Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2022

Học tập phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam là tấm gương sáng về phong cách của một lãnh tụ, của người cán bộ mẫu mực của Nhân dân, vì Nhân dân, coi việc “đến với dân như sự sống cần đến không khí”. Sự sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể, thiết thực, bình dị và gần gũi trong phong cách của Người là những bài học có ý nghĩa to lớn trong việc học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách Hồ Chhí Minh của mỗi cán bộ, đảng viên.
Phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là chuẩn mực của một người cán bộ “công bộc của nhân dân”. Người luôn tin ở nhân dân và sống giữa lòng dân. Người coi nhân dân là động lực, là lực lượng quyết định trong sự nghiệp cách mạng nói chung cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Những bài học từ phong cách Hồ Chí Minh về tư duy, làm việc, diễn đạt, ứng xử, lối sống… có giá trị to lớn để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động nâng cao hiệu quả trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật hợp lòng dân...
Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Người; thể hiện một nhân cách lớn, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn. Đó là phong cách của một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ. Bên cạnh đó, trong phong cách Hồ Chí Minh còn ẩn chứa sự mộc mạc, chất phác của một người nông dân trên đồng ruộng, sự miệt mài, ý chí phấn đấu của người công nhân, sự nhân hậu, bao dung như ông Ké ở Việt Bắc, thân thương, gần gũi như người cha, người bác trong gia đình. Phong cách Hồ Chí Minh hàm chứa cả những nét truyền thống và sự hiện đại; phản ánh quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Điều đó đã tạo nên sức cảm hóa, chinh phục những ai đã từng biết đến, nghe kể, tiếp xúc và làm việc cả lúc Người còn sống hay đã đi xa về cõi vĩnh hằng. Một phong cách lớn đã làm xúc động nhiều người, nhiều thế hệ trên nhiều quốc gia, dân tộc và là tấm gương cho con cháu bao đời sau học tập, làm theo. Phong cách Hồ Chí Minh có những điểm nổi bật sau:
Về tư duy, nét đặc sắc của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không sao chép, không bắt chước, không theo đuôi. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ của mình; có bản lĩnh, lập trường tư tưởng vững vàng, không dễ dàng hoang mang, dao động; làm chủ bản thân và công việc của mình; tự chịu trách nhiệm về những suy nghĩ, hành động, việc làm của mình. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ đã được thực tiễn kiểm nghiệm là không đúng; những gì lạc hậu, lỗi thời; những cái cũ đã đúng trước kia nhưng đến nay không còn phù hợp, tìm tòi, đề xuất những cái mới đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Tính độc lập, tự chủ và sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh thể hiện rõ ở việc Người lựa chọn con đường cứu nước và sự tài tình, linh hoạt trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ để đi đến thắng lợi giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, để nhân dân được sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Vượt lên những hạn chế của thời đại mình, Hồ Chí Minh đã đúc kết nên những chiến lược và con đường cách mạng đúng đắn cho điều kiện, tình hình của đất nước. Đó là sự thể hiện của một tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại - một tầm vóc của nhà lãnh đạo cách mạng nhìn thấy tương lai tươi sáng của nhân loại ở thế kỷ XXI.
Về phong cách làm việc, là người giác ngộ và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm thể hiện một phong cách lãnh đạo dân chủ, sâu sát mọi việc. Một phong cách làm việc Hồ Chí Minh khoa học, khách quan, trung thực, luôn đổi mới. Đặc biệt là, một phong cách Hồ Chí Minh rất quần chúng, luôn gần dân, tin dân, trọng dân, dựa vào dân, gắn bó với nhân dân, thấu cảm và chia sẻ với đời sống của nhân dân; một phong cách chuẩn mực, coi trọng việc nêu gương, mọi lúc, mọi nơi, luôn nói đi đôi với làm để cán bộ, quần chúng noi theo. Bên cạnh đó, sự sâu sát, tỷ mỷ, cụ thể, thiết thực trong mọi quyết định, hành động của Người đã làm nên một con người Hồ Chí Minh suốt một đời tận trung với nước, tận hiếu với nhân dân.
Về phong cách diễn đạt, là nhà chính trị, nhà tuyên truyền, nhà báo, nhà thơ, nhà văn... đã có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại như báo chí, tiểu phẩm, thơ ca, truyện ký, kịch, văn chính luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một phong cách diễn đạt với cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực; diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng, có lượng thông tin cao; sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh, sự ví von, so sánh cụ thể; một phong cách diễn đạt luôn luôn biến hóa, nhất quán mà đa dạng.
Về phong cách ứng xử giao tiếp, Hồ Chí Minh đã tạo dựng một phong thái đặc biệt, đầy nhân văn, nhân bản của con người. Một phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh rất giản dị, gần gũi, ân cần, cởi mở, tế nhị và chu đáo với tất cả mọi lớp người; tình cảm chân thành, thái độ khoan dung độ lượng; xử lý một cách khéo léo, hiệu quả các tình huống giao tiếp xảy ra. Đây cũng chính là điều này tạo nên sức hấp dẫn lớn lao và sự cảm hóa kỳ diệu ở con người Hồ Chí Minh. Nhà thơ Xôviết Ôxip Manđextam đã viết về Người: “Cả gương mặt Nguyễn Ái Quốc toát lên sự lịch thiệp và tế nhị. Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai. Qua cử chỉ cao thượng và tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên biển lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”. Trong phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh, sự gần gũi, tế nhị hòa quyện với sự sâu sắc, lịch lãm; sự dung dị, đời thường lại thể hiện rõ tầm cao của tư duy bác học; rất chủ động nhưng tự nhiên, bình dị, chân thành, ân cần, tế nhị và luôn được thể hiện hết sức sinh động và phong phú dù người đối thoại là nguyên thủ quốc gia, lãnh tụ của một đảng, chính khách, trí thức hay là người công nhân, nông dân, là trẻ con hay cụ già. Điều đó làm xóa nhòa mọi khoảng cách, sự thú vị, ấm áp và vui vẻ nhờ thế đem lại hiệu quả giao tiếp cao.
Về phong cách sống, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất mực giản dị, thanh cao, đạm bạc về đời sống vật chất nhưng lại vô cùng phong phú về những giá trị đạo đức - tinh thần cao đẹp. Người nêu cao nếp sống cần, kiệm, liêm, chính; sống hài hòa với những giá trị thâm trầm, sâu lắng của văn hóa phương Đông và sự tiến bộ, hiện đại của văn hóa phương Tây; một con người giàu tình yêu thương nhân loại, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp... với những rung động, nhạy cảm bằng tâm hồn của một nhà cách mạng nhiệt huyết và người nghệ sĩ chân chính; sống có tình nghĩa.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác, mỗi cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Đảng và chính quyền các cấp đều là lực lượng thường xuyên trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp xúc với nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, với chính quyền ở cơ sở. Do vậy, việc học tập phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm hết sức ý nghĩa và thiết thực đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong hệ thống chính trị hiện nay.

