nam 04/10 năm nay, Chủ tịch nước có thư gửi tới toàn thể người lao động và các cơ quan, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp trong cả nước để biểu dương và tri ân những đóng góp lớn lao cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian qua. Đồng thời, Chủ tịch nước kêu gọi chúng ta còn cần nỗ lực hơn nữa để cùng chung tay vượt qua đại dịch Covid-19 và đồng hành nâng tầm kỹ năng lao động, để đất nước ta chiến thắng dịch bệnh và phát triển thịnh vượng trong thời gian tới.

Xin Thứ trưởng cho biết tình hình nhân lực có kỹ năng nghề của Việt Nam hiện nay và quan điểm, định hướng về phát triển nhân lực có kỹ năng trong thời gian tới?

- Trong những năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị nhân lực có kỹ năng nghề được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và đã có nhiều chuyển biến tích cực về nhận thức, quy mô tuyển sinh, chất lượng và hiệu quả đào tạo.

Hệ thống các quy định pháp luật về giáo dục nghề nghiệp (GDNN) từng bước được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở GDNN phát triển rộng khắp, đa dạng về loại hình và trình độ đào tạo; chất lượng được tăng cường. Xuất hiện ngày càng nhiều mô hình đào tạo chất lượng cao, đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đánh giá về tình hình phát triển GDNN giai đoạn vừa qua, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhận định GDNN có nhiều chuyển biến, qua đó đóng góp tích cực vào xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực… Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì quy mô, cơ cấu và chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia gần 100 triệu dân, 55 triệu lao động đang trong giai đoạn dân số vàng, nhất là trong bối cảnh do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, xu hướng tự động hóa, điện tử hóa, số hóa, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.

Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn sẽ quyết định tới nhu cầu về số lượng, cơ cấu, chất lượng nhân lực cho thị trường lao động. Đảng ta xác định một trong những nội dung đột phá chiến lược là tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao; đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hóa và thay đổi phương thức giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và GDNN.

Nâng cao sức mạnh nội sinh cho đất nước bằng nhân lực có kỹ năng nghề - 2

Nhấn để phóng to ảnh

Lực lượng lao động có chất lượng kỹ năng là nguồn tài nguyên vô giá quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. (Ảnh minh họa).

Chuyển từ đào tạo một lần sang học tập thường xuyên, học tập suốt đời

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang thực hiện chỉ đạo của Chính phủ xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp và Đề án "Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam", xin Thứ trưởng cho biết thêm về những quan điểm, định hướng phát triển lực lượng lao động có kỹ năng trong đó?

- Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp và Đề án "Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam có một số quan điểm, định hướng phát triển lực lượng lao động có kỹ năng là:

Lực lượng lao động có chất lượng, kỹ năng và hiệu quả cao là nguồn tài nguyên vô giá, là nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh hiện nay, khi đại dịch Covid-19 đang diễn biến và thế giới cũng đã xác định sống chung với covid-19 thì vai trò Nâng tầm kỹ năng lao động là một chiến lược cần ưu tiên để nhanh chóng khôi phục lại thị trường lao động, đảm bảo chuỗi cung ứng lao động không bị đứt gãy và chuẩn bị cho công cuộc phục hồi nền kinh tế sau Covid-19.

Các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức có liên quan ưu tiên nguồn lực, cơ chế chính sách và hành động quyết liệt để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng, tay nghề cao, phổ cập nghề cho thanh niên.

Phát triển kỹ năng lao động là quá trình được hình thành trong học tập, lao động và cuộc sống. Do vậy, thay vì tư duy đào tạo một lần để làm việc suốt đời, chúng ta cần thay đổi chuyển từ đào tạo một lần sang học tập thường xuyên, học tập suốt đời để không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp. Đào tạo, đào tạo lại để thích ứng với thế giới việc làm đang đổi thay là hết sức quan trọng. Mọi người lao động phải không ngừng học tập, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, liên tục sáng tạo để cải thiện năng suất và nâng cao hiệu quả lao động trong công việc.

Một vấn đề hết sức quan trọng, đó là nâng tầm kỹ năng lao động, không phải là nhiệm vụ riêng của một ai, mà là của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội. Cộng đồng doanh nghiệp và người sử dụng lao động cũng cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để triển khai kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động, đặc biệt là chính sách hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự đồng hành của các cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động và nhất là phát huy phẩm chất quý báu của người Việt Nam luôn có ý chí khắc phục khó khăn để vươn lên trong học tập, lao động và sản xuất sẽ nâng tầm kỹ năng lao động, đóng góp thiết thực, hiệu quả để đất nước ta chiến thắng dịch bệnh và phát triển thịnh vượng trong thời gian tới.

Xin trân trọng cám ơn Thứ trưởng!

Lệ Thu

Hà Nội cần làm gì để vừa bảo vệ thành quả chống dịch vừa phục hồi kinh tế?

 Sau chuỗi tháng ngày nỗ lực đẩy lùi làn sóng dịch Covid-19, Hà Nội cần làm gì để vừa bảo vệ vững chắc thành quả đã đạt được mà vẫn thích ứng an toàn, linh hoạt… với dịch bệnh để phục hồi kinh tế?

Kiểm soát được dịch bệnh là tiền đề để Hà Nội phục hồi kinh tế, phấn đấu thực hiện thành công "mục tiêu kép".

