Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho Cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau

Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau hơn nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của một bậc thiên tài. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững.

Di chúc là tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, với Nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.

Là người cách mạng, là người mác-xit, thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và đón nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại, chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Người viết: "Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".

Mở đầu Di chúc, với tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Tổ quốc, với Nhân dân, Người tin tưởng chắc chắn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự thống nhất đất nước. Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Người cũng nêu những công việc dự định làm sau đó. Người viết: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta…".

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.

Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi. 

Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.

Trong bản thảo Di chúc mà Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau.

Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, Nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. 

Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”( ), mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ”. Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. 

Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản thảo Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí. 

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ "thật": “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.

Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà Nhân dân tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc. 

Trong Di chúc, ngay sau khi nói về Đảng, Hồ Chí Minh nói về đoàn viên và thanh niên. Người viết: "ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ". Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".

55 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng, những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt… Đảng ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh về xây dựng những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Nhân dân rất rõ ràng. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc cực kỳ quan trọng của Đảng, của Nhân dân ta.

Nói về nhân dân lao động, trong Di chúc, Người viết: "NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.

Tuy vậy, Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng".

Suốt cuộc đời của Người là chăm lo cho đời sống của Nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân".

Khi viết VỀ VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".

Ngay cả việc ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của Nhân dân".

Nhân dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì Nhân dân, dành cho Nhân dân. Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".

Đoạn cuối cùng của bản Di chúc thiêng liêng, Người viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Sau bao biến cố thăng trầm của một mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải coi đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Người, tự hào đã làm được nhiều việc, trân trọng những thành quả đã đạt được, nhưng không khỏi đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội. Trong Đảng vẫn còn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.

Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, những người nắm trọng trách lãnh đạo, không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng. 

Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng, toàn Dân đạt được qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết trong Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.

Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, trước thời điểm phải lựa chọn những người thật sự xứng đáng, thật sự có tài, thật sự có đức, thật sự có tâm, thật sự có tầm để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”./.

ST.

Quốc khánh rạng ngời thiên niên sử

Cách đây 79 năm, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là mốc son chói lọi in đậm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ đây, lịch sử đã bước sang một trang mới: Người dân Việt Nam lần đầu tiên được ngẩng cao đầu, tự hào với thế giới vì mình đã trở thành công dân của một nước độc lập và tự do. 79 năm qua là quá trình phấn đấu, hi sinh của cả dân tộc để bảo vệ, xây dựng Tổ quốc Việt Nam hôm nay. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh: Tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh: Tư liệu.

Ngày Quốc khánh bao giờ cũng đem lại cho mỗi người chúng ta những cảm xúc thật đặc biệt. Những người con đất Việt vẫn không khỏi bồi hồi nhắc nhớ cho nhau về nguồn cội, về giá trị của hòa bình, về lịch sử hào hùng của dân tộc. Có thể là những người suốt 79 năm qua lưu giữ nguyên vẹn những kỷ niệm về ngày Tết Độc lập đầu tiên, cũng có thể là những người trẻ sinh ra trong hòa bình chưa từng biết đến chiến tranh nhưng tất cả đều chung một niềm tự hào, xúc động mỗi khi mùa thu cách mạng về.

Từ buổi đầu lập nước, lời tuyên ngôn độc lập khẳng định rằng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía đồng minh chống phát xít, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập! …. Nước Việt Nam có quyền đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Để có những lời tuyên bố đanh thép được cô đọng trong Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao máu xương đã đổ và bao người đã hy sinh. Lịch sử đã chứng kiến biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “sống bám đá chiến đấu, chết thành tượng đá bất tử”, những thanh niên xung phong “sống bám đất, giữ đường, làm cọc tiêu cho xe vượt qua trọng điểm”; những người mẹ, người vợ lần lượt tiễn chồng con ra trận không hẹn ngày về. Không có nỗi đau nào có thể đong đếm được khi 9 người con trai, 2 cháu ngoại và 1 con rể của mẹ Nguyễn Thị Thứ (huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) tiếp chân nhau ra trận rồi lần lượt hy sinh trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc; những em nhỏ xung phong làm liên lạc cho tiền tuyến, những thiếu phụ chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là hậu phương vững chắc để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” … Tất cả đều tái hiện lại như những thước phim tư liệu quay chậm, sống mãi trong ký ức của mỗi người như một bản anh hùng ca bất diệt, trường tồn cùng với hồn thiêng sông núi, con người Việt Nam.