Cảnh giác với những thông tin xuyên tạc liên quan đến hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam

 Lợi dụng việc Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam mới đây có thông báo về việc tạm thời ngừng cấp visa vào hộ chiếu phổ thông của Việt Nam mẫu mới (màu xanh tím than), các đối tượng xấu đã đăng tải, chia sẻ trên Internet, mạng xã hội những thông tin, luận điệu suy diễn, xuyên tạc, sai trái nhằm bôi nhọ danh dự, uy tín của Đảng, Nhà nước ta.
Những thông tin suy diễn, xuyên tạc, bôi nhọ với dụng ý xấu
Ngày 27/7, website của Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam đưa ra thông báo với nội dung, do hộ chiếu phổ thông mới của Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/7/2022) theo đánh giá và tiêu chí kỹ thuật của phía Đức có một số thông tin chưa tương thích nên tạm thời chưa được chấp nhận để xin visa nhập cảnh hoặc quá cảnh Đức. Thông báo của Đại sứ quán CHLB Đức cho biết, những người mang hộ chiếu phổ thông Việt Nam theo mẫu mới màu xanh tím than, có số serial bắt đầu bằng chữ “P” sẽ không thể nộp hồ sơ xin visa, đồng thời khuyến cáo, trong trường hợp đã được cấp thị thực cũng không nên đến Đức, bởi có nguy cơ sẽ bị từ chối cho nhập cảnh tại biên giới.
Ngay sau khi thông báo trên được đăng tải trên website của Đại sứ quán Đức và được các phương tiện truyền thông dẫn lại, chưa biết thực tình câu chuyện thế nào, trên một số diễn đàn Internet, mạng xã hội, các đối tượng xấu, thiếu thiện chí đã đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin, luận điệu mang tính suy diễn, xuyên tạc, sai trái theo kiểu công kích, miệt thị nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự của Bộ Công an, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam.
Luận điệu mà những người này đưa ra là: “Hộ chiếu Việt Nam thuộc hàng “tủi thân” trên thế giới”; “thứ hạng của hộ chiếu Việt Nam bị coi là thấp, thể hiện qua “năng lực di chuyển, nhập cảnh” (mobility score) thuộc hạng thấp, so với các nước khác”; “quyền lực của hộ chiếu thể hiện quyền lực của dân tộc”; “trong khi các nước khác đang ngày càng tăng khả năng ký kết các thỏa thuận miễn thị thực cho công dân của họ, chính phủ Việt Nam đã không có năng lực tạo tiến bộ trong lĩnh vực này”… Một số đối tượng thì đặt ra những câu hỏi theo kiểu “lập lờ đánh lận con đen” như: “Làm cách nào để “nâng quyền lực” của hộ chiếu Việt Nam?”; “để cải thiện “hình ảnh hộ chiếu Việt Nam” liệu chính phủ có làm được gì?”… Trong khi đó, một số người thì quay sang công kích Bộ Công an, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công an với giọng điệu chê bai, miệt thị. Đây rõ ràng là những luận điệu suy diễn, xuyên tạc vô căn cứ nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự của Bộ Công an, bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam với thế giới.
Hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam “đúng luật, đúng quy định”
Ngay sau khi Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam đưa ra thông báo về việc ngừng cấp visa vào hộ chiếu phổ thông của Việt Nam mẫu mới (màu xanh tím than), các cơ quan chức năng của Việt Nam đã nhanh chóng tiến hành các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đại diện Cục Quản lý Xuất nhập cảnh (Bộ Công an) cho biết sẽ tiến hành cùng với Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) làm việc với Đại sứ quán, lãnh sự Đức thông qua đường ngoại giao. Cục Quản lý Xuất nhập cảnh cũng cho biết, hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam được cấp theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và đạt tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là tiêu chuẩn của ICAO (Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế). Cũng theo Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, hộ chiếu mới được thiết kế công phu, trên mỗi trang là hình ảnh tiêu biểu về phong cảnh, hình tượng về chủ quyền quốc gia, di sản văn hóa nổi tiếng nhằm khẳng định và quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới. Ngoài ra, mẫu hộ chiếu phổ thông mới bảo đảm các kỹ thuật bảo an, khó làm giả.
Liên quan vấn đề này, Đại sứ Việt Nam tại CHLB Đức Vũ Quang Minh thông tin: “Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam vừa có thông báo do hộ chiếu phổ thông mới của Việt Nam (có hiệu lực từ 1/7/2022) theo đánh giá và tiêu chí kỹ thuật của phía Đức có một số thông tin chưa tương thích, nên tạm thời chưa được chấp nhận để xin visa nhập cảnh hoặc quá cảnh Đức. Theo thông tin của chúng tôi, các cơ quan chức năng của Việt Nam đang xử lý vấn đề kỹ thuật này và sẽ sớm có thông báo”.
Trong khi đó, Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) đã giao thiệp với Đại sứ quán CHLB Đức tại Hà Nội, đề nghị hai bên phối hợp tìm giải pháp tháo gỡ các khó khăn về mặt kỹ thuật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam nhập cảnh Đức và phù hợp với tinh thần Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Đức. Đại sứ quán Việt Nam tại Đức cũng đã liên hệ để thu xếp trao đổi trực tiếp với các cơ quan chức năng Đức về việc này.
Đừng lấy “thứ hạng hộ chiếu” để phán xét về “thứ hạng quốc gia”, “quyền lực dân tộc”
Thực tế, trong vấn đề hộ chiếu, cần phải có cách nhìn nhận đầy đủ, khách quan. Không thể chỉ vì một vài chi tiết về kỹ thuật chưa tương thích mà đã có thể đánh giá “quyền lực hộ chiếu”, “thứ hạng quốc gia”, “quyền lực dân tộc”. Ngay cả bảng xếp hạng quyền lực hộ chiếu của Henley & Partners cũng mới chủ yếu dựa trên cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Vận tải Hàng không quốc tế (IATA), với tiêu chuẩn về số lượng quốc gia và vùng lãnh thổ mà công dân mỗi nước có thể dùng hộ chiếu đi vào mà không cần xin visa trước. Với căn cứ đó, mỗi nước tùy vào điều kiện cụ thể để đưa ra quy định có thể tăng hay giới hạn độ mở của hộ chiếu, cho phép công dân đi đến bao nhiêu quốc gia mà không cần visa. Đây thực ra chỉ là một thủ tục chứ không có gì ghê gớm để nói “quyền lực hộ chiếu” hay “sức mạnh dân tộc”.
Không thể nói rằng, hộ chiếu đi được nhiều quốc gia thì nước đó văn minh, quyền lực hơn nước có hộ chiếu đến được ít quốc gia hơn. Không thể nói rằng thứ hạng hộ chiếu thấp thì giá trị quốc gia, quyền lực của dân tộc đó thấp hơn giá trị quốc gia, quyền lực của dân tộc có thứ hạng hộ chiếu cao hơn. Đây chỉ là một căn cứ của thủ tục hành chính, không phải cơ sở để đánh giá về thang giá trị, trình độ phát triển, sự văn minh, quyền lực của quốc gia, dân tộc.
Việt Nam là một đất nước đã có hàng ngàn năm văn hiến, dựng nước và giữ nước. Một dân tộc bất khuất, kiên cường, oanh liệt trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được cộng đồng thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia trên thế giới thuộc tất cả các châu lục, thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã 2 lần làm Chủ tịch ASEAN (2010, 2020); làm Chủ tịch Tổ chức Liên nghị viện ASEAN (AIPO, 2002), Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) (2010, 2020), 2 lần trúng cử với số phiếu ủng hộ rất cao để trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021), trong đó nhiệm kỳ 2020 – 2021 đạt số phiếu gần như tuyệt đối 192/193 phiếu, 2 lần là nước chủ nhà APEC (2006 và 2017); đăng cai thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018; tổ chức tốt cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần thứ 2 (2019).
Về quan hệ kinh tế, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia và có quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, cơ chế hợp tác kinh tế-phát triển hàng đầu như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, Việt Nam đã tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA “thế hệ mới” như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Có thể khẳng định rằng, sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa đến những thay đổi về chất trong thế và lực của đất nước. Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.
Mới đây, nhân chuyến công tác dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN – Mỹ, thăm, làm việc tại Mỹ và Liên hợp quốc của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, trong cuộc gặp với Thủ tướng Phạm Minh Chính tại thành phố New York ngày 16/5, Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc Amina Mohammed đã khẳng định Việt Nam là đối tác quan trọng và là người bạn của Liên hợp quốc, mong muốn hai bên tiếp tục phát triển quan hệ toàn diện, hiệu quả hơn. Bà Amina Mohammed nhấn mạnh: “Tiếng nói của Việt Nam rất quan trọng cho đoàn kết quốc tế. Trong bối cảnh thế giới trải qua nhiều khủng hoảng và khác biệt, Việt Nam luôn có tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ chủ nghĩa đa phương, hòa bình và cải cách Liên hợp quốc”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, những kết quả đã đạt được toàn diện sau hơn 35 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực đã không ngừng nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam. Cộng đồng quốc tế hơn lúc nào hết đang đánh giá rất cao vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam. Chưa khi nào trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, chúng ta có được vị thế và uy tín quốc tế cao như hiện tại.
Bởi vậy, đừng chỉ dựa vào một vài tiêu chí kỹ thuật chưa tương thích liên quan đến hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam mà cố tình miệt thị, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam. Những luận điệu trên chỉ là thiểu số và lạc lõng của một số người thiếu thiện chí, định kiến, hằn học trước sự phát triển của đất nước./.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở vùng Tây Nam Bộ

