Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2022

LÀM THẤT BẠI CHIẾN LƯỢC: "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH": SỨC MẠNH TRONG SỰ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI!

         Chúng ta đều biết rằng, muốn phát triển đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì phải phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố sự đồng thuận xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội...
     Chúng ta đều biết rằng, muốn phát triển đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì phải phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố sự đồng thuận xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Không có đoàn kết và đồng thuận, không có ổn định thì không thể phát triển. Các thế lực thù địch cũng hiểu rất rõ điều đó, cho nên chúng dùng mọi cách, sử dụng mọi biện pháp có thể để gây mất ổn định, tạo ra trong xã hội tâm lý bất mãn, chống đối đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch tìm mọi cách tiếp cận với những người chúng gọi là “dân oan”, lôi kéo, tạo ra lực lượng chống đối chính quyền, chống đối chế độ. Các tổ chức phản động lưu vong như “Việt Tân”, “Đảng nhân dân hành động”, “Viễn tượng Việt Nam”, “Ủy ban bảo vệ người lao động Việt Nam”… ở nước ngoài tập trung chỉ đạo các đối tượng trong nước, phát triển lực lượng nòng cốt trong số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tìm cách tiếp cận và “hỗ trợ” một số công nhân ở các khu

công nghiệp đình công, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện. Chúng sử dụng triệt để các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng Internet để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phê phán sự điều hành của Chính phủ; kích động tư tưởng chống đối; khai thác những vấn đề bức xúc về kinh tế, xã hội để kích động khiếu kiện, biểu tình, phá rối an ninh, trật tự xã hội. Âm mưu, thủ đoạn chống phá này thật nguy hiểm.

Càng gần đến Đại hội XI của Đảng, sự chống phá của các thế lực thù địch càng trở nên quyết liệt hơn với những thủ đoạn vừa ngấm ngầm, vừa công khai, trắng trợn, hết sức tinh vi, xảo quyệt. Chúng triệt để lợi dụng những khuyết điểm, hạn chế và sơ hở của ta trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chúng lợi dụng việc xử lý chưa tốt của một số cấp chính quyền, một số cán bộ và cơ quan chức năng trong những vụ việc cụ thể để xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật, gây tâm lý bất mãn, chống đối Đảng và Nhà nước, chống đối chế độ trong một bộ phận nhân dân và cả trong cán bộ, đảng viên. Điều nguy hiểm là, những thủ đoạn chống phá của chúng dễ làm cho không ít người lầm tưởng rằng đó là những hành động “vì dân”, “vì nước”; là sự “đồng cảm” với nỗi “oan trái” của nhân dân, là hành động “đứng về phía nhân dân”, “bảo vệ nhân dân”, song thực chất là làm cho dân “xa” Đảng và đối lập với Đảng.

Trong điều kiện hiện nay, trước sự phát triển của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, có nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh, Đảng và Nhà nước ta đã và đang cố gắng giải quyết để đưa đất nước tiến lên, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân. Những khuyết điểm, hạn chế của chúng ta là những khuyết điểm, hạn chế trong quá trình đi lên. Không phải vì những khuyết điểm, hạn chế cụ thể nào đó; không phải vì sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; cũng không phải vì việc giải quyết chưa tốt vụ việc nào đó mà có thể phủ nhận toàn bộ những kết quả và thành tựu đổi mới, gieo rắc tư tưởng bất mãn chế độ, chống đối Đảng và Nhà nước.

Đảng ta đã từng nhận thức rõ mối nguy hại của tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên có ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng và Nhà nước, thậm chí có thể ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển đất nước. Đồng thời, Đảng cũng đã và đang thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp kiên quyết thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng mà gần đây nhất là Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Điều đó cho thấy quyết tâm rất cao của Đảng và Nhà nước ta trong việc khắc phục những hạn chế và yếu kém, nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để tiến hành sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Cần nhận rõ rằng, những hoạt động biểu tình, khiếu kiện của nhân dân, công nhân, nông dân theo pháp luật, về bản chất, không phải là những hành động chống đối chế độ, chống đối chính quyền, mà chính là nhằm làm cho việc thực hiện pháp luật của Nhà nước được tốt hơn, nghiêm minh hơn, đảm bảo quyền lợi chính đáng và thực sự của người dân. Có điều là, trong các hoạt động biểu tình, khiếu kiện ấy, nếu để kẻ xấu kích động, lôi kéo, dẫn đến những hành động vi phạm pháp luật, gây rối, mất trật tự an toàn xã hội, chống đối chính quyền thì lại là điều nguy hiểm. Chắc chắn rằng, tuyệt đại đa số nhân dân ta không mong muốn như vậy, và cũng rất cảnh giác, không làm như vậy.

Song, sự chống phá của các thế lực thù địch là hết sức tinh vi. Chúng cố tình “khuếch đại”, “thổi phồng” những khuyết điểm, hạn chế, sơ hở của các cấp chính quyền, của Đảng và Nhà nước, coi các khuyết điểm, hạn chế đó trở thành vấn đề thuộc bản chất của chế độ, không thể sửa chữa. Và theo chúng, muốn sửa chữa được thì chỉ có thay đổi chế độ! Chúng len lỏi vào trong công nhân, trong nông dân và người lao động, trong đồng bào các dân tộc, các tôn giáo để kích động, lôi kéo và cả “hỗ trợ” về vật chất và tinh thần, làm cho một bộ phận quần chúng nhân dân dễ dàng mắc mưu của chúng.

Vì vậy, vấn đề quan trọng hiện nay là toàn Đảng, toàn dân ta càng phải nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ nghĩa yêu nước, tình yêu chế độ, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vào tiền đồ tương lai của đất nước, đồng lòng, đồng sức thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Theo đó, chúng ta cần phải tăng cường, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội, củng cố sự đồng thuận xã hội, nhất trí cao với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sức mạnh để vô hiệu hóa sự chống phá của các thế lực thù địch. Kiên quyết vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và bọn xấu thổi phồng những sơ hở, yếu kém, hạn chế của Đảng, Nhà nước ta, của các cấp chính quyền, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ Đảng, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định, an ninh của đất nước. Cùng với điều đó, cần chủ động, kịp thời cung cấp, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, không để kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo quần chúng nhân dân, làm “mất” cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, cần chú ý phát hiện sớm và giải quyết khẩn trương, kịp thời, đúng đắn các vấn đề bức xúc, các điểm “nóng” về khiếu kiện, đình công…, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân và người lao động, giữ vững ổn định chính trị - xã hội đất nước./.


Yêu nước ST.

TRĂM SỰ PHI LÝ PHÍA SAU "BỘ CÁNH TỰ DO TÔN GIÁO"!