Tuyên ngôn độc lập là lời thề quyết tâm, là bản lĩnh, trí tuệ, hy vọng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam sẵn sàng xả thân để bảo vệ nền độc lập vừa giành được.

Trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, tinh thần của ngày Quốc khánh 2-9 sẽ đời đời bất diệt. Khát vọng hòa bình và tinh thần của Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi con người Việt Nam, là điểm tựa để khơi dậy lòng nhiệt huyết của các thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau quyết giữ vững nền độc lập tự do mà cha ông ta đã chiến đấu, hy sinh mới giành được.

Gần tám thập kỷ trôi qua, trong đó gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân giành được nhiều thắng lợi trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nước Việt nam đã có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa bao giờ có được như hôm nay. Lực ta đã mạnh, thế ta đã cao, bạn bè quốc tế ghi nhận, ngưỡng mộ, Việt Nam đã muốn làm bạn với tất cả các nước, và thực sự Việt Nam đã là đối tác chiến lược, toàn diện với nhiều nước trên thế giới.  

Trong thời điểm mà sự cạnh tranh của các nước lớn đang bùng phát, xung đột vũ trang đang có chiều hướng lan rộng, nhanh chóng, rất khó lường; sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật với cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 tác động sâu rộng không những trong lĩnh vực kinh tế - xã hội mà đang được áp dụng mạnh mẽ vào chiến tranh công nghệ cao, đặt ra vấn đề đoàn kết và chung tay bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình trên toàn thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang đoàn kết phấn đấu, quyết tâm xây dựng nước Việt Nam thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, cường thịnh, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong ngày Tết Độc lập, mỗi người Việt Nam dù đang ở bất kỳ nơi đâu, ngay trong lòng đất mẹ hoặc ở xa Tổ quốc, cũng không khỏi xúc động bồi hồi khi nhìn về Tổ quốc đang phát triển từng ngày. Khát vọng hòa bình, độc lập, xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam như được tiếp thêm sức mạnh trong khí thế hào hùng, sôi sục và náo nức của những ngày mùa thu cách mạng. 

79 năm qua, ý Đảng, lòng Dân với sự đoàn kết một lòng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, đủ sức đưa con tàu cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, bão táp. Bài học về sức mạnh của khối đại đoàn kết ấy vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hùng cường, dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn./.

ST.

Mỗi người dân Việt Nam luôn trân trọng những giá trị thiêng liêng của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”

79 năm qua kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2024) , mỗi người dân Việt Nam đều thấu hiểu hơn sự khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; đồng thời cũng càng trân trọng hơn những thành quả của sự nghiệp cách mạng và giá trị thiêng liêng của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” mà nhân dân ta đã kiên cường đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để giành được.

Tác phẩm ảnh : Cha con người Mông tại Sủng Là, Hà Giang dựng cờ tổ quốc để đón Tết cổ truyền của tác giả Dương Tiến Dũng (Bắc Giang) đạt giải Nhất ảnh đơn cuộc thi ảnh nghệ thuật “Tự hào một dải biên cương”.

Tác phẩm ảnh : Cha con người Mông tại Sủng Là, Hà Giang dựng cờ tổ quốc để đón Tết cổ truyền của tác giả Dương Tiến Dũng (Bắc Giang) đạt giải Nhất ảnh đơn cuộc thi ảnh nghệ thuật “Tự hào một dải biên cương”.