Góp phần vào thành công này, ngoài vào cuộc quyết liệt, nỗ lực của Thành ủy, UBND TP và các sở, ngành, địa phương thì Hà Nội còn có rất nhiều yếu tố khác và đặc biệt là sự chung sức, đồng lòng từ người dân thủ đô trong công cuộc phòng, chống dịch của thành phố.

PGS.TS Trần Đắc Phu - Nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng, Cố vấn cao cấp Trung tâm Đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam - đã có cuộc trao đổi với PV Dân trí về vấn đề này.

Hà Nội cần làm gì để vừa bảo vệ thành quả chống dịch vừa phục hồi kinh tế? - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Kiểm soát được dịch bệnh là tiền đề để Hà Nội phục hồi kinh tế, phấn đấu thực hiện thành công "mục tiêu kép" (Ảnh: Đỗ Quân).

Nhiều quyết sách chống dịch đưa ra được nhân dân tin tưởng

Là Cố vấn Trung tâm Đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam, PGS.TS Trần Đắc Phu có đánh giá chung như thế nào về chiến lược chống dịch và các biện pháp mà Hà Nội đã thực hiện trong 4 đợt giãn cách xã hội vừa qua?

- Tôi cho rằng các biện pháp và cách làm của Hà Nội trong 4 đợt giãn cách xã hội là đúng, trúng, kịp thời và tính đến thời điểm hiện tại, có thể khẳng định thành phố đã thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh trên địa bàn.

Góp phần vào thành công này, ngoài vào cuộc quyết liệt, nỗ lực của Thành ủy, UBND TP và các sở, ngành, địa phương thì Hà Nội còn có rất nhiều yếu tố khác.

Cụ thể, thành phố có hệ thống truy vết các ca bệnh, truy vết ổ dịch rất hiệu quả; có đội ngũ cán bộ cơ sở tốt; có tổ Covid-19 cộng đồng, chốt tự quản phòng dịch hoạt động hiệu quả; sớm thành lập tổ xét nghiệm cộng đồng… và đặc biệt là ý thức, sự đồng lòng của người dân sinh sống trên địa bàn đối với các biện pháp phòng, chống dịch của thành phố.

Ngoài quyết định giãn cách xã hội toàn thành phố, Hà Nội cũng đã đưa ra một quyết định khác mà tôi đánh giá là đúng thời điểm. Đó là Công điện số 14/CĐ-CTUBND ban hành ngày 12/7.

Theo đó, từ 0h ngày 13/7, Hà Nội yêu cầu dừng tất cả hoạt động kinh doanh dịch vụ không thiết yếu để phục vụ công tác phòng, chống dịch, cụ thể là: Nhà hàng, cơ sở dịch vụ ăn, uống tại chỗ (chỉ cho phép bán hàng mang về); dừng các cửa hàng cắt tóc, gội đầu; dừng hoạt động vui chơi, tập thể dục, tụ tập đông người tại công viên, vườn hoa và các địa điểm công cộng…

Hà Nội cần làm gì để vừa bảo vệ thành quả chống dịch vừa phục hồi kinh tế? - 2

Nhấn để phóng to ảnh

Chuyên gia đánh giá, Công điện số 14/CĐ-CTUBND được Chủ tịch Hà Nội Chu Ngọc Anh ban hành vào ngày 12/7 là quyết sách đúng thời điểm (Ảnh: Mạnh Quân).

Điều này cho thấy, thành phố đã đoán trước được tình hình dịch bệnh trên địa bàn ở thời điểm đó là rất khó lường, diễn biến rất phức tạp nên lập tức dừng các hoạt động có nguy cơ khiến dịch lây lan. Bên cạnh đó, Hà Nội cũng đã ban hành các chỉ thị mang tính đặc thù, phù hợp với đặc điểm của thành phố để phòng, chống dịch hiệu quả.

Ngoài ra, công tác xét nghiệm đối với các nhóm nguy cơ cao, khu vực nguy cơ cao, đặc biệt là việc xét nghiệm miễn phí tất cả các trường hợp ho, sốt trên địa bàn thông qua khai báo y tế của người dân hằng ngày… cũng được Hà Nội thực hiện bài bản. Hà Nội cũng đã tổ chức thành công chiến dịch tiêm chủng cho toàn dân.

Chính những quyết sách, biện pháp này đã tạo niềm tin cho người dân chung sức, đồng lòng trong công tác phòng chống dịch của thành phố, góp phần đẩy lùi làn sóng dịch thứ 4.

- Thành phố đã có nhiều yếu tố thuận lợi, nhiều quyết định được đánh giá kịp thời, quyết liệt nhưng vẫn phải giãn cách xã hội trong thời gian 60 ngày. Ông lý giải sao về điều này?

- Về điều này, chúng ta cần nhìn nhận một cách toàn diện, toàn cảnh để có thể lý giải được vì sao. Cụ thể, ở thời điểm Hà Nội quyết định giãn cách xã hội toàn thành phố, dịch bệnh và các ca mắc trong cộng đồng đã xuất hiện ở rất nhiều quận, huyện, thị xã.

Hà Nội cần làm gì để vừa bảo vệ thành quả chống dịch vừa phục hồi kinh tế? - 3

Nhấn để phóng to ảnh

PGS.TS Trần Đắc Phu - cố vấn Trung tâm Đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam, đánh giá các biện pháp và cách làm của Hà Nội trong 4 đợt giãn cách xã hội là đúng, trúng, kịp thời... (Ảnh tư liệu).