         Một trong những nguyên nhân khiến các thế lực thù địch và đối tượng xấu thường xuyên bịa đặt, vu cáo về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là nhằm bẻ lái luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam theo các tiêu chuẩn phương Tây.
Những đòi hỏi
vô lý, quá trớn
Những năm qua, do cách nhìn thiên lệch, thiếu thiện chí nên một số cá nhân, tổ chức hoạt động dưới danh nghĩa “người bảo vệ” tự do tôn giáo và nhân quyền thế giới vẫn tung ra những thông tin thiếu khách quan, những nhận định sai trái về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.
     Điển hình là gần đây, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) công bố báo cáo về tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2021, trong đó nêu tình hình và kết quả thực hiện tôn giáo của 27 nước và một số thực thể, tổ chức trên thế giới mà USCIRF đánh giá là có những vi phạm “nghiêm trọng” hoặc “đặc biệt nghiêm trọng” để đề xuất Bộ Ngoại giao Mỹ đưa vào “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt” hoặc “danh sách cần theo dõi đặc biệt” về tự do tôn giáo, từ đó nhằm áp đặt chế tài với các quốc gia này trong hỗ trợ tài chính và hợp tác trên một số lĩnh vực.
     Trong nội dung báo cáo về Việt Nam, USCIRF đưa ra nhận xét với giọng điệu đầy kẻ cả rằng điều kiện tự do tôn giáo của Việt Nam trong năm 2021 không có gì khác biệt so với năm 2020. Và, thông qua việc đả kích tình hình bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, USCIRF thậm chí còn đòi sửa đổi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam.
     Phải khẳng định rằng, không chỉ riêng báo cáo năm 2021 mà các báo cáo thường niên của USCIRF đưa ra trong những năm gần đây đều được đánh giá là chưa chính xác, thiếu thiện chí, thiếu khách quan về tình hình tự do tôn giáo ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Thậm chí, ngay cả trong chính giới Mỹ và các tổ chức nhân quyền ở Mỹ cũng xuất hiện những ý kiến cho rằng, cách tiếp cận của USCIRF nặng về chỉ trích, không giúp cải thiện tự do tôn giáo trên toàn cầu đúng với mục đích mà Quốc hội và Chính phủ Mỹ đặt ra.
     Trên thực tế, Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo, trong đó có cả tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập và từng được ví như một “bảo tàng” về tín ngưỡng, tôn giáo của thế giới. Theo thống kê cập nhật từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và hơn 26,5 triệu tín đồ, chức sắc của các tôn giáo. Tính đến hết năm 2021 đã có 16 tôn giáo được Nhà nước Việt Nam công nhận, trong đó có Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa hảo...
     Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, bảo đảm công bằng, không phân biệt đối xử với các tôn giáo. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có đạo luật về tôn giáo, cụ thể là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội thông qua ngày 18-11-2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2018. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam quy định rất rõ các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
     Đồng thời, Nhà nước Việt Nam tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước và cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nhà nước cũng bảo hộ các cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo và tài sản hợp pháp của các cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, xâm phạm đời sống xã hội cũng như thân thể, tính mạng, sức khỏe của nhân dân... Và việc xử lý đối với các hoạt động vi phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo cũng dựa trên những quy định này.
     Quyền tự do tôn giáo là vấn đề có tính lịch sử, nghĩa là phụ thuộc vào từng thời điểm lịch sử cụ thể ở từng quốc gia, gắn với từng thể chế chính trị-xã hội và điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội cụ thể nhất định. Nói cách khác, không thể tồn tại một khái niệm về quyền tự do tôn giáo chung chung, trừu tượng mà không gắn với một bối cảnh và thực thể nhất định.
     Vì lẽ đó, không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc gia này để áp dụng hay đo lường, đánh giá mức độ quyền tự do tôn giáo ở một quốc gia khác. Đặc biệt, trên phương diện quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, thể chế chính trị bình đẳng, độc lập thì càng không thể đem tiêu chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để áp đặt lên một quốc gia khác và buộc quốc gia đó phải tuân theo.
     Đây cũng là những điều mà USCIRF hay bất cứ cá nhân, tổ chức nào đang muốn đưa ra những đòi hỏi quá trớn đối với việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cần phải học thuộc!

Cần xem lại
cách nhìn, quan niệm
về tự do tôn giáo
     Những năm gần đây, sự sôi động trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam được thể hiện ở việc liên tục gia tăng số lượng các cơ sở thờ tự trong tôn giáo và tín đồ. Bất chấp điều đó, các thế lực thù địch vẫn vu cáo Việt Nam ngăn cản tự do tôn giáo, không công nhận các tổ chức tôn giáo.
     Theo số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ, nếu như năm 1985, số lượng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam vào khoảng 14 triệu, thì đến năm 2021 đã tăng lên hơn 26,5 triệu. Thành tựu trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam còn được thể hiện qua sự gia tăng số lượng các trường đào tạo chức sắc.
     Tính đến tháng 4-2022, các tôn giáo ở Việt Nam có 66 cơ sở đào tạo chức sắc với 10.000 học viên đang theo học, riêng Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 47 cơ sở đào tạo, trong đó có 4 học viện Phật giáo. Các cơ sở thờ tự cũng được quan tâm sửa chữa, xây mới. Tính đến ngày 31-12-2021, cả nước có 29.800 cơ sở thờ tự của các tôn giáo, tăng thêm 5.800 cơ sở so với năm 2008.
     Hiện ở Việt Nam cũng có nhiều hệ thống tổ chức giáo hội có tầm hoạt động quốc tế, đặc biệt là Công giáo, Phật giáo và một số tổ chức tôn giáo có nguồn gốc nước ngoài du nhập vào Việt Nam, thể hiện thông qua việc mở rộng quan hệ với các tổ chức tôn giáo các nước và tiến hành các hoạt động thiện nguyện ở nước ngoài. Chẳng hạn như giữa tháng 6 vừa qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ trao tặng tài trợ, giúp đỡ nhân dân Sri Lanka vượt qua khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị tại đất nước này.
     Không chỉ phát triển mạnh mẽ về số lượng, các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc ở Việt Nam đã chứng tỏ tầm ảnh hưởng tích cực đối với đời sống, sẵn sàng đóng góp cho cộng đồng thông qua các hoạt động thiện nguyện và đồng hành với các hoạt động của đất nước, mà những gì diễn ra trong giai đoạn đại dịch Covid-19 phức tạp là một ví dụ điển hình.
     Những con số và ví dụ nói trên một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác khẳng định Việt Nam không phân biệt giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo hay không; không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới được công nhận.
     Thực tế cũng cho thấy, các tín đồ tôn giáo ở Việt Nam ngày càng đông và họ được tự do hành lễ dù ở nhà riêng hay nơi thờ tự. Mỗi người Việt Nam cũng thường có tín ngưỡng riêng, chẳng hạn như thờ cúng tổ tiên, ngày rằm mùng một thắp hương... nhưng vẫn có thể theo tôn giáo. Ngoài ra, nhiều lễ hội tôn giáo diễn ra hằng năm không còn là chuyện riêng của từng tôn giáo mà đã có sức lan tỏa lớn trong cộng đồng xã hội, qua đó làm giàu thêm đời sống tinh thần của nhân dân.
     Qua đó để thấy rằng, việc một số cá nhân, tổ chức nước ngoài thường xuyên bóp méo hoặc có cái nhìn sai lệch về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam có thể do mưu đồ rắp tâm chống phá Việt Nam thông qua vấn đề dân chủ, tôn giáo và nhân quyền, hoặc cũng có thể do sự khác biệt trong cách nhìn và quan niệm của họ về vấn đề này.
     Can thiệp sâu vào tình hình tự do nhân quyền cũng như tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các quốc gia khác và cố bắt các quốc gia ấy phải mặc “bộ cánh tự do tôn giáo” mang màu sắc phương Tây là điều không thể chấp nhận được. Bộ cánh ấy qua mô tả thì rất mỹ miều và hợp thời, nhưng liệu đã có ai thừa nhận sự chuẩn mực của nó?
Yêu nước ST.