“ĐỘC LẬP- TỰ DO- HẠNH PHÚC” ĐƯỢC GHI DƯỚI QUỐC HIỆU CỦA NƯỚC VIỆT NAM TỪ 9/10/1945 ĐẾN NGÀY NAY

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” lần đầu tiên xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50 ngày 9/10/1945 (Sắc lệnh luật số 50). Văn bản luật ghi tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” dưới dòng chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” này chính là sự lựa chọn, là sự khẳng định chính thức của một quốc gia có chủ quyền (đã tuyên bố trước thế giới và mọi người dân Việt Nam). 7 thập niên qua, tiêu ngữ này không hề thay đổi dù thể chế chính trị Việt Nam là “dân chủ cộng hòa” khi xưa hay “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” hiện nay, có chăng thì chỉ là sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và quá trình thực hiện “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cho các tầng lớp nhân dân ngày càng trọn vẹn, đầy đủ hơn mà thôi. Đây mới chính là sự thật, chứ không phải là “ở Việt Nam làm gì có Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” hay “người dân Việt Nam đâu có được Độc lập - Tự do - Hạnh phúc thực sự” như các thế lực thù địch suy diễn, kích động và xuyên tạc.

Thực tế, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người đã được khẳng định tại Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789; đồng thời cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh “suy rộng ra”, phát triển, khẳng định là quyền tự quyết của một dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam ngày 2/9/1945. Để có được sự khẳng định đó cũng như để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua một hành trình đấu tranh đầy gian khổ theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) để lật đổ ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật, thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Với mỗi người dân Việt Nam đã có hơn 80 năm trời đắm chìm trong đêm trường nô lệ, thì thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Tháng Tám năm 1945 và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trở thành tiêu ngữ đặt dưới quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” không chỉ thiêng liêng, có ý nghĩa trọng đại, mà còn là sự khẳng định kết quả của sự đồng tâm, đồng chí, đồng lòng, kiên tâm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho nên, dù ai nói ngả, nói nghiêng, bẻ cong sự thật thì tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn luôn được khẳng định; luôn là đích đến và được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam hết lòng, hết sức bảo vệ 7 thập niên qua chắc chắn không phải là “chỉ để mị dân” như các thế lực thù địch bịa đặt, mà đó chính là sự trân trọng, là biết ơn sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước; đồng thời ghi dấu một thành quả lớn lao của hành trình đấu tranh cách mạng hướng đến tương lai tươi sáng theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hơn nữa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập không chỉ là khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là khát khao ngàn đời của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Vì thế, với một đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã không chỉ lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên cường đấu tranh cách mạng để đưa tên nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới; để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được khẳng định dưới quốc hiệu của quốc gia Việt Nam, mà Người còn khẳng định: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém” và “chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” để mỗi người dân đều được thụ hưởng giá trị lớn lao của Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

Thực tế cho thấy là, luôn lấy người dân làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển; vì nhân dân phụng sự để nhân dân hiểu được, thấm được, thụ hưởng được giá trị cao quý của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mọi đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng xuyên suốt trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng không ngoài mục đích lớn lao đó; cũng chính là nhằm để thực hiện lời căn dặn “đầu tiên là công việc đối với con người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc lịch sử. Đồng thời, minh chứng sinh động nhân dân Việt Nam được thụ hưởng “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự chính là những thành tựu hiển hiện trên thực tế như: Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài với những quyết sách đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng để tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, đoàn kết và bỏ phiếu kín đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ngày 6/1/1946 “dân chủ hơn hàng ngàn lần dân chủ tư sản”; soạn thảo và thông qua Hiến pháp năm 1946/bản Hiến pháp “dân chủ, công bình của các giai cấp”; thực hiện bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, cứu đói và thực thi các chính sách để phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện chủ trương đối ngoại mềm dẻo để tránh cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù đang đe dọa nền độc lập vừa giành được trong những năm 1945-1946; là những thành tựu của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc (1946-1954) - vừa kháng chiến để bảo vệ nền độc lập dân tộc, vừa kiến quốc để xây dựng đất nước phát triển trong điều kiện có chiến tranh; với thắng lợi của sự nghiệp vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội… Đặc biệt, một Việt Nam ngày càng đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng từ 1986 đến nay đã không chỉ cho thấy “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” luôn là khát vọng, là đích đến của dân tộc trên hành trình xây dựng và phát triển, mà còn là sự khẳng định và làm sâu sắc hơn ý nghĩa lời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”.