Lợi dụng những khó khăn, hạn chế trong phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương vùng Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long), thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động tăng cường các hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, qua đó chống phá Đảng và Nhà nước ta. Nhận rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động để từ đó đề ra những giải pháp phòng, chống có hiệu quả là một nhiệm vụ chính trị quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đưa vùng Tây Nam Bộ tiếp tục phát triển bền vững.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ, đầu tư, phát triển vùng Tây Nam Bộ. Sau hơn 35 năm đổi mới, 13 tỉnh, thành phố trong vùng đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam, hằng năm đóng góp bình quân khoảng 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% sản lượng trái cây, 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế – xã hội của vùng vẫn còn nhiều hạn chế; nhiều chỉ tiêu kinh tế được đề ra trong Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14-8-2012, của Bộ Chính trị “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011 – 2020” đến nay chưa thực hiện được (1). Chiếm 19% dân số cả nước nhưng vùng chỉ góp 12% GDP (năm 2019); thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) của vùng thấp so với cả nước; liên kết vùng còn lỏng lẻo; hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; thành tựu giảm nghèo có nguy cơ chậm lại; các chỉ số về giáo dục và đào tạo của vùng còn thấp so với mức trung bình của cả nước… Những năm gần đây, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn phải đối mặt với những tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu, suy giảm nguồn tài nguyên nước, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh…
Bản chất các luận điệu sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nam Bộ
Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lịch sử, những hạn chế trong phát triển kinh tế – xã hội, những khó khăn, thách thức mà đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương vùng Tây Nam Bộ đang phải đối mặt, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền xuyên tạc, tạo cớ để chống phá về chính trị. Các phương tiện truyền thông xã hội được các thế lực triệt để lợi dụng để chống phá, với một số thủ đoạn sau:
Về mục đích, các thế lực phản động muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ đồng bào các dân tộc Kinh – Khmer – Hoa – Chăm…, gây mất an ninh, trật tự, tạo điểm nóng chính trị, gây sự chú ý của dư luận quốc tế, kích động chống đối, thậm chí là bạo loạn để phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Về nội dung, ngoài những vấn đề đặc thù của vùng đất Tây Nam Bộ, như tôn giáo, dân tộc, lịch sử, chủ quyền…, còn có các vấn đề chung, như: Bôi nhọ lãnh tụ, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc tự do, dân chủ; phủ nhận thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, ngoại giao, quốc phòng – an ninh; lợi dụng các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế, như đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, phòng, chống dịch COVID-19, tình hình Biển Đông… để xuyên tạc, chống phá.
Về chủ thể, các tổ chức, cá nhân chống phá chủ yếu là những hội, nhóm trá hình các tổ chức mượn danh tôn giáo, dân tộc, các tổ chức phản động lưu vong, những phần tử cực đoan, bất mãn chính trị trong nước. Các hội nhóm và cá nhân trong nước thường có mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức bên ngoài, các tổ chức và cá nhân có tư tưởng bài xích Việt Nam. Ở các nước phương Tây có những tổ chức, như: Hội Ái hữu Khmer Campuchia Krôm (AKKK), Hội Bảo vệ nhân quyền Khmer Campuchia Krôm, Hội sư sãi Khmer Campuchia Krôm, Liên hiệp Ủy ban chủ nghĩa dân tộc (KKK)… Các tổ chức này móc nối, tài trợ kinh phí, kích động một số tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước ly khai khỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam; đòi thành lập cái gọi là “nhà nước Khmer Krôm tự trị” (?!)…
Một số đối tượng thanh niên do nhận thức hạn chế, bị lôi kéo, dụ dỗ “hùa” theo các trang mạng chống đối, đưa ra những thông tin không đúng sự thật để bôi xấu chế độ, vu cáo chính quyền vi phạm tự do, dân chủ, nhân quyền… Liên quan đến tôn giáo, một nhóm người hình thành cái gọi là tổ chức “Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo thuần túy” đối lập với Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, xuyên tạc Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, vu cáo chính quyền phân biệt đối xử, vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm quyền công dân…
Về cách thức, phổ biến nhất là lập các trang mạng để thông tin sai sự thật, bình luận theo hướng xuyên tạc các sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… trong nước và các địa phương. Các tổ chức ở nước ngoài hỗ trợ kinh phí cho các hội nhóm, cá nhân chống đối trong nước để kích động, xúi giục một số sư, tăng, đối tượng trong nước “ly khai”, chống đối.
Về tư tưởng, các thế lực xấu, thù địch chủ yếu kích động tư tưởng dân tộc cực đoan dưới nhiều hình thức, như: mượn cớ các vấn đề lịch sử, tôn giáo và dân tộc để xuyên tạc về lãnh thổ của Việt Nam, vu cáo Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, kích động tách Phật giáo Nam tông Khmer thành “một hệ phái độc lập”… Họ lấy “Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của các dân tộc bản địa” làm cái cớ để đòi Nhà nước ta công nhận các dân tộc thiểu số là “dân tộc bản địa”, có “quyền tự quyết”, từ đó đưa ra những đòi hỏi vô lý về chính trị, âm mưu chia tách, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Về hoạt động, các tổ chức này đều có trang web, đài phát thanh riêng… và dựa vào đó để tuyên truyền, kích động; lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo để truyền đạo trái phép. Họ gửi “thỉnh nguyện thư” đến các tổ chức nhân quyền quốc tế và các quốc gia kêu gọi lên tiếng “bảo vệ” người dân tộc thiểu số ở Việt Nam, gây sức ép đòi thả những người vi phạm pháp luật… Ở trong nước, các hội nhóm, cá nhân kích động biểu tình, tạo điểm nóng chính trị để gây sự chú ý của dư luận thế giới, được hà hơi tiếp sức bởi các tổ chức quốc tế, như Human Right Watch (Theo dõi nhân quyền – HRW), Amnesty International (Ân xá quốc tế – AI), Đài phát thanh Á châu Tự do (Radio Free Asia – RFA)…