Nhân loại đã, đang và sẽ trở về với Mác



Mác, Ăngghen, Lênin không phải là những “nhà tiên tri”, những ông “thầy bói của lịch sử” như mấy ai bôi nhọ hay huyễn hoặc. Các ông là những nhà cách mạng, nhà khoa học chân chính, thiên tài. Chủ nghĩa mà các ông sáng lập và đấu tranh không mệt mỏi để thực hiện nó, là hành động một cách dũng cảm và cách mạng biến cái lô-gích phát triển tất yếu của nhân loại, trên cơ sở giải phẫu các xã hội mà loài người đã và đang tồn tại, để các quốc gia, dân tộc đi tới tương lai.

BẮT 3 TAY NHÀ BÁO HOẠT ĐỘNG THEO NGUYÊN TẮC “SÁNG ĐĂNG, TRƯA GẶP, CHIỀU GỠ”!

     Chiều 27/7, Công an tỉnh Cao Bằng đã bắt quả tang các phóng viên và cộng tác viên của một số cơ quan báo chí, gồm: Nguyễn Hùng (báo Tài Nguyên - Môi trường), Công Hải (cộng tác viên báo Nông nghiệp Việt Nam), Nguyễn Văn (báo Pháp luật Việt Nam) đang nhận trên 100 triệu đồng của một doanh nghiệp.
     Trước đó, 3 phóng viên này (trong đó có phóng viên thường trú, phụ trách các tỉnh vùng Đông Bắc) đã móc nối với nhau để điều tra và đã đăng tải nhiều bài về sai phạm đất đai ở Cao Bằng, sau đó gặp gỡ với tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp để thỏa hiệp và có dấu hiệu tống tiền.
     3 phóng viên trên là đại diện cho “đám truyền thông bẩn" mà nhiều cơ quan nhắc tới trong thời gian qua: "sáng đăng, trưa gặp, chiều gỡ". Lợi dụng danh nghĩa phóng viên để tống tiền quan chức, doanh nghiệp, dưới mác chống tham nhũng, tiêu cực. Nhờ nhũng chiêu trò này mà không ít phóng viên chỉ sau vài năm hành nghề đã trở nên giàu có và rất "quyền lực"./.


Yêu nước ST.

NGUYỄN AN NINH - CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG KIÊN CƯỜNG VỚI 5 LẦN BỊ BẮT TÙ ĐÀY

 

Chiến sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh sinh năm 1900 trong một gia đình trí thức nho học, ông sớm có một tinh thần yêu nước nhiệt thành.
Thuở nhỏ ông học ở Sài Gòn, sau đó du học ở Pháp, gần 5 năm tham gia hoạt động ở Pháp trong nhóm “Người Việt Nam yêu nước” gồm: Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh mà những người Việt Nam đi du học, làm ăn ở Pháp thường gọi là nhóm “Ngũ Long”. Sau khi thi đậu cử nhân luật tại đại học Sorbonne, Pari năm 1920 và giao thiệp với nhiều nhà cách mạng lúc mới ngồi 20 tuổi.
Hoạt động cứu nước sôi nổi của Nguyễn An Ninh được bắt đầu bằng những bài diễn thuyết các đề tài “Xây dựng một nền văn hóa cho người Việt Nam” và “Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam”. Bài diễn thuyết “Cao vọng thanh niên” của ông đọc tại hội khuyến học Nam kỳ ở Sài Gòn vang vọng như một bản tuyên ngôn, kêu gọi Thanh niên và giới trí thức ý thức thân phận người dân mất nước mà hành động.
Ông cùng với Phan Văn Trường xuất bản tờ báo “Tiếng Chuông Rè” (La Cloche Félée) tại Sài Gòn để tuyên truyền và cổ động cho quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Tháng 3 năm 1926 ông bị bắt kết án 18 tháng tù, bị giam 10 tháng ông được ân xá, sau đó lại tiếp tục sang Pháp.
Năm 1928 ông trở về nước tích cực hoạt động. Cuối năm 1928, ông lại bị bắt kết án 3 năm tù với tội “Hội kín Nguyễn An Ninh”.
Cuối năm 1930 ra tù, ông vẫn đấu tranh chống thực dân Pháp. Ông đã đi sâu vào quần chúng ở nông thôn Nam kỳ, vừa bán dầu cù là để sinh sống vừa tuyên truyền giác ngộ quần chúng, vận động cách mạng. Rồi ông lại bị bắt trong tháng 4-1936.
Đến tháng 7-1937, chúng lại bắt giam ông cho đến tháng 01-1939.
Ngày 5-10-1939, ông bị bắt lần thứ 5, lần này bị kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo. Chế độ hà khắc ở nhà tù Côn Đảo đã giết chết ông ngày 14-8-1943 (nhằm ngày 14-7 âm lịch).
Cho đến hơi thở cuối cùng, ông vẫn không thôi nói lên lòng gắn bó với cách mạng: “Tôi tự nguyện làm một chiến sỹ vô danh của Đảng Cộng sản dù không phải là Đảng viên nhưng tim tôi đã hoàn toàn thuộc về Đảng”./.
* Ảnh chân dung đồng chí Nguyễn An Ninh (Nguồn: Ảnh tư liệu)
Có thể là hình ảnh về 1 người
9

THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VÀ NÉT ĐẸP VĂN HOÁ!

     Mỗi sáng thức dậy đã thấy lá cờ Tổ quốc màu đỏ tươi chính giữa là ngôi sao vàng năm cánh được các chiến sĩ trang nghiêm kéo lên và tung bay trước gió.
     Đó không chỉ là nghi thức quy định mà còn thể hiện nét đẹp văn hoá thiêng liêng, nhắc nhở lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ hôm nay và mai sau hãy nêu cao lòng yêu nước, chắc tay súng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta./.