Thăm khám bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số _Ảnh: Tư liệu

Thăm khám bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số _Ảnh: Tư liệu

Sự xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và hành trình đấu tranh cho “6 chữ vàng” đó hiển hiện sinh động qua sự khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” và “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; qua căn cứ để lựa chọn tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được ghi rõ trong Sắc lệnh luật số 50: “Xét vì bắt đầu từ ngày 2/9/1945 nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập cho toàn thể quốc dân và thế giới biết; Xét vì ngày 24/8/1945, Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và giao chính quyền lại cho Chính phủ dân chủ cộng hoà; Xét vì cần nêu cao một kỷ nguyên mới để đánh dấu vào lịch sử nước ta, nhưng độc lập, tự do và hạnh phúc mà chính thể dân chủ cộng hòa mang lại cho dân chúng”; qua Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945): “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” và lời phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (10/1/1946): “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”; qua tinh thần, ý chí “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) và tuyên bố “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước (17/7/1966)… vừa thiêng liêng, vừa có sức mạnh cổ vũ, truyền cảm hứng lớn lao đối với bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Cho nên, nếu cho rằng “thực chất của hạnh phúc” chính là việc con người phải được thụ hưởng quyền con người đúng nghĩa theo Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 thì đúng là hạnh phúc thực sự đã được thực hiện ở Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo. Càng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dù phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, thì mỗi người dân Việt Nam yêu nước càng thấy rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chương trình kinh tế - xã hội lớn nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của nhân dân. Ảnh: Tư liệu

Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chương trình kinh tế - xã hội lớn nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của nhân dân. Ảnh: Tư liệu

KIÊN ĐỊNH MỘT NƯỚC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA “ĐỘC LẬP- TỰ DO - HẠNH PHÚC”

Nhận thức sâu sắc rằng Tự do là “quyền của con người” và người dân chỉ có được Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập, thống nhất, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã kiên trì vượt mọi khó khăn, thách thức để chiến đấu và chiến thắng; đã không chỉ làm nên một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công (1930-1945) mà còn giành thắng lợi trong hành trình đấu tranh cho một Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, non sông liền một dải (1945-1975). Vì thế, kiên định, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng (từ 1986 đến nay) với một đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để không chỉ xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước đi đến phồn vinh, mà còn nỗ lực thực thi trong từng quyết sách để đảm bảo mỗi người dân Việt Nam đều được sống trong “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự.

Hơn nữa, vì “tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử” nên Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ tại Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”, song cũng hiến định rõ rằng “2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” tại Điều 15. Đồng thời, Điều 14 cũng ghi rõ: “2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Sự giới hạn này tùy thuộc điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, nhưng phải tuân theo nguyên tắc giới hạn quyền con người tại Điều 29: “1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ. 2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn” của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948. Cho nên, các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch cần phải hiểu rằng, ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm; trong đó có các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,v.v.. thì “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự của mỗi người dân không phải là “tự do không giới hạn” như chiêu trò kích động, xuyên tạc, mà chính là đời sống vật chất và tinh thần ngày mỗi ngày được nâng cao hơn; quyền con người, quyền công dân ngày càng được đảm bảo hơn bởi đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật ngày càng hoàn thiện của Nhà nước.