Trong khi đó, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; có mật độ di chuyển lớn, là đầu mối giao thông trọng điểm quốc gia… và trên thực tế, Hà Nội không thể "đóng cứng", vẫn phải có giao thương, vận chuyển hàng hóa.

Về góc độ chuyên môn y tế, chúng ta phải giãn cách đủ thời gian thì mới kiểm soát được dịch bệnh. Vì vậy, thời gian giãn cách đối với Hà Nội vừa qua là hợp lý và cũng phù hợp với kết quả xét nghiệm đánh giá nguy cơ.

Dễ dàng nhìn thấy, trước thời gian giãn cách, nhiều ổ dịch tại cộng đồng ở tất cả các quận, huyện còn ở thời điểm hiện tại chỉ còn rất ít ca F0 cộng đồng, đặc biệt là số lượng ổ dịch đã giảm đi rất nhiều và chỉ có ở một vài quận, huyện thuộc vùng nguy cơ.

Đương đầu nguy cơ và "bài toán" thích ứng an toàn với dịch

- Hà Nội đang từng bước nới lỏng các biện pháp phòng, chống dịch để khôi phục phát triển kinh tế, xã hội. Vậy trong thời gian tới, ông nhận định thành phố sẽ đối mặt với thách thức, nguy cơ nào?

- Địa bàn càng phức tạp, mật độ giao thông, sự giao lưu càng lớn thì càng nhiều nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Trên thực tế, khi các tỉnh, thành phố có dịch thì Hà Nội cũng sẽ có dịch.

Tuy nhiên, Bộ Y tế đang xây dựng hướng dẫn "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19" và như vậy trong thời gian tới, Hà Nội cũng không thể duy trì mãi 22 chốt liên ngành ở cửa ngõ để kiểm soát người ra vào thành phố.

Khi các chốt được tháo dỡ, thành phố sẽ phải đương đầu với nguy cơ nhiều hơn vì vậy càng cần có các biện pháp kiểm soát dịch hiệu quả hơn. Khi đó, Hà Nội càng mở cửa thì nguy cơ dịch xâm nhập vào càng cao nhưng không mở cửa thì nền kinh tế khó phục hồi.

Chính vì vậy, càng mở cửa, Hà Nội càng phải tăng cường kiểm soát, khống chế rủi ro. Điều này đồng nghĩa với việc thành phố sẽ phải thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát dịch hiệu quả chứ không phải buông xuôi, không kiểm soát.

Hà Nội cần làm gì để vừa bảo vệ thành quả chống dịch vừa phục hồi kinh tế? - 4

Nhấn để phóng to ảnh

Nếu không dỡ bỏ 22 chốt liên ngành nơi cửa ngõ, PGS.TS Phu nhận định điều này sẽ khiến nền kinh tế của Hà Nội khó phục hồi. Tuy nhiên, khi các chốt được dỡ bỏ thì nguy cơ dịch xâm nhập vào thành phố sẽ rất cao (Ảnh: Mạnh Quân).

- Theo ông, để dịch bệnh không bùng phát khi thành phố mở cửa, nới lỏng phòng, chống dịch thì Hà Nội cần thực hiện những biện pháp nào?

- Tôi cho rằng, để kiểm soát được tình hình dịch bệnh thì Hà Nội cần thực hiện đồng bộ rất nhiều các biện pháp.

Cụ thể, thành phố cần duy trì công tác xét nghiệm đối tượng nguy cơ (đặc biệt duy trì xét nghiệm các trường hợp ho, sốt trên địa bàn hằng ngày), vùng nguy cơ, truy vết thần tốc các trường hợp liên quan khi F0 xuất hiện trong cộng đồng. Khi ổ dịch xuất hiện cần phong tỏa theo tinh thần "nguy cơ đến đâu, phong tỏa đến đó", phong tỏa gọn nhất có thể để vẫn kiểm soát dịch hiệu quả mà tránh làm ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội.

Thành phố cũng cần phải nhanh chóng triển khai các phương án kinh doanh, sản xuất an toàn cho từng ngành nghề, từng lĩnh vực, từng địa bàn kết hợp với 5K. Đặc biệt, Hà Nội cần ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ phòng, chống dịch hiệu quả hơn nữa.

Bên cạnh đó, công tác tiêm chủng cần tiếp tục được duy trì để sớm tạo miễn dịch cộng đồng. Hà Nội cũng cần tính đến việc tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho các đối tượng là người địa phương khác trở lại làm việc, học tập… khi thành phố mở cửa, bước vào trạng thái "bình thường mới".

Một yếu tố khách quan khác cũng sẽ góp phần giúp Hà Nội kiểm soát được dịch bệnh, đó là sự tham gia, phối hợp của người dân đối với các quy định phòng chống dịch mà thành phố đưa ra. Trách nhiệm và ý thức thực hiện 5K, bảo vệ vùng xanh an toàn, bảo vệ thành quả sau những tháng ngày giãn cách của người dân trong công cuộc phòng chống dịch là vô cùng quan trọng.

Trân trọng cảm ơn ông!

Nguyễn Trường - Thế Kha

Cần một tinh thần dám nghĩ, dám làm và bảo vệ cán bộ như thời đầu Đổi mới

 Một trong những vấn đề quan trọng và cấp bách được dư luận quan tâm hiện nay, đó là tinh thần dám nghĩ, dám làm và bảo vệ cán bộ có tinh thần này vì sự nghiệp chung.