Phát triển bền vững và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ: Giải pháp căn cơ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Từ những thủ đoạn chống phá trên của các thế lực thù địch, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch ở vùng Tây Nam Bộ đặt ra một số vấn đề cần lưu ý:
Thứ nhất, về mục tiêu: Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trước hết cần tập trung vào việc bảo vệ những vấn đề cốt lõi, nguyên tắc then chốt, luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc, tự do tôn giáo và tín ngưỡng, bảo đảm quốc phòng – an ninh, ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách đại đoàn kết dân tộc…
Thứ hai, về nội dung: Những vấn đề mang tính đặc thù của vùng đất Tây Nam Bộ, như về lịch sử, lãnh thổ, dân tộc… cần tiếp tục được nghiên cứu làm rõ, củng cố thêm các căn cứ lịch sử, pháp lý, từ đó đẩy mạnh tuyên truyền tạo sự thống nhất trong nhận thức của đông đảo nhân dân.
Để tuyên truyền thuyết phục, cần tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn. Chính sách đại đoàn kết dân tộc, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, chính sách xóa đói, giảm nghèo, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc… phải bảo đảm được thực hiện đầy đủ và hiệu quả trên thực tế, hướng đến sự phát triển bền vững của vùng Tây Nam Bộ. Bất cứ sự vi phạm nào đối với quyền con người, quyền bình đẳng giữa các dân tộc cũng sẽ tạo cớ để các thế lực thù địch chống phá.
Thứ ba, về chủ thể: Mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng trong hệ thống chính trị đều có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, thù địch, trong đó lực lượng chủ công, nòng cốt là ban chỉ đạo 35 các cấp, các cơ quan tuyên giáo, báo chí, lực lượng đấu tranh của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông… Cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là ở cơ sở, có năng lực và phẩm chất đạo đức, luôn gần dân, trọng dân, quan tâm chia sẻ và biết cách giải quyết những nguyện vọng, khó khăn của dân. Có như thế, chính quyền mới thật sự là chỗ dựa của người dân trong các vấn đề dân sinh, còn người dân là chỗ dựa của chính quyền trong các vấn đề về tổ chức và quản lý xã hội. Song song đó, quan tâm phát triển giáo dục – đào tạo để nâng cao trình độ dân trí, chọn lựa và đào tạo cán bộ ngay trong vùng đồng bào các dân tộc, xây dựng họ thành hạt nhân đoàn kết để lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối với đồng bào các dân tộc, do điều kiện sống còn khó khăn, điều kiện tiếp cận thông tin còn hạn chế, nên cần phải chú trọng công tác dân vận thông qua các trí thức, các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng. Bên cạnh đó, cần phân hóa các đối tượng chống đối, nhất là những đối tượng trẻ tuổi, để tuyên truyền, giáo dục, chuyển hóa.
Thứ tư, về cách thức: Việc tuyên truyền thông qua báo chí, các phương tiện truyền thông xã hội phải được xem là một mặt trận quan trọng. Cần nâng cao chất lượng, nội dung của các loại hình báo chí: báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử tiếng dân tộc. Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) và một số đài phát thanh, truyền hình ở vùng Tây Nam Bộ đã có chương trình tiếng Khmer với nội dung phong phú, được đồng bào quan tâm. Các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ đã có tờ báo tiếng Khmer và các trang điện tử tiếng Khmer… Vấn đề đặt ra là tạo điều kiện để các cơ quan thông tin đại chúng không chỉ là kênh tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà còn thật sự là diễn đàn, là nơi thể hiện tiếng nói của đồng bào các dân tộc thiểu số và các tôn giáo trong vùng Tây Nam Bộ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và các sư sãi, tầng lớp thanh niên để lực lượng này trở thành những nhân tố tích cực trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tích cực tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Cùng với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, đồng bào Khmer, Chăm, Hoa và các tôn giáo trong vùng Tây Nam Bộ còn có những hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đặc thù gắn liền với lịch sử và văn hóa tộc người, tạo thành các phong tục, tập quán, lễ hội giàu bản sắc văn hóa. Vì thế, chú trọng công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc và tôn giáo phải được xem là một giải pháp quan trọng trong thực hiện chính sách đại đoàn kết các dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc, các tôn giáo chính là nuôi dưỡng tính đa dạng trong thống nhất; tăng cường đoàn kết thông qua khẳng định sự đóng góp của các tộc người và các tôn giáo, xây dựng cơ sở của sự gắn kết dựa trên sự phát triển bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Chính trong sự đa dạng, các dân tộc sẽ nhận ra tính thống nhất và vị trí không tách rời của mình trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Chăm lo cho sinh kế và đời sống, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ, sự phát triển ổn định và lâu dài của đồng bào các dân tộc, sự phát triển tự do và hài hòa của các tôn giáo là vấn đề gốc, căn bản trong công tác đấu tranh tư tưởng. Khi đời sống đồng bào không ngừng được nâng cao, các dân tộc bình đẳng về cơ hội phát triển trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, giàu mạnh thì không thế lực nào có thể chia rẽ được khối đại đoàn kết dân tộc.
Phát triển bền vững các dân tộc cần hướng đến ba trụ cột: Bền vững sinh kế, bền vững văn hoá – giáo dục và bền vững về môi trường. Bền vững sinh kế giúp đồng bào cải thiện điều kiện sống, phát triển kinh tế gia đình, tạo sự bình đẳng về kinh tế. Bền vững văn hoá – giáo dục giúp bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao dân trí, qua đó bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển. Bền vững môi trường giúp đồng bào có một môi trường sống lành mạnh, an toàn. Đó cũng chính là thực hiện mục tiêu đại đoàn kết dân tộc trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở vùng Tây Nam Bộ./.
                                                                                           Theo TS Phan Công Khanh