Yêu nước ST.

CÁN BỘ, CHIẾN SỸ PHÁT HUY PHẨM CHẤT "BỘ ĐỘI CỤ HỒ" TRÊN CÁC MẶT CÔNG TÁC!

     Lịch sử gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của QĐND Việt Nam cho thấy, Quân đội luôn đồng hành với dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân, vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, đánh bại đế quốc, thực dân, đưa non sông thu về một mối và hiện nay đang giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, giúp nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
     Trải qua các giai đoạn cách mạng, trong bất luận mọi tình huống, trước mọi nhiệm vụ hay khó khăn, thử thách tột cùng, phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" luôn tỏa sáng trên mọi mặt công tác, vai trò của Quân đội luôn được khẳng định, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, cùng bạn bè bốn bể, năm châu./.




Môi trường ST.

MÓN QUÀ "DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN" CỦA MỸ TẶNG NHÂN DÂN THỦ ĐÔ NĂM 1972!

     Quả bom được thả từ pháo đài bay B52 xuống Hà Nội trong trận chiến 12 ngày đêm Điện Biên phủ trên không năm 1972.
     Loại bom này có tầm sát thương khoảng 1km vuông, có khả năng phá các lô cốt, hầm ngầm kiên cố (nghĩa là khi nổ thì cả làng đi toang). 
     Quà tặng của Mỹ thật là sâu và nặng! Đến nay người dân thủ đô vẫn chưa sử dụng hết. Việt Nam không hủy bỏ nó, mà đưa vào bảo tàng để chứng tích này chứng minh cho nền dân chủ, nhân quyền của Mỹ./.
Môi trường ST.

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2022

Nâng cao hiệu quả phối hợp hoạt động giữa CAND và QĐND trong đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 Để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cần phải huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội, tổ chức phối hợp lực lượng thật chặt chẽ, hiệu quả, phát huy vai trò xung kích của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.

“Diễn biến hòa bình” là một chiến lược tấn công toàn diện, thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bằng việc sử dụng tổng hợp các thủ đoạn, biện pháp, hình thức để chống phá chúng ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, chúng coi việc phá hoại về chính trị, tư tưởng, văn hóa là quan trọng hàng đầu, là khâu đột phá, mũi nhọn của cuộc tiến công. Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Chúng tung ra các quan điểm sai trái, thù địch nhằm tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, gây hoang mang, dao động về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa; chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, tán dương chủ nghĩa tư bản, cổ xúy cho tự do tư sản, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa dân túy, lối sống thực dụng, vị kỷ. Thông qua các blogger, đối tượng thù địch trong và ngoài nước đã cấu kết với nhau để tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu Đảng và Nhà nước, chia rẽ nhân dân với Đảng, xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, vu cáo, bôi đen chế độ ta. Thông qua việc truyền bá những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch, lối sống lai căng vào cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, từng bước thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tiến đến chuyển hóa Đảng, chuyển hóa chế độ, nhằm thực hiện mục tiêu “chiến thắng không cần chiến tranh”.

 

Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực, có tổ chức do lực lượng phản động, hay lực lượng ly khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành nhằm gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, lật đổ chính quyền ở địa phương hoặc trung ương. Bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội và những “chính thể” không theo sự chỉ đạo của một số nước phương Tây. Mục tiêu trực tiếp của bạo loạn lật đổ là lật đổ chính quyền cách mạng, lập nên chính quyền phản cách mạng ở địa phương hoặc ở Trung ương. Bạo loạn lật đổ có rất nhiều hình thức, như: Bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang và kết hợp giữa bạo loạn chính trị với bạo loạn vũ trang. Phương thức và lực lượng tiến hành cũng rất đa dạng, chủ yếu là dùng vật chất để mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, kích động quần chúng tiến hành mít tinh, biểu tình trái pháp luật theo sự chỉ đạo của chúng gây rối loạn tình hình an ninh chính trị... khi thời cơ đến, chúng sẽ dùng lực lượng phản ứng nhanh bên ngoài trực tiếp can thiệp để hỗ trợ cho các lực lượng bên trong đang tiến hành gây bạo loạn. Địa bàn có thể xảy ra bạo loạn là những tình hình an ninh chính trị phức tạp không ổn định nhất là tình hình dân tộc, tôn giáo; những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh; những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế khó khăn; những địa bàn mà hệ thống chính trị cơ sở hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, bị động... Thời điểm xảy ra bạo loạn: trong thời bình, đầu thời kỳ chiến tranh hoặc trong chiến tranh.

 

“Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó “diễn biến hòa bình” là cơ sở, điều kiện tất yếu của bạo loạn lật đổ. “Diễn biến hòa bình” được coi như là mặt trận xung kích đi trước để chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, lực lượng, tạo thời cơ cho bạo loạn lật đổ. Bạo loạn lật đổ là hệ quả tất yếu của “diễn biến hòa bình” và là cơ sở xã hội để thúc đẩy “diễn biến hòa bình” diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn, quyết liệt hơn. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang đẩy mạnh âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”; truyền bá tư tưởng, lối sống đồi trụy; đưa lực lượng bên ngoài vào cấu kết với bọn phản động và các phần tử xấu trong nước, tăng cường các hoạt động chống phá hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

 

Trước tình hình trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, trong đó chú trọng tới công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, tập trung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt là, Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã xác định rõ công tác đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội, đây chính là cơ sở quan trọng để các ban, bộ, ngành ở Trung ương, cũng như các địa phương triển khai lực lượng, phương tiện, biện pháp làm rõ âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch chống phá ta thông qua các luận điệu sai trái, thù địch; tổ chức đấu tranh trực diện trên mặt trận tư tưởng, lý luận.

 

Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, yêu cầu cấp thiết đặt ra đó là phải huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội, tổ chức phối hợp lực lượng thật chặt chẽ, hiệu quả, phát huy vai trò xung kích của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Công an nhân dân và Quân đội nhân dân. Từ thực tiễn công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng những năm qua cho thấy, Công an nhân dân và Quân đội nhân dân đã phối hợp chặt chẽ, đạt được nhiều kết quả tích cực, cụ thể là:

 

Thứ nhất, thực hiện nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã phối hợp chặt chẽ tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh, trật tự, như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VIII) về Chiến lược An ninh quốc gia, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; các chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về lĩnh vực bảo vệ chính trị nội bộ, tư tưởng, văn hóa, bảo đảm an ninh, trật tự, đã từng bước hoàn thiện cơ sở chính trị - pháp lý, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

 

Thứ hai, Đảng ủy Công an Trung ương, Quân ủy Trung ương thường xuyên quan tâm chỉ đạo lực lượng Công an, Quân đội phối hợp tuyên truyền, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch. Hai lực lượng thường xuyên trao đổi thông tin về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch, phản động; phối hợp xây dựng hàng chục phóng sự, hàng trăm tin, bài đăng tải trên chuyên mục “Chống diễn biến hòa bình” của Báo Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, phát sóng trên kênh truyền hình Công an nhân dân, Quốc phòng Việt Nam, đăng tải hàng nghìn bài viết trên các trang web, blog… góp phần vạch trần âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động, cô lập số đối tượng chống đối.