Cần một tinh thần dám nghĩ, dám làm và bảo vệ cán bộ như thời đầu Đổi mới - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Đây là vấn đề không mới bởi từ thời kỳ đầu của Đổi mới, đã xuất hiện nhiều cách làm hay, hiệu quả, tuy nhiên chắc chắn không khỏi có những sai lầm, có hoang mang, thậm chí có cả sự phản ứng khá quyết liệt. Song, với tinh thần và khí thế Đổi mới, đặc biệt là sự "bảo lãnh" của các vị lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng như Tổng Bí thư Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh… tinh thần này đã trở thành phong trào rộng khắp trong toàn Đảng, toàn dân.

Khi làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tập trung xây dựng Dự thảo quy định về "khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung".

Tại lễ nhậm chức, Thủ tướng Phạm Minh Chính một lần nữa khẳng định: "Lãnh đạo Chính phủ tuyên ngôn chủ động phòng ngừa, kiên quyết, kiên trì đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực bằng các cơ chế, giải pháp mạnh mẽ, chặt chẽ, hiệu quả hơn. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung".

Đây là chủ trương đúng và cấp thiết bởi công cuộc phát triển đất nước luôn luôn cần sự sáng tạo, cần những nhân tố dũng cảm đi tiên phong.

Song, cái mới là cái chưa có tiền lệ, là cái mong manh giữa thành - bại. Do vậy, để tránh "được" cũng chả "làm vua" nhưng "thua" thì… "thành giặc", cần xem xét thấu tình, đạt lý, tránh oan sai bởi sự oan sai, không chỉ bất công đối với cá nhân họ mà còn làm nản lòng, nhụt chí những cán bộ đương chức. Cần lắm sự sáng suốt và lòng bao dung...

Có lẽ đã đến lúc cần phải dấy lên tinh thần tiên phong của đầu Đổi mới bởi dù đã có sự phát triển khá mạnh, chúng ta phải vượt qua "cửa ải" của "bẫy" thu nhập trung bình. Muốn vậy, không có cách nào khác, cần một sự bứt phá và muốn có sự bứt phá, không thể không cần đến tinh thần sáng tạo, quyết đoán và muốn có sáng tạo, cần lắm một chính sách bảo vệ cán bộ có những đột phá này không chỉ hiện tại mà cả trong quá khứ.

Trên Tạp chí Cộng sản, ngày 15/9/2020, PGS.TS Dương Mộng Huyền bày tỏ: "Không có đổi mới, sáng tạo nào mà không gặp khó khăn, không có sự dấn thân nào mà không gặp trở lực… Trong đổi mới, sáng tạo, ranh giới giữa đúng và sai rất mong manh, không dễ phân biệt. Vì vậy, cần có sự phân minh, khách quan, công tâm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu trong việc phán xét, tích cực bảo vệ lẽ phải để không làm nhụt chí những người dám nghĩ, dám làm, nhất là trong bối cảnh hiện nay".

Đây cũng là sự mong đợi của lãnh đạo các địa phương như lời của ông Đỗ Đức Duy, Bí Thư Tỉnh ủy Yên Bái: "Chúng tôi là những người lãnh đạo địa phương rất tâm đắc với chủ trương này của Trung ương Đảng. Như vậy, lãnh đạo các địa phương sẽ tự tin và vững tâm hơn khi mình dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám mạnh dạn đổi mới vì mục tiêu phát triển của địa phương, cũng như của đất nước".

Còn theo GS Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, trong bối cảnh hệ thống pháp luật của chúng ta chưa thật sự đầy đủ, đồng bộ dẫn đến ranh giới giữa đột phá và sai lầm, giữa đúng và sai rất mong manh. "Người ta nói giữa anh hùng và tội đồ chỉ cách nhau một sợi chỉ thôi", ông Phú nói.

Tóm lại, đã đến lúc cần phải dấy lên phong trào dám nghĩ, dám làm và bảo vệ cán bộ của thời đầu Đổi mới.

Bùi Hoàng Tám

Trong đại dịch, cán bộ dám nghĩ, dám làm càng có cơ hội thể hiện mình!

 Cách phòng chống dịch ở quận 7 và huyện Củ Chi (TPHCM) cho thấy, giai đoạn khó khăn tạo điều kiện cho những cán bộ, đảng viên có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm nổi bật lên.

Trao đổi với PV Dân trí, ông Lê Quang Thưởng, nguyên Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương, nhận định, Kết luận số 14 của Bộ Chính trị làm cho cán bộ "yên tâm" hơn trong việc đổi mới, sáng tạo vì lợi ích của nhân dân, đất nước.

Phụ thuộc vào bản lĩnh từng cán bộ, đảng viên

- Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng vừa ký ban hành kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung (Kết luận số 14). Từng đảm nhận vai trò là Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương, ông nhận thấy kết luận này có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh hiện nay?

- Ngay từ thời điểm còn công tác hay hiện nay dù đã về hưu, tôi vẫn luôn ủng hộ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, với cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung thì có khi làm đúng, có khi sai. Đúng thì chúng ta phải có cơ chế khuyến khích, phát huy; còn sai thì cán bộ đó không nên giấu dốt, né tránh.