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2022

CẢNH GIÁC TRƯỚC SỰ CHỐNG PHÁ QUÂN ĐỘI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH!

     Thời gian gần đây các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã tán phát nhiều tài liệu có nội dung chống phá Quân đội, nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, tác động xấu tới tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và dư luận nhân dân đối với Quân đội.
     Để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, mỗi cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về công tác bảo đảm an toàn thông tin, công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ nâng cao bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ của Quân đội và đơn vị; đồng thời nêu cao ý thức cảnh giác, nhận rõ và chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tích cực bảo vệ mình, bảo vệ nội bộ cơ quan, đơn vị. Quản lý chặt chẽ bộ đội, tình hình của cơ quan, đơn vị, các mối quan hệ của quân nhân, nhất là việc sử dụng các thiết bị điện tử thông minh của các đối tượng trong cơ quan, đơn vị. Tuyên truyền sâu rộng bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, những tấm gương bình dị, cao quý, hành động dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ, gương người tốt, việc tốt. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng địa phương nắm chắc tình hình ANCT, TTATXH và âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của kẻ địch và phần tử xấu trên địa bàn đóng quân; chủ động xây dựng kế hoạch, phương án phối hợp xử lý tốt các vụ việc, tình huống phức tạp xảy ra, giữ vững đơn vị an toàn, địa bàn an toàn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Chủ động nắm, quản lý, dự báo, thông tin định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trước các thông tin xấu độc, ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội./.




Yêu nước ST.

CÁN BỘ, CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI NHẬN DIỆN ĐÚNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI!

         Như chúng ta đã biết Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc và ngày nay là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.



Yêu nước ST.

DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA: NHÂN VIỆC "HỘI ĐỒNG NGUYỄN TỘC" ĐÒI XÂY LĂNG CHO VUA BẢO ĐẠI-VỊ VUA BÁN NƯỚC CẦU VINH!