Với một hệ thống pháp luật ngày càng được bổ sung, hoàn thiện góp phần đảm bảo, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân (từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013; với các luật, bộ luật như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016; Luật Báo chí 2016; Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bộ luật Lao động 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022…) và với việc đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người (Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966; Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1969; Công ước về quyền trẻ em 1989; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người…) cùng sự nỗ lực thực hiện được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, có thể khẳng định rằng: Ở Việt Nam, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự đã hiện hữu, cho nên luận điệu Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thực hiện đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị thì người dân không có được “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” đúng nghĩa và quyền dân chủ, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận “chỉ có ở trên giấy” chỉ là sự suy diễn, xuyên tạc của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch luôn âm mưu chống phá Đảng và chế độ.

Đặc biệt, mới đây, từ 21-24/8/2024 tại Hà Nội, gần 600 đại biểu đã tham dự “Hội nghị người Việt Nam toàn thế giới lần thứ 4” và “Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024”, với chủ đề “Người Việt Nam ở nước ngoài chung tay hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước”. Đây chính là một diễn đàn, một không gian mở để kiều bào gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ ý tưởng và đóng góp vào quá trình phát triển đất nước. Đồng thời, đó cũng là một minh chứng khẳng định Việt Nam đang tiếp tục triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Chỉ thị 45/CT-TW năm 2015 tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới… để thúc đẩy hơn nữa công tác chăm lo, hỗ trợ kiều bào, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, việc Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn trân trọng từng ý kiến tâm huyết, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đội ngũ trí thức, bà con kiều bào để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” là sự thật không thể phủ nhận/không thể bẻ cong. Và cũng vì thế, nếu một ai đó, một nhóm người nào đó nhân danh quyền tự do ngôn luận, quyền con người để tiến hành các hoạt động tung tin xấu độc, tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ bằng những luận điệu xảo trá… thì chính là vi phạm pháp luật theo Điều 117, 331 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và kêu gọi tụ tập biểu tình, kích động biểu tình trái phép gây rối trật tự, phá hoại an ninh quốc gia… thì chính là vi phạm Điều 118, 318 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đến dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đến dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4

Cuối cùng, phải khẳng định rằng, trước một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, hòa hiếu và rộng mở luôn là điểm đến, là sự lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài, của du khách quốc tế bởi chính trị ổn định, môi trường hòa bình, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ,v.v.., với chỉ số hạnh phúc năm sau luôn được xếp cao hơn năm trước: “Năm 2024, Việt Nam đứng thứ 54 trong tổng số 143 quốc gia/vùng lãnh thổ được khảo sát/tăng 11 bậc so với xếp hạng năm 2023. Xét ở khu vực châu Á thì Việt Nam đứng vị trí thứ 6/sau Sinagpore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines … thì mọi luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật cho rằng ở Việt Nam - người dân không có quyền con người/không được thực sự thụ hưởng giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” chỉ là chiêu trò "diễn biến hòa bình" của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch./.

ST.

Độc lập và đoàn kết

Ngày 2-9-1945, từ Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), "trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

79 mùa thu qua, lời tuyên bố đanh thép ấy đã nhận được sự đồng lòng, ủng hộ rộng rãi từ nhân dân trong nước cho tới bạn bè, lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Trong thời chiến, đó là nguồn sức mạnh to lớn làm nên những chiến thắng vang dội của quân và dân Việt Nam nhằm bảo vệ nền độc lập, tự do cho đất nước, thống nhất non sông, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong thời bình, đó là kim chỉ nam cho các cuộc đấu tranh chống mọi mưu đồ phá hoại, giữ vững thành quả cách mạng, đưa đất nước không ngừng phát triển, có cơ đồ, tiềm lực, uy tín, vị thế quốc tế ngày càng lớn. 

Trên hành trình đấu tranh giành và giữ tự do, độc lập, Việt Nam luôn nhận được sự đoàn kết, tương trợ vô cùng quý báu của bạn bè quốc tế. Sự đoàn kết, tương trợ ấy góp phần quan trọng vào mọi thành công của Việt Nam. Do vậy, Việt Nam luôn thấm thía bài học: Độc lập nhưng không để bị cô lập, đơn độc, độc lập nhưng phải giữ vững và ngày càng mở rộng quan hệ bạn bè, đối tác trong cộng đồng quốc tế để cùng nhau đoàn kết xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác, ổn định và phát triển.