Để cán bộ, đảng viên phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung thì phải có cơ sở để cho họ thực hiện. Điều đó có nghĩa là phải rành mạch về mặt pháp luật, quy định phải đầy đủ để tạo hành lang pháp lý để bảo vệ họ. Bởi nếu không có những quy định này thì rất khó cho cán bộ dám nghĩ, dám làm.

Vì vậy, Kết luận số 14 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm vì lợi ích chung. Tuy nhiên, theo tôi Kết luận 14 không phải là "phép màu" thúc đẩy cán bộ dám nghĩ, dám làm trong mọi vấn đề. Bởi tư duy đổi mới, sáng tạo là do bản lĩnh của từng cán bộ, đảng viên.

Trong đại dịch, cán bộ dám nghĩ, dám làm càng có cơ hội thể hiện mình! - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Ông Lê Quang Thưởng, nguyên Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương. (Ảnh: VOV).

- Theo ông, làm thế nào để xác định được cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung?

- Đó là những cán bộ dám xông pha, không né tránh việc khó khi được tổ chức giao nhiệm vụ. Cán bộ dám nghĩ là những người có tư duy đột phá trong thực hiện nhiệm vụ. Còn cán bộ dám làm là những người biết biến tư duy đột phá có lợi cho nhân dân, có lợi cho đất nước thành hành động, công việc cụ thể.

- Nhìn từ các tập đoàn, công ty tư nhân cho thấy đất nước ta không thiếu những người dám nghĩ, dám làm có tư duy đổi mới đem lại lợi ích rất lớn cho công ty họ và đất nước nói chung. Tuy nhiên, trong cơ quan nhà nước dường như có ít cán bộ dám nghĩ, dám làm. Liệu có phải lâu nay do cơ chế còn thiếu, chưa rõ ràng nên cán bộ, đảng viên không phát huy hết khả năng của mình?

- Thực tế từ trước đến nay, chúng ta đâu có thiếu cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm. Trong đó, Luật Công chức viên chức, Luật Phòng chống tham nhũng… đều nói rõ trách nhiệm, quyền hạn và khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.

Theo tôi, với những cán bộ có tinh thần đổi mới vì lợi ích chung thì chỉ cần những quy định hiện hành cũng đã đủ hành lang pháp lý và cơ chế để bảo vệ họ. Ngoài ra, họ còn có cấp trên, có nhân dân luôn sẵn sàng đứng ra bảo vệ.

Trong cơ quan Nhà nước của chúng ta cũng không thiếu những cán bộ dám nghĩ, dám làm. Khi dịch bệnh Covid-19 ở TPHCM lan rộng như thế, nhưng Bí thư quận 7 và Bí thư huyện Củ Chi vẫn mạo hiểm "xé rào" để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của nhân dân. Thay vì chuyển hết F0 lên các bệnh viện tuyến trên, họ đã mạnh dạn chuyển đổi khu cách ly tập trung thành bệnh viện dã chiến để điều trị cho các F0 có triệu chứng nhẹ và vừa… Với cách làm đó quận 7 và huyện Củ Chi đã sớm kiểm soát được dịch bệnh.

Còn với những người luôn nghĩ đến việc thiếu cơ chế bảo vệ mà sợ đổi mới thì chỉ có về làm dân thường thôi. Mà thực tế, người không có tinh thần sáng tạo cũng không làm dân thường được đâu. Vì làm dân cũng phải có lòng quả cảm, dám nghĩ, dám làm chứ!

Đổi mới, sáng tạo từ "mệnh lệnh của trái tim"

- Kết luận 14 được ban hành, theo ông sẽ tạo "luồng gió mới" như thế nào để thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo của cán bộ, công chức, đặc biệt trong bối cảnh cả đất nước đang căng mình ra phòng, chống dịch Covid-19?

- Thực tế thời nào cũng có một bộ phận cán bộ trung bình chủ nghĩa, một bộ phận cán bộ tiêu cực và một bộ phận cán bộ dám nghĩ, dám làm. Với việc kết luận 14 được ban hành, theo tôi nó sẽ tạo động lực hơn nữa cho những cán bộ dám nghĩ, dám làm.

Như tôi đã nói về cách phòng chống dịch ở quận 7 và huyện Củ Chi (TPHCM) cho thấy giai đoạn khó khăn tạo điều kiện cho những cán bộ, đảng viên có tinh thần sáng tạo nổi bật lên. Nếu như những cán bộ ở 2 quận huyện này không dám nghĩ, dám làm, tìm mọi cách để khắc phục những khó khăn do thiếu cơ sở vật chất để phòng chống dịch; để F0 có triệu chứng nhẹ ở tuyến dưới điều trị và kết hợp cả thuốc đông y vào chữa bệnh… thì liệu có sớm kiểm soát được dịch bệnh hay không?

Kết luận 14 thực tế là để tạo tâm lý an tâm cho cán bộ dám nghĩ, dám làm. Còn những cán bộ như ở quận 7 và huyện Củ Chi là họ làm theo mệnh lệnh của trái tim và họ làm theo hướng dẫn của cơ quan chức năng.

- Tuy nhiên, trong đợt dịch vừa qua, dường như lãnh đạo nhiều tỉnh thành cũng thiếu quyết đoán trong phòng chống dịch Covid-19. Như TPHCM và Hà Nội khi Thủ tướng phải trực tiếp thị sát "vùng đỏ" Covid-19, đưa ra những quyết định quan trọng như xác định mỗi xã phường "là một pháo đài" trong phòng chống Covid-19 hay như di dời dân ra "vùng đỏ" Thanh Xuân Trung (Hà Nội), khi đó dịch bệnh mới được kiểm soát?