Lực lượng Công an và Quân đội thường xuyên phối hợp xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết với thế trận an ninh nhân dân trên cơ sở thế trận lòng dân một cách đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ, coi đây là giải pháp nền tảng trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, tăng cường mối liên hệ mật thiết, gắn bó giữa nhân dân với Đảng và lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, đã tập trung phối hợp tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân về âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, tích cực có chủ trương, giải pháp giúp nhân dân phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh, phát hiện, xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, tập trung giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện tranh chấp liên quan trực tiếp đến lợi ích chính đáng của người dân; phối hợp xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả các phương án, kế hoạch phòng, chống gây rối, biểu tình, bạo loạn, khủng bố, nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc…

 

Thứ ba, thông qua các buổi giao ban định kỳ, hai lực lượng thường xuyên trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm về những mô hình mới, cách làm hay, đem lại hiệu quả thiết thực trong chỉ đạo, tổ chức triển khai việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phối hợp chặt chẽ trong công tác chính trị, tư tưởng, bảo vệ chính trị nội bộ, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả mọi âm mưu, hoạt động phá hoại nội bộ, chia rẽ giữa Công an với Quân đội; đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống, ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch.

 

Có thể khẳng định, các thế lực thù địch, phản động sẽ không bao giờ từ bỏ âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ sẽ làm xuất hiện những biểu hiện cụ thể mới nảy sinh của các quan điểm sai trái, thù địch. Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta cần tập trung làm tốt một số nội dung sau:

 

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, làm rõ tính chất nguy hiểm của chiến lược “diễn biến hòa bình” và sự cần thiết phải phối hợp giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong đấu tranh làm thất bại chiến lược này. Thông qua đó, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong hai lực lượng thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, luôn tỉnh táo, xử lý kịp thời các tình huống diễn ra trong hoạt động thực tiễn theo đúng định hướng, không để kẻ địch lợi dụng. Mặt khác, phải phát huy vai trò của công tác thông tin, tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật, bảo đảm cho công tác này luôn bám sát nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ của Công an và Quân đội, giữ đúng định hướng chính trị, tích cực đấu tranh với những quan điểm sai trái, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch.

 

Hai là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Nhà nước đối với Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là vấn đề thuộc cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với lực lượng vũ trang; nhân tố quyết định hiệu quả phối hợp giữa hai lực lượng trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo đảm trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Công an và Quân đội luôn vững vàng, kiên định, không dao động trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Có đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, công tác phối hợp giữa Công an và Quân đội mới có đường hướng đấu tranh đúng đắn, nhất là trong những thời điểm khó khăn, phức tạp, khắc phục những sai lầm đáng tiếc xảy ra. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công an và Quân đội, vấn đề then chốt là phải xây dựng Đảng bộ Công an, Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các tổ chức đảng; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống tốt đẹp của hai lực lượng.

 

Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, giải pháp phối hợp giữa Công an và Quân đội, phát huy thế mạnh của mỗi lực lượng trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch, phản động. Trên cơ sở Cơ chế phối hợp đã được xác định trong Nghị định số 03/2019/NĐ-CP của Chính phủ về “Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng”, cần cụ thể hóa nội dung, biện pháp phối hợp ở từng cấp cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Hai lực lượng cần tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong công tác trao đổi thông tin, phân tích, đánh giá tình hình, thống nhất đề xuất các chủ trương, biện pháp đối phó với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Căn cứ tình hình thực tiễn, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Công an và Quân đội cần quan tâm chỉ đạo xây dựng và thống nhất kế hoạch phối hợp; phát huy thế mạnh của từng lực lượng, nâng cao khả năng dự báo về những âm mưu, thủ đoạn mới của chiến lược “diễn biến hòa bình” để tham mưu, đề xuất các chủ trương, giải pháp, cách thức phối hợp hiệu quả. Nghiên cứu đổi mới cơ chế điều hành phối hợp giữa hai lực lượng, phát hiện những điểm còn hạn chế, bất cập để khắc phục; duy trì nghiêm chế độ giao ban định kỳ; hỗ trợ, phối hợp hành động, trao đổi nghiệp vụ công tác, xử lý tình huống theo chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng. Trong đó, cần xác định những điểm mấu chốt, đột phá và những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phối hợp để phát huy, nhân rộng, tạo chuyển biến rõ nét trong phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt, cần chủ động xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch phối hợp hành động phòng, chống  “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, bảo vệ an toàn nội bộ, không để kẻ địch lợi dụng, chống phá.

 

Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò của báo chí, truyền thông trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân đối với nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bảo đảm tính tư tưởng, tính lý luận, tính chiến đấu và tính định hướng của báo chí Công an nhân dân và Quân đội nhân dân, cần phát huy vai trò của báo chí trong việc tạo dòng thông tin chủ lưu tích cực, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị trong nhân dân. Kiên quyết đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, khắc phục các biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích và các biểu hiện tiêu cực, lệch lạc xuất hiện trong nền báo chí cách mạng. Để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, báo chí Công an nhân dân và Quân đội nhân dân cần tăng cường giáo dục ý thức xã hội chủ nghĩa cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là thanh niên, sinh viên hiểu và nhận thức rõ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng… Báo chí cần tuyên truyền tinh thần yêu nước, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững phương hướng đúng đắn trong chỉ đạo dư luận, làm thất bại những âm mưu của “diễn biến hòa bình”./.

Tình hình mới và yêu cầu đặt ra đối với việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

 Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, có những vấn đề nổi bật cần được quan tâm trước tiên. Đó là cần nhận rõ tình hình mới, nhận diện đúng các quan điểm sai trái, thù địch và khó hơn nữa là xác định được những yêu cầu cần thiết để xây dựng các luận cứ đấu tranh có sức thuyết phục. Chỉ có nhận rõ tình hình mới trên phạm vi quốc tế và trong nước, mới tìm được những nguyên nhân và nguyên cớ của những quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời phải đặt ra được những yêu cầu cần thiết nhất mới có thể đưa ra những luận cứ xác đáng, thích hợp để đấu tranh đối với từng đối tượng cụ thể. 


1 Tình hình mới
1.1 Tình hình thế giới

Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đa cực hóa về trật tự chính trị, đa dạng hóa về phát triển văn hóa, tin học hóa trong đời sống xã hội, gia tăng hóa sự gắn kết, phụ thuộc vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau. Bối cảnh đó ẩn chứa nhiều chuyển biến lớn lao phức tạp khó lường, vừa mang đến cho con người những thời cơ, vận hội và tràn đầy hy vọng, vừa đặt ra trước mắt nhiều nguy cơ, thách thức và những lo lắng bất an.
Tình hình mới trên thế giới có thể nhận rõ qua những chuyển biến nổi bật.