Độc lập và đoàn kết
 Ảnh minh họa: qdnd.vn

Bởi vậy, cho đến nay, Việt Nam vẫn kiên định thực hiện đường lối đối ngoại "độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại", "là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế". Về chính trị-xã hội, Việt Nam nhất quán chủ trương tôn trọng quyền tự quyết dân tộc; kiên quyết phản đối và chống lại mọi sự can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Về kinh tế, Việt Nam thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế để tranh thủ mọi thời cơ phát triển kinh tế đất nước, tăng cường sức mạnh nội tại của nền kinh tế, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Về văn hóa, Việt Nam luôn nêu cao tinh thần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, "hòa nhập nhưng không hòa tan". Về quân sự, Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “4 không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đường lối, chính sách của Việt Nam trên tất cả trụ cột quan trọng ấy đều thể hiện rõ quyết tâm xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, tự chủ trên nền tảng đại đoàn kết toàn dân tộc và trong mối quan hệ đoàn kết với tất cả các nước bạn bè, đối tác trên thế giới.

Ngày nay, bối cảnh và tình hình quốc tế ngày càng biến đổi nhanh chóng, khó lường. Các mối đe dọa về độc lập, tự do, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ không chỉ tồn tại ở các lĩnh vực truyền thống mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực phi truyền thống, trong đó có không gian mạng, công nghệ vệ tinh... Do vậy, việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng ngày càng nặng nề hơn. Ở giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng; bảo đảm quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên.

Các nhiệm vụ này có mối quan hệ tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đến năm 2030, 2045 của đất nước mà Đảng ta đã nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu ấy đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải tiếp tục phát huy tinh thần "không có gì quý hơn độc lập, tự do", "tất cả vì hạnh phúc của nhân dân"; nêu cao hơn nữa tinh thần đoàn kết trong nước và quốc tế, khơi dậy mạnh mẽ mọi nguồn lực; thổi bùng khát vọng chấn hưng văn hóa dân tộc, khát vọng phát triển, khát vọng cống hiến. Cùng với đó, chúng ta cần đẩy mạnh thực hiện và hoàn thành 3 đột phá chiến lược: Hoàn thiện đồng bộ thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Từ đó cộng hưởng thành sức mạnh tổng hợp to lớn hơn.

Đặc biệt, chúng ta cần đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện tiêu cực, làm việc cầm chừng, không dám nghĩ, không dám làm, ngại đổi mới, sợ trách nhiệm, kích động hận thù, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và gây chia rẽ Việt Nam với bạn bè, đối tác quốc tế, tạo ra các rào cản trong việc thực hiện những mục tiêu chung. Qua đó, khơi thông mọi điểm nghẽn cản trở sự phát triển.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, toàn quân ta cần ra sức học tập, rèn luyện, công tác, thực hiện tốt các chức trách, nhiệm vụ, tích cực góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trong đó, Quân đội ta cần thực hiện hiệu quả chủ trương kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế nhằm góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi hai mục tiêu chiến lược và các mục tiêu cụ thể mà Đảng đã đặt ra.

Nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề, trong đó có nhiều nhiệm vụ mới và khó. Tuy nhiên, với những truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Quân đội nhân dân Việt Nam, tin rằng chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, 2045 mà Đảng đã đề ra. Khi đó, chúng ta sẽ có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để gia tăng tiềm lực về mọi mặt, qua đó càng củng cố vững chắc, "giữ vững nền tự do, độc lập" như lời Bác vang vọng non sông suốt 79 mùa thu qua!

ST.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh
 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2-9-1945. Ảnh tư liệu

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam./.

ST.