- Nếu việc gì cũng cần phải Thủ tướng vào cuộc thì không phát huy được năng lực của chính quyền địa phương, bởi chúng ta đã có cơ chế phân cấp, phân quyền rất rõ ràng trong quản lý điều hành rồi. Nhưng cũng có những vấn đề mang tính chiến lược mà chính quyền địa phương không dễ gì làm được. Ví dụ như việc di dời hơn 1.000 người dân ra khỏi ổ dịch ở Thanh Xuân Trung (Hà Nội) là việc khó, không phải dễ dàng đâu. Phải có yêu cầu của Thủ tướng, TP Hà Nội mới di dời cả ngàn người dân trong thời gian ngắn đến vậy.

- Cũng có những lo ngại về việc cán bộ, đảng viên dựa vào Kết luận số 14 "sáng tạo, đổi mới" để tạo lợi ích nhóm, trục lợi cho cá nhân. Theo ông, trong quá trình thực hiện Kết luận số 14, làm cách nào để phát hiện được những cán bộ có những hành vi như vậy?

- Để phát hiện những cán bộ có hành vi "đổi mới, sáng tạo" nhưng không trong sáng, chúng ta phải tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát. Lực lượng Thanh tra và Ủy ban Kiểm tra các cấp cần phải vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa để phát hiện ra những cán bộ lợi dụng chính sách để trục lợi cho cá nhân. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải dựa vào dân và các đoàn thể để phát hiện những cán bộ sáng tạo, đổi mới nhưng không vì lợi ích chung.

- Xin cảm ơn ông!

Quang Phong

Covid-19 tại Hà Nội: Thêm 6 F0, có 5 ca liên quan Bệnh viện Việt Đức

 Thêm 6 ca dương tính SARS-CoV-2 được ghi nhận tại Hà Nội vào sáng 4/10, trong đó có 5 ca liên quan chùm ca bệnh tại Bệnh viện Việt Đức.

Phân bố các ca dương tính mới theo chùm ca bệnh: chùm liên quan Bệnh viện Việt Đức (5 ca); chùm liên quan TPHCM (một ca).

Thông tin 6 ca F0 mới như sau:

Chùm liên quan Bệnh viện Việt Đức (5 ca)

Bệnh nhân N.N.L., nam, sinh năm 1963, địa chỉ tại Khoái Châu, Hưng Yên. Bệnh nhân là người nhà đi chăm người bệnh tại Khoa Phẫu thuật tiêu hóa, Bệnh viện Việt Đức.

Bệnh nhân X.H.Q., nam, sinh năm 2000, địa chỉ tại Đà Bắc, Hòa Bình. Bệnh nhân là F1 đang cách ly tại Trung tâm phẫu thuật đại trực tràng tầng sinh môn, Bệnh viện Việt Đức.

Covid-19 tại Hà Nội: Thêm 6 F0, có 5 ca liên quan Bệnh viện Việt Đức - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Xét nghiệm Covid-19 (Ảnh minh họa: Đỗ Linh).

Bệnh nhân L.H.A, nam, sinh năm 1991, địa chỉ tại Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm; bệnh nhân N.T.L., nữ, sinh năm 1950, địa chỉ tại Đông Anh đều là người bệnh điều trị tại Trung tâm phẫu thuật đại trực tràng tầng sinh môn, Bệnh viện Việt Đức.

Bệnh nhân L.T.H., nữ, sinh năm 1976, địa chỉ tại Kiêu Kỵ, Gia Lâm. Bệnh nhân là người bệnh điều trị tại tầng 7 nhà D, Bệnh viện Việt Đức.

Như vậy, chùm ca bệnh liên quan đến Bệnh viện Việt Đức đã ghi nhận 39 F0, trong đó có 31 ca tại Hà Nội.

Chùm liên quan TPHCM (một ca)

Bệnh nhân P.T.T, nam, sinh năm 1998, địa chỉ Đội Bình, Ứng Hòa. Bệnh nhân là người về từ TPHCM, được cách ly tập trung từ ngày 19/9. Ngày 3/10, bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm cho kết quả dương tính (CDC Hà Nội thực hiện).

Cộng dồn số F0 tại Hà Nội trong đợt dịch 4 (từ ngày 29/4) là 4.008 ca, trong đó số F0 ghi nhận trong cộng đồng là 1.603 ca, số F0 là đối tượng đã được cách ly là 2.405 ca.

Trung ương cho ý kiến về chủ trương phòng chống dịch trong tình hình mới

 Sáng 4/10, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã khai mạc tại Hà Nội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị.

Trước khi tiến hành chương trình Hội nghị, Trung ương đã dành một phút mặc niệm đồng bào, đồng chí, chiến sĩ hy sinh, từ trần vì dịch bệnh Covid-19 vừa qua.

Trung ương cho ý kiến về chủ trương phòng chống dịch trong tình hình mới - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Tại Hội nghị này, Trung ương sẽ xem xét, thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: tình hình phòng, chống đại dịch Covid-19 và quan điểm, chủ trương về phòng, chống dịch trong tình hình mới; tình hình kinh tế - xã hội năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2021, dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 và Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2022-2024.