Thứ nhất, sự chuyển dịch quyền lực theo hướng từ Tây sang Đông. Thế giới đã chứng kiến 3 cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế - văn hóa. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất là sự trỗi dậy của Châu Âu từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao thứ hai là sự trỗi dậy của Mỹ bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế đến cuối thế kỷ XX. Bước vào thế kỷ XXI, do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc, Nga và Ấn Độ, dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Đó là sự chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông và dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch lần thứ ba này đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, tập hợp lực lượng giữa các nước không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu. Cuộc xung đột Nga – Ucraina cũng là xung đột giữa Nga với NATO mà đứng đầu là Mỹ, chứng tỏ vị thế của Nga trên trường quốc tế đã khác trước và quyền lực của Nga phải được khẳng định. Đó cũng là điển hình của sự chuyển dịch quyền lực, làm cho cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh như vậy, sự cọ sát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, quyết liệt, tác động sâu rộng đến an ninh, chính trị thế giới.


Thứ hai, các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng. Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của vấn đề toàn cầu như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, nghèo đói và dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng. Trong những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn đó, thế giới đang chứng kiến đại dịch Covid-19 gây bao tai họa khiến hàng trăm triệu người nhiễm bệnh, hàng triệu người chết và hàng chục nghìn tỷ Đôla bị tiêu tốn, thất thoát. Còn nữa, các cảnh báo rất cấp bách là biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là các mối họa lớn, tác động tới an ninh và phát triển của nhiều nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
Cùng với những vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu nêu trên, an ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới. An ninh biển không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác như an ninh môi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do tác động của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở thành một trong những vấn để chi phối quan hệ giữa các nước.
Nguyên Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Moon đã nhận xét: “chân trời có vẻ tối đi". Thế giới đang ở trong thời kỳ có nhiều xáo động. Chủ nghĩa dân tộc nổi lên rất mạnh, chủ nghĩa phân hóa cũng đang phát triển và những tư tưởng cũng như hành vi cường quyền, cực đoan đang trỗi dậy. Trong khi các cuộc "Cách mạng màu" đã làm tan hoang một số nước tại Trung Đông, Bắc Phi; thì chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố quốc tế chưa bao giờ phức tạp như bây giờ. Chủ nghĩa khủng bố, điển hình là IS vẫn đang duy trì hoạt động tại Irắc, Syria và ở một số nước khác, đã không chỉ gây ra những bất ổn và biến động chính trị, quốc phòng, an ninh tại nhiều nước mà còn lôi cuốn nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực vào “chảo lửa" này. Nguy hiểm hơn, các tổ chức khủng bố đang mở rộng địa bàn hoạt động sang châu Âu, châu Á gây mất an ninh, an toàn xã hội. Những vụ tấn công nhằm vào Pháp, Bỉ, Anh, Nga, lan sang một số nước Đông Nam Á như Philippin, Indonesia cho thấy tất cả những điều đó không thể giải quyết trong một sớm, một chiều, mà sẽ kéo dài, vô cùng phức tạp.


Thứ ba, trào lưu dân túy có chiều hướng gia tăng. Trào lưu dân túy trong thời gian gần đây đang nổi lên mạnh mẽ ở các nước phát triển. Ở châu Âu, lần đầu tiên các đảng dân túy có mặt tại hầu hết các quốc hội, chiếm ít nhất 10% số phiếu ủng hộ tại 16 nghị viện châu Âu, là lực lượng lớn nhất trong quốc hội 6 nước (Hy Lạp, Hungary, Italia, Ba Lan, Slovakia và Thụy Sỹ). Trào lưu dân túy ở châu Âu có đặc điểm là phản đối xu hướng liên kết hội nhập, phê phán các chính sách ủng hộ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chống nhập cư, phản đối việc đặt lợi ích của EU lên trên chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ở Mỹ, trào lưu dân túy cánh hữu nổi lên có sự tham gia của nhiều thành viên Đảng Cộng hòa và một số thành viên Đảng Dân chủ theo khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết” để lôi kéo cử tri. Trào lưu dân túy hiện đang gây ra một số tác động khá tiêu cực. Ở trong nước, các trào lưu dân túy làm tăng thêm các mâu thuẫn nội bộ, đẩy tình trạng bất ổn lên cao, làm cho chính sách đối nội và đối ngoại bất định. Đối với bên ngoài, trào lưu này chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực, gắn ưu tiên thậm chí ly khai khỏi các cơ chế đa phương như trường hợp Anh rút khỏi EU, Mỹ rút khỏi TPP và rút khỏi Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu. Điều đó làm giảm hợp tác, tăng cạnh tranh, xung đột và do đó đưa đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế.


1.2 Tình hình trong nước
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, điều đó làm cho công tác lý luận nói chung và cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng, có một “cốt vật chất” vững chắc để thực hiện nhiệm vụ của mình. Nhưng mặt khác, những thách thức đối với cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch cũng không hề nhỏ mà lý do chính là những tồn tại, khiếm khuyết trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Trong những năm qua kinh tế vĩ mô của nước ta cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, nợ công tăng nhanh, nợ xấu giảm dần nhưng vẫn ở mức cao, sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. “Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới ... Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có một số mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút”.  Đánh giá 10 năm qua, Đại hội XIII của Đảng nhận định “kinh tế xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn nhiều khó khăn thách thức, công cuộc đổi mới tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa…” 
Có một vấn đề rất đáng quan tâm nữa là mọi tình hình thế giới và trong nước, cả mặt thuận và mặt trái đều có thể hấp thụ được qua nhiều cách, nhiều chiều trên nhiều phương diện. Việc nghe, nhìn, cũng như suy nghĩ của mỗi người trong điều kiện thông thoáng bên trong, mở cửa, hội nhập với bên ngoài hôm nay đã khác hôm qua. Điều đó có tác động lớn đến công tác đấu tranh tư tưởng.