         Nạn đói năm Ất Dậu (1945) đã lấy đi mạng sống của hơn 2 triệu người Việt. Đây không chỉ là sự kiện tàn khốc nhất trong lịch sử hiện đại Việt Nam, một vết sẹo trong ký ức dân tộc, mà còn là một trong những nạn đói kinh hoàng nhất từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.
Hơn 2 triệu người đã chế.t vì đói... Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi.
     Đây là tỷ lệ chế.t đó.i rất cao, vì dân số toàn Việt Nam năm 1945 chỉ khoảng 23 triệu, trong đó khoảng 9 triệu sinh sống ở các tỉnh xảy ra nạn đói.
     Ngoài các chính sách tô cao thuế nặng, Nhật còn đưa ra một “chương trình kinh tế chỉ huy” nhằm thực hiện một cách triệt để chủ trương quân phiệt của mình.
     Cụ thể, bắt đầu từ ngày 6-5-1941 Nhật buộc Pháp ký một hiệp ước kinh tế yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng năm.
     Bốn năm liền từ 1941-1944 Nhật - Pháp đã ký bốn hiệp định giao nộp lúa, ngô cho Nhật mỗi năm từ 700.000 - 1,3 triệu tấn, tương đương 50-80% tổng sản lượng lương thực VN thời đó.
     Để phục vụ chiến tranh, PX Nhật còn cần rất nhiều nguyên liệu từ những cây trồng có sợi, có dầu như đay, gai, bông, thầu dầu... nên chúng đã bắt rất nhiều vùng quê nhổ lúa trồng đay và các loại cây trên.
     Tài liệu của người Pháp thống kê: năm 1944 VN trồng tới 45.000ha đay, gấp chín lần diện tích của năm 1940 do 10 công ty độc quyền của Nhật thu mua, chế biến, kinh doanh thứ cây này.
     Cũng theo tài liệu trên, chiến tranh của đồng minh với Nhật tại Đông Dương khiến 50% hệ thống giao thông Nam - Bắc VN bị phá hủy, 90% phương tiện vận tải bị hư hỏng khiến việc đưa lương thực cứu trợ từ Nam ra Bắc càng thêm khó khăn.
     Chiến tranh làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ quân phiệt, đẩy người dân vào thả.m họa chế.t đó.i.
     Không chỉ làm số lượng lớn người chế.t đói, nạn đói còn khiến hàng trăm ngàn người phải rời bỏ quê hương, ly tán khắp nơi, nhiều người không còn quay về quê quán. 
     Nhiều gia đình, dòng họ bị tan vỡ sau nạn đói này, không thể tìm lại được người thân thích. Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945 đã mô tả rõ nét tình cảnh này./.


Ảnh 1: Hai em bé đổ cháo vào miệng bố, chụp tại Phủ Lý, Hà Nam.
Ảnh 2: Một người làm từ thiện đang rửa xương của những nạn nhân chế.t đ.ói. 
Ảnh 3: Xương những người chế.t đó.i ở trại Giáp Bát.
Môi trường ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 13 THÁNG 8 NĂM 1958!

         “Thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua”.
     Lời dạy của Bác Hồ trong “Bài nói với cán bộ và đồng bào tỉnh Nam Định”, ngày 13/8/1958.
     Đây là thời điểm miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng quê hương, thống nhất đất nước; phong trào thi đua yêu nước sau 10 năm thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, động viên, khích lệ đồng bào và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, phát huy ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, ra sức thi đua, đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; trong đó tỉnh Nam Định là một điểm sáng của cả nước, được Bác về thăm và nói chuyện; trong đó, Người căn dặn: “Thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua”.
     Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trở thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc Việt Nam vượt lên mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này, đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Chính vì vậy, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua các phong trào thi đua đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đoàn kết chặt chẽ thì sức mạnh thi đua càng mạnh, phong trào thi đua càng có sức lan tỏa sâu rộng, kết quả đạt được càng toàn diện và vững chắc.
     Học tập và làm theo lời Bác dạy, phong trào thi đua Quyết thắng trong quân đội được cấp ủy, chỉ huy, hội đồng thi đua - khen thưởng, cơ quan chính trị các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm với nhiều phong trào đã gắn với lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu biểu như: “Giết giặc lập công”, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Bám thắt lưng địch mà đánh”, “Một tấc không đi, một ly không dời”, “Yêu xe như con, quý xăng như máu”… đã phát triển sâu rộng, có sức lan tỏa mạnh mẽ, đã động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ vượt qua mọi hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Trước yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phong trào thi đua Quyết thắng tiếp tục có bước phát triển mới, đồng hành, gắn chặt với từng lĩnh vực công tác, luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, đặc điểm, tình hình hoạt động của mỗi loại hình cơ quan, đơn vị trong toàn quân được cán bộ, chiến sĩ tích cực hưởng ứng thực hiện và đạt được kết quả tích cực, tạo động lực tinh thần to lớn cho toàn quân hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
Môi trường ST.

Phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta

 


 

Trong tình hình hiện nay, Âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, tuy chưa thể làm cho Quân đội ta “biến chất”, mất phương hướng và mục tiêu chính trị, nhưng tác động của nó vô cùng nguy hiểm. Bởi vì, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch đã và đang ít nhiều có ảnh hưởng tiêu cực đến tiềm lực chính trị - tinh thần của Quân đội ta, đến tư tưởng, đạo đức lối sống của cán bộ, chiến sĩ.

Để phòng chống “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta hiện nay, cần làm tốt những giải pháp cơ bản sau:

Một là: Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ.

Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ là yếu tố cơ bản, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội và từng đơn vị; đồng thời, giữ vai trò định hướng thúc đẩy hành động và hành vi tích cực của bộ đội, V.I. Lênin đã từng khẳng định: “Thắng lợi hay thất bại của cuộc chiến tranh phụ thuộc vào tâm trạng của người cầm súng đang đổ máu trên chiến trường”. Do đó, sức mạnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta đều bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc với bản lĩnh chính trị vững vàng. Đó là niềm tin sắt đá vào con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, niềm tin tất thắng vào mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội đã tạo nên sức mạnh vĩ đại trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Quân đội và Nhân dân ta.

Hai là: Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xây dựng mọi phương án chiến đấu, luyện tập thành thạo các phương án không để bị động, bất ngờ khi có tình huống xảy ra.

Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, luyện tập và thành thạo các phương án chiến đấu là một trong những nhân tố bảo đảm cho các đơn vị trong quân đội đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Đồng thời, đây còn là giải pháp trực tiếp đánh bại âm mưu thủ đoạn của kẻ thù hòng phá hoại quân đội về tổ chức, làm suy giảm khả năng chiến đấu, vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội ảnh hưởng trực tiếp đến yếu tố chính trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng tổ chức đảng là then chốt. Duy trì chặt chẽ đơn vị theo nền nếp chính quy và các chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm đơn vị luôn nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Ba là: Thường xuyên củng cố và phát huy vai trò các tổ chức, quản lý chặt chẽ đơn vị về mọi mặt thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình”.

Phòng chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị, trước hết là ở các đơn vị cơ sở trong quân đội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng địa bàn, trực tiếp tiếp xúc với các thành phần xã hội và tiến hành công tác vận động quần chúng, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của địch, đồng thời cán bộ, chiến sĩ cũng là những đối tượng mà địch chú ý tác động phá hoại; kẻ địch thường lợi dụng những kẽ hở, khâu yếu, điểm yếu của ta, những địa bàn, đơn vị có những vấn đề phức tạp, bộc lộ những yếu kém để chọn làm điểm đột phá, từ đó phát triển chống phá ta trên phạm vi rộng hơn.

Bốn là: Phối hợp với địa phương và các đơn vị bạn xây dựng địa bàn vững mạnh, an toàn, kịp thời ngăn chặn và đập tan khi có tình huống bạo loạn xảy ra.

Xây dựng cơ sở vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong tình hình hiện nay, là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống “Diễn biến hòa bình” của địch có hiệu quả, thì một trong những biện pháp quan trọng là phải không ngừng tăng cường đẩy mạnh các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nhằm tạo cơ sở chính trị, tinh thần cho quá trình thực hiện nhiệm vụ, phát huy sức mạnh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi người trong và ngoài đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hào bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng đối với quân đội bằng nhiều thủ đoạn vô cùng tinh vi, xảo quyệt. Do đó, thực hiện đồng bộ những giải pháp trên sẽ góp phần phòng, chống và làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay./.

 

Một số giải pháp ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay

 


Hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên không giữ được phẩm chất, bản lĩnh của người đảng viên cộng sản, suy thoái về đạo đức, lối sống. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn… Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường”.

Để nâng cao hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần nắm vững và thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao trình độ lý luận và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là giải pháp cơ bản, giữ vai trò nền tảng trong nâng cao hiệu quả đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức Đảng.

Cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới toàn diện, mạnh mẽ về nội dung, phương thức công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối đổi mới. Nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; giữ vững bản chất cách mạng của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đổi mới hình thức, phương pháp học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết của Đảng, kết hợp chặt chẽ hình thức phổ biến, quán triệt làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn với gợi mở những vấn đề thực tế đang đặt ra với các hình thức tọa đàm, trao đổi, phát huy tìm tòi, sáng tạo của mỗi cá nhân; đồng thời, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học để làm rõ những quan điểm, chủ trương của Đảng.

Hai là, xác định rõ vai trò, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất trong mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị, nên có vai trò quan trọng đối với việc phòng, chống, ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.

Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ chủ trì. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở; nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Đảng viên dù giữ cương vị, trọng trách nào cũng tham gia sinh hoạt và chịu sự quản lý, giáo dục, rèn luyện của chi bộ. Cấp ủy cơ sở là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết, đại biểu cho trí tuệ, ý chí của tổ chức cơ sở đảng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào số lượng, cơ cấu của cấp ủy, phẩm chất, năng lực của các cấp ủy viên.

Bốn là, duy trì thực hiện nghiêm các nguyên tắc, chế độ, quy định và tích cực đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đây là giải pháp rất quan trọng để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên hiện nay. Cấp ủy cơ sở và các chi bộ thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là các nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy, ủy ban kiểm tra và quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu (công tác cán bộ, tài chính, kế hoạch đầu tư, xây dựng cơ bản). Giải quyết tốt mối quan hệ tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, thực sự dân chủ, phát huy trí tuệ của tập thể cấp ủy, chi bộ và phát huy vai trò trách nhiệm dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu; kiên quyết khắc phục các biểu hiện dân chủ hình thức, độc đoán chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa, lợi dụng danh nghĩa tập thể để trục lợi hoặc tranh công, đổ lỗi...

Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống, phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội về chính trị. Hiện nay, các thế lực thù địch bên ngoài câu kết với các phần tử cơ hội phản động trong nước ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá quyết liệt trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong. Mục đích của chúng là xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hướng lái đất nước đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Sáu là, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng ở tổ chức cơ sở đảng. Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng và là nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát không những góp phần đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được xác định đúng đắn, chính xác và được chấp hành triệt để, mà còn là biện pháp cơ bản, quan trọng để quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời là biện pháp hữu hiệu để khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”./.

 

Giải pháp nâng cao hiệu quả và vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch

 


- Tiếp tục giữ vững, củng cố và nâng cao niềm tin về mục tiêu lý tưởng cách mạng. Phải nhận thức rõ trong quá trình đấu tranh tư tưởng, đấu tranh và đi lên của sự nghiệp cách mạng, bên cạnh những ưu điểm là cơ bản, tất yếu không tránh khỏi những sai lầm, vấp váp, khuyết điểm. Trách nhiệm chính trị lúc này hơn lúc nào hết phải tích cực nghiên cứu, đề cao trách nhiệm tham gia những ý kiến xác đáng, mang tính xây dựng cho Đảng, cho đường lối, nghị quyết của Đảng.

- Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cách mạng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.Nhận thức là cơ sở của hành động, nhận thức đúng dẫn đến hành động đúng đắn và ngược lại. Do đó, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời triển khai thực hiện đúng đắn quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước nhằm khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, tự hào về thành tựu to lớn do Đảng, Nhà nước, nhân dân lao động sáng tạo ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

- Tiếp tục củng cố “thế trận”, tổ chức lực lượng đấu tranh kịp thời, sắc bén và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, các cấp ủy đảng cần chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đấu tranh trọng tâm, sát với sự chỉ đạo của trên; dự báo kịp thời với sự phát triển của tình hình; phát huy triệt để các lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến, các chuyên gia khoa học hàng đầu, đội ngũ cán bộ đầu ngành, các nhà khoa học, nhà báo và đông đảo các cộng tác viên nhiệt huyết và bản lĩnh cùng tham gia đấu tranh.