Hội nghị sẽ xem xét, thảo luận, cho ý kiến chủ trương lùi thời điểm thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; sửa đổi, bổ sung Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm và một số vấn đề quan trọng khác.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, để chuẩn bị cho Hội nghị, thời gian qua, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ, các ban đảng và các cơ quan hữu quan tích cực chuẩn bị các báo cáo, các đề án và các tờ trình.

Tổng Bí thư lưu ý thêm một số vấn đề liên quan đến các nội dung và nhiệm vụ của Hội nghị, có tính chất gợi mở, nêu vấn đề để các đại biểu quan tâm trong quá trình nghiên cứu, thảo luận, xem xét và quyết định.

Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này là những vấn đề rất quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, bao gồm cả việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế - xã hội và việc thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, nghiên cứu, thảo luận sôi nổi, đóng góp ý kiến để hoàn thiện các báo cáo, đề án, dự thảo các nghị quyết, kết luận của Trung ương và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.

Theo chương trình, Hội nghị diễn ra từ ngày 4/10 đến 7/10.

Quang Phong

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gửi thư kêu gọi nâng tầm kỹ năng lao động

 Nhân Ngày Kỹ năng lao động Việt Nam 4/10, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc có Thư kêu gọi đồng hành nâng tầm kỹ năng lao động "Vì một Việt Nam chiến thắng dịch bệnh và phát triển thịnh vượng".

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gửi thư kêu gọi nâng tầm kỹ năng lao động - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc.

Dân trí xin giới thiệu toàn văn Thư của Chủ tịch nước. 

Lực lượng lao động có chất lượng, kỹ năng và hiệu quả cao là nguồn tài nguyên vô giá, là nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. 

Ngay từ những ngày đầu độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu tâm nhắc nhở chúng ta rằng "người Việt Nam phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà", còn "cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải biết làm việc cho có phương pháp".

Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ, và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cho nâng cao kỹ năng lao động. Vì lẽ đó, Tổ chức Kỹ năng nghề thế giới đã khuyến nghị các quốc gia chú trọng phát triển kỹ năng cho người lao động thông qua nhiều hình thức, thể hiện qua thông điệp "Kỹ năng của chúng ta, tương lai của chúng ta" và "Kỹ năng lao động mang đến giá trị đích thực".

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chủ động ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kỹ năng lao động. Và trên thực tiễn, lực lượng lao động có kỹ năng, nhất là những người có tay nghề cao, đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương và tri ân những đóng góp lớn lao của người lao động, các cơ quan, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp đối với phát triển của đất  nước.

Nhân Ngày Kỹ năng lao động Việt Nam 4/10 năm nay, tôi kêu gọi toàn thể người lao động trong cả nước không ngừng học tập, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, liên tục sáng tạo để cải thiện năng suất và nâng cao hiệu quả lao động trong công việc. Lúc này chúng ta còn cần nỗ lực hơn nữa để cùng chung tay vượt qua đại dịch Covid-19.

Tôi cũng đề nghị Quốc hội, Chính phủ, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cùng các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức có liên quan ưu tiên nguồn lực, cơ chế chính sách và hành động quyết liệt để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng, tay nghề cao, phổ cập nghề cho thanh niên.

Tôi cũng mong rằng cộng đồng doanh nghiệp và người sử dụng lao động tiếp tục tham gia tích cực vào sự nghiệp hỗ trợ đào tạo nâng cao kỹ  năng nghề cho người lao động, đặc biệt là đối với người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, để vững bước tiến vào tương lai. 

Tôi có một niềm tin chắc chắn rằng người lao động Việt Nam luôn phát huy tối đa phẩm chất và năng lực của mình để vươn lên trong học tập, lao động và sản xuất, góp phần đưa nước ta sớm chiến thắng dịch bệnh và thúc đẩy phát triển bền vững, thịnh vượng trong giai đoạn tới. 

Trân trọng gửi tới toàn thể người lao động và các cơ quan, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp trong cả nước lời thăm hỏi thân thiết và lời chúc tốt đẹp nhất.

Thân ái,

CỦNG CỐ THÊM NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI BỘ ĐỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH

 Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ Tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, thể hiện sự trung thành với Đảng với Tổ quốc và Nhân dân, cùng toàn Đảng, toàn dân tộc hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phát huy truyền thống anh hùng, trước những diễn biến phức tạp của các thách thức an ninh phi truyền thống, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xác định việc ứng khắc phục thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường... với tinh thần "vì dân nhân quên mình", "chống dịch như chống giặc", cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không quản khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản và cuộc sống bình yên của nhân dân. Những hình ảnh của cán bộ, chiến sĩ Quân đội dầm mình trong mưa lũ cứu giúp nhân dân các tỉnh Miền Trung, miền núi Phía Bắc, kịp thời có mặt ở những nơi nguy hiểm để cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường. Đặc biệt khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp Quân đội đã nhanh chóng tổ chức các khu cách ky, điểm chốt biên giới, tổ chức phun khử khuẩn và khẩn trương thành lập các bệnh viện dã chiến, bệnh xá cơ động để chữa trị cho nhân dân. Chống dịch cứu dân là mệnh lệnh từ trái tim của mỗi cán bộ, chiến sĩ, trong lúc khó khăn hiểm nguy bộ đội tìm đến với dân chứ không để nhân dân tìm đến bộ đội. Những câu nói thể hiện sự tin yêu bộ đội trong lòng mỗi người dân "bộ đội đến rồi, chúng ta không chết được đâu", những lời động viên tin tưởng của nhân dân đã thôi thúc cán bộ, chiến sĩ khắc phục khó khăn, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để cứu dân qua khỏi dịch bệnh.