1.3 Những âm mưu và thủ đoạn mới trong hoạt động chống phá của các thế lực thù địch
Chống phá chủ nghĩa xã hội, trong đó có cách mạng Việt Nam là âm mưu lâu dài, nhất quán và hoạt động thường xuyên của các thế lực thù địch. Hiện nay, một số thế lực chuyển hướng chống phá cách mạng nước ta bằng phương thức phi vũ trang thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”. “Diễn biến hòa bình” là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực thù địch với những phương thức hành động tổng lực, phức hợp, rộng lớn; được tiến hành trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội bằng mọi biện pháp. Âm mưu thâm độc mới mà các thế lực thù địch đang tăng cường là sử dụng con đường ngắn nhất để lôi kéo Việt Nam theo họ, dùng chính trị tác động đến thể chế xã hội, dùng kinh tế để chi phối sự lãnh đạo của Đảng, dùng văn hóa phương Tây để làm lu mờ bản sắc văn hóa và tinh thần dân tộc Việt Nam, dùng quần chúng để làm tăng sự đối lập giữa quần chúng với Đảng, với chế độ.
Với ý đồ đó, các thế lực thù địch thực hiện một loạt các bước chống phá được che đậy trong các hoạt động như ngoại giao thân thiện, chi phối đầu tư, viện trợ kinh tế, cấp học bổng cho sinh viên, nghiên cứu sinh, trao các giải thưởng cho các văn nghệ sĩ biến chất, tiếp cận và lôi kéo các phần tử thoái hóa để lũng đoạn nội bộ ta. Chúng ráo riết chống phá bằng các chiêu trò vừa công khai, vừa bí mật, kết hợp bên trong với bên ngoài ra sức tuyên truyền những quan điểm phản động hòng làm thay đổi quan điểm, lập trường chính trị của một số phần tử và phổ biến lan truyền nhân rộng đối tượng, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm xói mòn và suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, làm suy yếu hệ thống chính trị của chúng ta.
Thời gian qua, các thế lực phản động gia tăng các hoạt động “diễn biến hòa bình” trên các phương tiện thông tin đại chúng và Internet. Chúng duy trì sử dụng 63 đài phát thanh có chương trình Việt ngữ, trên 400 báo, tạp chí, 88 nhà xất bản tiếng Việt, hàng nghìn Website, blog. Trên các phương tiện đó, chúng đăng tải hàng ngàn, thậm chí hàng vạn tin, bài xuyên tạc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng thúc đẩy hình thành các hội, nhóm “xã hội dân sự” trong nước, hậu thuẫn cho những hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng chống chế độ; ủng hộ, cổ vũ, tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có biểu hiện hoạt động chống đối trong nước, tạo điều kiện kết nối với các mạng lưới phản động ngoài nước, tìm cách đưa người ra nước ngoài huấn luyện và tung về nước hoạt động chống phá.


2 Yêu cầu đối với việc xây dựng luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là một phần quan trọng của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, là bộ phận cốt yếu của cuộc đấu tranh tư tưởng, có tác động to lớn tới sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội. Đảng ta luôn khẳng định đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là một nhiệm vụ cấp thiết giúp chúng ta khẳng định quan điểm, lập trường và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, để đất nước ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh mới, có nhiều thuận lợi mới và không ít khó khăn, thách thức mới. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng để chúng ta vững bước đi lên. Điều đó làm cho công tác lý luận có một cơ sở thực tế mới, có một “cốt vật chất” vững chắc để thực hiện những nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, tình hình trong nước hiện nay vẫn tồn đọng một số vấn đề đáng được quan tâm giải quyết và cũng là những khó khăn đối với công tác lý luận và đấu tranh lý luận.
Bên cạnh đó, những thách thức đối với công tác lý luận từ bên ngoài tác động vào Việt Nam cũng không hề nhỏ. Đó là những nghịch lý và những diễn biến khó lường và khó dự báo của thế giới hiện nay. Ngay cả những giá trị cao đẹp và đích thực mà nhân loại dày công tạo dựng, vun đắp như hòa bình, độc lập, chủ quyền, công bằng, tiến bộ xã hội ... cũng bị những thế lực đế quốc phản động dùng mọi mưu mô đánh phá. Đã thế, có một tình hình là thông tin về mọi mặt đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội ở mọi nơi trên thế giới và trong nước, cả mặt thuận và mặt trái, đều có thể hấp thụ được qua nhiều cách, nhiều chiều trên nhiều phương diện. Từ đó trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải kế thừa những cách thức và phương pháp vốn có, đồng thời phải có cách làm đổi mới, sáng tạo để tìm ra được những luận cứ sắc bén. Điều căn bản nhất là thấy hết những yêu cầu mới đặt ra trong khi xây dựng các luận cứ mang tính khoa học và có tính thuyết phục để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lý luận hiện nay. Những yêu cầu đó thể hiện trên một số nội dung chính yếu sau: 


2.1 Phải nhận rõ những khó khăn, vướng mắc
Trong việc xây dựng các luận cứ cho cuộc đấu tranh lý luận, cần nhận rõ sự phức tạp trên con đường cách mạng nước ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên con đường đó, chúng ta gặp không ít khó khăn, không ít lực cản. Có những khó khăn do chính bản thân chúng ta không lường hết, khó khăn nội tại do chủ quan duy ý chí hoặc do bảo thủ trì trệ dẫn tới sự đình đốn thậm chí vấp ngã. Từ đó dẫn tới sự lúng túng và thiếu lý lẽ thậm chí bế tắc trong lập luận. Sự kiện ở Liên Xô trước đây và Đông Âu - những nơi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực tưởng như rất vững chắc, nhưng đã bị tan rã một cách nhanh chóng, đã cho ta bài học sâu cả về tính phức tạp của thế giới đương đại và những trắc trở, khó khăn của con đường đi tới tương lai của loài người. Vấn đề đặt ra là vận mệnh của chủ nghĩa xã hội sẽ phụ thuộc vào chính việc nhìn nhận rõ và khắc phục tốt những vướng mắc bên trong của xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất là khi chủ nghĩa xã hội chưa được xây dựng một cách hoàn hảo. Đó là những vấn đề nảy sinh từ tính phức tạp của thực tiễn mà ta chưa lường hết và có trường hợp từ sai lầm về nhận thức dẫn tới sai lầm về hành động, từ sự thiếu hiểu biết mà làm sai, làm ẩu; sự thiếu nhạy cảm nên chậm chạp để mất thời cơ, sự vi phạm nguyên tắc dẫn tới sự chệch hướng.
Thực tiễn quá trình cách mạng của chúng ta hiện nay cũng chứa đựng những vấn đề không đơn giản. Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập quốc tế là những nhiệm vụ tất yếu mà chúng ta đang tiến hành. Nhưng ai cũng biết, mặc dù chúng ta luôn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phát triển kinh tế thị trường càng mạnh thì tính tự phát của khuynh hướng tư bản chủ nghĩa cũng sẽ tăng lên. Chúng ta lại đang ở thời kỳ quá độ, trong đó nền kinh tế và cả xã hội cũng có những vấn đề quá độ đan xen nhau rất khó rạch ròi. Quá trình mở cửa hội nhập, chủ động làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa lại sử dụng những giải pháp và cách thức phát triển của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra nhiều thách đố đối với công tác lý luận và đặc biệt là công tác đấu tranh về lý luận để bảo vệ những nguyên lý và quan điểm, định hướng của chúng ta. 