- Giữ vững nguyên tắc sinh hoạt Đảng, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, ý thức tổ chức kỷ luật, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, kỷ cương của Đảng; thực hiện tốt những điều qui định đảng viên không được làm. Dân chủ thảo luận, tham gia đóng góp ý kiến cho Đảng là quyền lợi, là trách nhiệm của mọi người; tuy nhiên, phải thực sự làm chủ trong thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ.

- Chủ động định hình, thiết lập hệ thống khung lý luận, luận cứ, luận điểm đấu tranh tư tưởng, lý luận khoa học, sẵn sàng tuyên truyền và đáp trả những quan điểm, tư tưởng thù địch. Đây là việc làm cấp bách hiện nay, cần có sự chỉ đạo, lãnh đạo sáng suốt, tập trung, thống nhất từ Trung ương, bộ, ngành liên quan đến các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Các cơ quan khoa học, các học viện, nhà trường hàng đầu về khoa học xã hội và nhân văn trong cả nước phải là lực lượng tiên phong, nòng cốt trong việc nghiên cứu, tham mưu cho Đảng, Nhà nước để xác lập hệ thống các luận cứ đấu tranh tư tưởng, lý luận chính xác, thống nhất; đồng thời giáo dục, tuyên truyền trong các cơ quan, đơn vị, tạo dựng một hệ thống cán bộ chuyên trách, sắc sảo về đấu tranh và hiệu quả trong tuyên truyền, giáo dục quần chúng. 

- Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về báo chí và tuyên truyền. Có biện pháp quản lý chặt chẽ mạng Internet, ngăn ngừa các trang mạng độc hại kết hợp với tăng cường mở mới, đa dạng các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh tư tưởng, lý luận của ta. Đây là một nội dung, biện pháp quản lý nhà nước đặc biệt quan trọng, nhằm ngăn chặn tận “gốc” nguồn tuyên truyền, phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; quản lý chặt chẽ, không để lộ, lọt, sơ hở về đăng tải thông tin theo quy định của Nhà nước.

Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, gần 30 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã vượt qua tình trạng đói nghèo, kém phát triển; tình hình chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh tiếp tục ổn định và phát triển; uy tín, vị thế của nước ta không ngừng nâng cao trên trường quốc tế; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng; đời sống an sinh xã hội tiếp tục được cải thiện; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm và có sự phát triển tốt. Việt Nam tiếp tục nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước ta là rất rõ ràng; kẻ thù tìm mọi cách tấn công ta không một phút ngơi nghỉ, nhất là trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, Song, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và niềm sâu sắc của toàn bộ dân tộc Việt Nam vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, bảo đảm công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay sẽ  tiến hành một cách đồng bộ cả về công tác xây dựng hệ thống pháp luật, kinh tế, văn hóa và chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác./.

T3.

 

Đấu tranh với quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 


Tận dụng sự bùng nổ của công nghệ thông tin, mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động tăng cường phát tán quan điểm sai trái, nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, vạch trần ý đồ của chúng; đề xuất giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề vừa có tính cấp thiết, vừa cơ bản, lâu dài.

Từ khi ra đời (03/02/1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Tại Đại hội VII (1991), Đảng đã bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn kiện qua các kỳ đại hội Đảng đều khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”1. Sự khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng mà còn thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những luận điệu sai trái, thù địch đi ngược lại tư tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã minh chứng: nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí, vai trò quyết định đến mọi thành công của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ đất nước, nhất là trong 35 năm đổi mới chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Nhưng đây cũng là mục tiêu chủ yếu mà các thế lực thù địch tập trung chống phá, nhằm làm cho Đảng ta mất phương hướng lãnh đạo, dẫn đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội.

Sau nhiều thập kỷ chống phá không thành công, các thế lực thù địch đã thay đổi phương thức hoạt động, tận dụng triệt để sự bùng nổ của công nghệ thông tin, mạng xã hội để chia sẻ, phát tán luận điệu sai về khoa học, phản động về chính trị, tạo nên sự nhiễu loạn thông tin, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động về tư tưởng, mất phương hướng chính trị, như: tạo dựng, xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng; phủ nhận vai trò và thành tựu lãnh đạo của Đảng, cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam lấy “chủ nghĩa Mác - Lênin” làm nền tảng tư tưởng là “bảo thủ”, đi theo vết xe đổ của Liên Xô; “Chủ nghĩa xã hội mà C. Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, rồi “khuyên” Đảng ta nên đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”,... để gây mơ hồ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, chúng tăng cường xuyên tạc nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, cho rằng “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị, trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền”, “bầu cử chỉ là “màn kịch dân chủ”, Đảng Cộng sản đang độc diễn”, “không có bầu cử dân chủ khi còn thể thức Đảng cử dân bầu”, “Đảng chỉ đạo cơ cấu tỷ lệ đại biểu trước khi bầu, nên sẽ không có một Quốc hội đại diện cho nhân dân”, v.v. Vì vậy, nhận diện đúng quan điểm sai trái, thù địch, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, xác định giải pháp đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức rõ trách nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó Quân đội là một trong những lực lượng nòng cốt, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng đã quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Cán bộ, chiến sĩ trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước các luận điệu phản động. Lực lượng nòng cốt được tổ chức chặt chẽ, bài bản, phương pháp đấu tranh linh hoạt, sáng tạo; nhiều tác phẩm báo chí được độc giả đánh giá cao; nhiều trang, nhóm, tài khoản mạng xã hội có số lượng tương tác, chia sẻ, lan tỏa lớn, tạo hiệu ứng tích cực trên mạng xã hội. Các đơn vị kỹ thuật triệt phá nhiều trang, nhóm, tài khoản giả mạo, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

T3