Những hành động,cử chỉ tốt đẹp trên đây tiếp tục làm sáng đẹp thêm hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ"thời kỳ mới, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong xã hội, được nhân dân tin tưởng, ghi nhận, đánh giá cao. Đây cũng là những minh chứng đập tan luận điệu của các thế lực thù địch, các phần tử phản động muốn bôi nhọ hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" làm giảm niềm tin của nhân dân vào Quân đội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ hãy đoàn kết cùng nhau đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động để Quân đội thực sự là cầu nối vững chắc và tin cậy giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.

Câu trả lời từ thực tế

    Khi làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư bùng phát tại Việt Nam thì trên một số trang mạng xã hội cũng bùng phát một loại “virus” nguy hiểm không kém biến thể Delta, đó là việc xuyên tạc công tác phòng, chống dịch (PCD) tại Việt Nam. Đằng sau sự xuyên tạc này là những mưu đồ chính trị, “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
    Thực tế, sau thời gian nỗ lực phòng, chống, đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư đã từng bước được kiểm soát.
    Đợt dịch thứ 4 (từ ngày 27/4 đến nay), số ca nhiễm mới ghi nhận trong nước là 793.149 ca, trong đó có 657.902 bệnh nhân đã được công bố khỏi bệnh.
    Có 12/62 tỉnh, thành phố đã qua 14 ngày không ghi nhận trường hợp nhiễm mới trong nước là Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lai Châu, Hòa Bình, Yên Bái, Hà Giang, Thái Nguyên, Điện Biên, Hải Phòng, Ninh Bình, Thái Bình, Lạng Sơn.
    7 tỉnh, thành phố không có ca lây nhiễm thứ phát trên địa bàn trong 14 ngày qua là Quảng Ninh, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Nam Định.
    Trong ngày 1/10, số bệnh nhân được công bố khỏi bệnh là 27.250, nâng tổng số ca được điều trị khỏi là 636.081 người.
    Về tình hình xét nghiệm, từ 27/4 đến nay, Việt Nam đã thực hiện xét nghiệm 18.693.337 mẫu cho 53.346.601 lượt người.
    Tổng số liều vắc xin đã được tiêm là 42.888.157 liều, trong đó tiêm 1 mũi là 33.069.709 liều, tiêm mũi 2 là 9.818.448 liều.
    Trên cơ sở phân tích công tác PCD Covid-19 trong thời gian qua, chúng ta đã chỉ ra một số bài học kinh nghiệm cần thấm nhuần như: Không được chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, nhất là khi dịch chưa đến hoặc đã kiểm soát được tình hình, đồng thời tránh hoảng hốt, mất bình tĩnh khi dịch bùng phát, lây lan. Phải nhất quán, kiên trì trong lãnh đạo, chỉ đạo, song áp dụng linh hoạt vừa tập trung, vừa phân tán căn cứ đặc thù của từng địa phương, thời điểm. Việc phân cấp thực hiện phòng, chống dịch phải xuống tận cơ sở, lấy xã, phường, thị trấn là “pháo đài”, người dân là “chiến sĩ”, người dân vừa là trung tâm, vừa là chủ thể trong phòng, chống dịch. Tổ chức xét nghiệm tầm soát theo hướng dẫn của Bộ Y tế để phòng dịch tốt, nhất là tại địa bàn, đối tượng có nguy cơ cao; thấm nhuần phương châm “một đồng phòng dịch hiệu quả thì không mất hàng triệu đồng chống dịch, chưa kể đến sức khỏe, tính mạng và nhiều mất mát khác”.
    Như vậy, thực tế đã trả lời về hiệu quả công tác PCD Covid-19 của chúng ta.
    Trên cơ sở hiệu quả PCD, Ban chỉ đạo quốc gia PCD Covid-19 đã thống nhất chuyển chủ trương từ: “Không Covid” sang: “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch Covid-19”; vừa PCD hiệu quả, vừa khôi phục, phát triển kinh tế-xã hội.
    Sự thật đã được sáng tỏ. Thế nhưng các thế lực thù địch chắc chắn sẽ tiếp tục có những âm mưu, thủ đoạn mới, sẽ tiếp tục đăng đàn xuyên tạc, kích động nhằm tạo ra sự hoang mang trong xã hội. Mục đích nguy hiểm của chúng nhằm đánh lạc hướng, làm lung lạc niềm tin của nhân dân đối với công tác PCD Covid-19 ở nước ta. Sâu xa hơn là chúng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ định thành quả của cả hệ thống chính trị cùng tinh thần đoàn kết của dân tộc ta, muốn chúng ta đi chệch hướng.
    Thế nhưng dẫu có bôi nhọ và xuyên tạc đến đâu thì các thế lực phản động, cơ hội chính trị cũng không thể bẻ cong được sự thật, khi mà nhiều quốc gia, tổ chức uy tín trên thế giới đã và đang đánh giá cao Việt Nam trong xử lý đại dịch Covid-19. Điều đó khẳng định, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn đoàn kết một lòng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, PCD Covid-19 nói riêng.