2.2 . Phải xuất phát từ tư duy khoa học và sáng tạo 
Để có sức thuyết phục, mọi lý lẽ được sử dụng phải mang tính khoa học và sáng tạo. Chúng ta đều thấy rằng: Một mặt, lý thuyết về chủ nghĩa xã hội và xã hội xã hội chủ nghĩa được hình thành một cách khoa học, có khảo sát, phân tích thấu đáo trên cơ sở vận dụng những qui luật khách quan. Nhưng mặt khác, đôi khi chúng ta không chú ý hoặc vô tình bỏ qua một vấn đề quan trọng là những luận thuyết về chủ nghĩa xã hội được xác lập dựa vào những phương pháp trừu tượng rất cao. Phải tìm tòi và gạt bỏ những vấn đề, những yếu tố đặc thù, hoặc không cơ bản để đi sâu vào lý giải những vấn đề cốt lõi. Lý thuyết nguyên bản cội nguồn đó khi được áp dụng vào những tình huống cụ thể, lẽ ra phải tính tới sự gắn kết những điều kiện bên ngoài với bên trong và phải được soi rọi từ thực tế thì sự vận dụng nhiều khi biệt lập, không cân nhắc đến khía cạnh đó nên dễ bị khiên cưỡng và thường gặp những vướng mắc khó có thể tháo gỡ. 
Tính trừu tượng cao của chủ nghĩa xã hội khoa học chính là những nguyên lý chung nhất, mang tính phổ biến nhất có thể áp dụng cho mọi nơi, mọi nước. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể không tính đến, thậm chí phải hết sức tính đến những điều kiện đặc thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng một cách sáng tạo như thế. Trên cơ sở nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác-Lênin, Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết đó cùng với việc kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại để đưa ra những tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi, trở thành nền tảng tư tưởng bền vững của dân tộc và có sức lan tỏa ra thế giới.


2.3 Phải có cách nhìn nhận tổng thể
Để hình thành các luận cứ khoa học phải có cách nhìn tổng thể, không được phiến diện, tuyệt đối hóa một chiều và không công thức hóa. Phiến diện và tuyệt đối hóa sẽ dẫn tới làm mất đi tính khoa học của lý luận và tính phong phú của thực tế, làm cho lý luận bị ngưng đọng và không đủ uyển chuyển để tìm ra những luận cứ đấu tranh. Như khi luận bàn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta có lúc đánh giá nhìn nhận quá cao tác dụng “mở đường” của quan hệ sản xuất; lúc khác thì chỉ để ý đến vấn đề lợi ích, đến việc phát huy các yếu tố của lực lượng sản xuất nên coi nhẹ, thậm chí quên mất việc quan hệ sản xuất phù hợp cũng có những tác động chủ động và tích cực đối với lực lượng sản xuất. Vấn đề sở hữu cũng vậy, trước đây trong lý thuyết chúng ta chú trọng hết sức đến hai hình thức sở hữu trong xã hội chúng ta là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, coi đó là điều tuyệt đối đúng, là hình thức cơ bản đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Cho đến hiện nay, khi xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì xuất hiện những nhận thức lửng lơ, phó mặc, ít chú trọng tới việc củng cố, hoàn thiện các thành phần kinh tế mang tính chủ đạo, nền tảng là kinh tế nhà nước và hợp tác xã. 
Vấn đề công thức hóa cũng vậy. Khi nói về kết cấu và bản chất của chủ nghĩa xã hội, đôi khi chúng ta mô tả nó một cách công thức đơn giản, hời hợt, sơ lược, coi như không có mâu thuẫn; không nhìn thấy hết và không quan tâm hết đến các hệ thống lợi ích khác nhau của các tầng lớp xã hội. Tất cả những điều đó đã vô tình hạ thấp vị trí và vai trò của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và trên thực tế sẽ tạo ra những cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


2.4 Căn cứ từ thực tiễn
Luận cứ để đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch cần lấy căn cứ từ thực tiễn, quan tâm đến vấn đề của thực tiễn đặt ra. Nếu trong đấu tranh lý luận mà cứ đi theo công thức định sẵn, không chú ý đến các vấn đề mới nảy sinh trong kinh tế, không để tâm đến tâm trạng xã hội và tình cảm của nhân dân thì không thể đủ sức thuyết phục. Một khi công tác tư tưởng, lý luận cứ theo một khuôn khổ cứng nhắc, không đề cập đến những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh vào hoạt động của mình thì nhất định các tư tưởng lý luận xa lạ sai lệch sẽ xen vào. Trong những dạng thức tư tưởng dễ xâm nhập vào quần chúng, phải kể đến ý thức tư tưởng tiểu tư sản. Ý thức tiểu tư sản thường được “tái sinh” từ sự chủ quan của công tác tư tưởng nói chung và công tác đấu tranh lý luận nói riêng; từ những vi phạm nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trong sản xuất, phân phối và trong cả sinh hoạt đời sống đã động chạm đến lợi ích vật chất, quyền lợi của quần chúng lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ nghĩa thực dân, đứng lên giành chính quyền, xây dựng xã hội mới. Trên từng bước đường đổi mới gặp vô vàn khó khăn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chứng minh một cách rõ ràng cho quần chúng hiểu được những điều cụ thể, từng công việc cần làm và sẽ làm được nếu tất cả mọi người cùng giác ngộ, cùng quyết tâm, đồng lòng chung sức.


2.5 Mục tiêu là củng cố niềm tin
Luận cứ của cuộc đấu tranh tư tưởng phải hướng vào chủ đích là củng cố niềm tin, sao cho toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân tin vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng, quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một điều rất hiển nhiên là, triển vọng phát triển của đất nước phụ thuộc đáng kể vào tư tưởng và nhận thức của con người. Khi tư tưởng đã thông, thống nhất một cách nghĩ sẽ biến ý chí thành hành động, làm cho triệu người đồng lòng chung sức, tạo thành lực lượng vật chất to lớn thúc đẩy xã hội tiến lên. Yếu tố cốt lõi đưa tới thống nhất tư tưởng và hành động là niềm tin. Niềm tin trong mỗi con người là sự chắt lọc từ nhận thức và nằm trong chiều sâu nhận thức, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc định hướng tư tưởng và định hướng hành động. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân là keo gắn trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, tạo thành động lực to lớn giúp chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 


Để xác lập và củng cố niềm tin, điều cần thiết nhất là phải nâng cao trình độ giác ngộ, trình độ hiểu biết cho cán bộ đảng viên và nhân dân. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, đối với mỗi chúng ta, chỉ có tình cảm là không đủ, mà phải là tình cảm cách mạng dựa trên cơ sở lý luận khoa học vững chắc. Có như vậy mới định hướng đúng cho mình khi gặp những điều kiện và biến cố phức tạp trong một thế giới đầy xáo động, ngổn ngang, bất trắc khôn lường. Có như vậy mới đủ kiên định trước mọi thử thách của thời cuộc.