Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Đọc Di chúc, cảm nhận cách ứng xử của một nhà văn hóa lớn

 

Thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc (tháng 5-1965), cách mạng Việt Nam đang đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: Ngày 7-2-1965, đế quốc Mỹ dùng không quân mở chiến dịch “Mũi lao lửa” và từ ngày 2-3-1965, Mỹ ném bom liên tục, ác liệt hơn gọi là “sấm rền” đánh phá liên tục miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Ở miền Nam, ngày 8-3-1965, Mỹ đưa đơn vị chiến đấu đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ gồm 3.500 lính thủy đánh bộ đổ bộ lên Đà Nẵng và Chu Lai, bắt đầu tiến hành cuộc Chiến tranh cục bộ. 

Trên bình diện quốc tế, sự vận động, phát triển của phong trào cộng sản quốc tế đã làm nảy sinh sự bất đồng giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giữa hai nước lớn Liên Xô và Trung Quốc. Những bất đồng này đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần của các nước anh em cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Thực tế này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong Di chúc, Người đã tiên liệu được sự khó khăn, gian khổ, lâu dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng Người khẳng định giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước là một tất yếu, dù phải kéo dài, dù có thể ta phải hy sinh thêm nhiều của, nhiều người nữa.

Đọc Di chúc, cảm nhận cách ứng xử của một nhà văn hóa lớn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những di sản tư tưởng cao quý, nổi bật trong đó là phong cách lãnh đạo của Người. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh 

Khát vọng và niềm tin tất thắng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam còn được thể hiện việc Người hoạch định cụ thể về một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội, về xây dựng văn hóa mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà nước ta hướng tới... Trong đó, những đề nghị của Người về miễn thuế nông nghiệp 1 năm, để “đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”; về xây dựng lại thành phố, làng mạc; về xây dựng những vườn hoa, bia tưởng niệm các liệt sĩ, “để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”... thực sự thiết thực, cụ thể, đầy tính nhân văn.

Vẫn là Hồ Chí Minh – một con Người đầy bao dung nhân ái, đã dành tình thương yêu cho hết thảy mọi người: Từ những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ…; Người lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai... 

Trong ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng trước hết phải biết tự ứng xử. Khiêm nhường, chu đáo, cẩn thận, với mình thì nghiêm, với người thì rộng lòng khoan thứ. Mặc dù uy tín rất cao, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng rất lớn, được toàn dân suy tôn là "Cha già của dân tộc" nhưng không bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh xem mình đứng cao hơn nhân dân. Người tự cho mình là "người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận", là "người đày tớ trung thành của đồng bào". Lúc sinh thời, nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân. Cho nên, cũng dễ hiểu tại sao khi phần mở đầu Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố chọn một cách “vào đề” phù hợp nhất để nói điều mà toàn dân và cả chính bản thân Người không ai muốn: “...tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”. Một đoạn mở đầu đơn giản, độc đáo, đậm chất nhân văn và có sức thuyết phục cao, làm lay động lòng người.

Người “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đó chính là phép xử thế của một nhà văn hóa lớn, thể hiện tư cách rất đúng đắn của vị lãnh tụ Đảng cầm quyền, thấu hiểu được vai trò của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại; thấu hiểu được vai trò của nhân dân, là gốc, là chủ thể của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và đổi mới đất nước.

Khiêm nhường trong vị thế một nguyên thủ quốc gia, một Hồ Chí Minh cũng rất giản dị trên cương vị một lãnh tụ của nhân dân Việt Nam. Phút cuối của đời mình, sau khi dành tâm tư, tình cảm cho Đảng, cho dân, cho phong trào cách mạng thế giới, ung dung và thư thái, Hồ Chí Minh để lại mấy dòng cuối cùng trong Di chúc để viết về việc riêng của mình. Người dùng đến 8 từ “phục vụ”, không hề dùng một từ nào biểu đạt rằng mình là người lãnh đạo, hay đứng cao hơn mọi người. Và niềm nuối tiếc duy nhất của Người không phải vì không được sống lâu hơn như lẽ thường tình, như mục đích thụ hưởng mà “chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, càng tìm hiểu, nghiên cứu văn kiện đặc biệt này, càng khẳng định rằng, bao giờ và ở đâu, vẫn luôn ngời sáng tấm gương Hồ Chí Minh – tấm gương của đạo đức cách mạng, chí công vô tư; tấm gương của một con người vĩ đại mà khiêm nhường hết mực.

Học và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình; phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” như ý nguyện của Người.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm điện đàm với Tổng thống Hàn Quốc, hội đàm trực tuyến với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản.

 

Chiều 3-9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã điện đàm cấp cao với Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol; hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio.

Tại cuộc điện đàm với Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol, hai nhà lãnh đạo bày tỏ vui mừng tiến hành cuộc điện đàm cấp cao để cùng trao đổi ý kiến về việc thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc và các vấn đề hai bên cùng quan tâm.

Tổng thống Yoon Suk Yeol bày tỏ chia buồn sâu sắc về việc cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần; tin tưởng Đảng, Nhà nước Việt Nam đứng đầu là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục giành nhiều thành tựu to lớn, nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín quốc tế. Tổng thống Hàn Quốc khẳng định coi trọng vai trò của Việt Nam trong quá trình triển khai các chính sách của Hàn Quốc tại khu vực.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cảm ơn Tổng thống Hàn Quốc đã gửi Điện chia buồn, Thủ tướng Han Duck Soo đã dự Lễ Quốc tang cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Tổng thống Yoon Suk Yeol và lãnh đạo các chính đảng của Hàn Quốc đã chúc mừng đồng chí Tô Lâm được tín nhiệm bầu giữ cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chúc mừng những thành tựu mà đất nước Hàn Quốc đã đạt được trong thời gian qua, trong đó có việc phục hồi kinh tế, củng cố chuỗi cung ứng; đánh giá cao quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong 32 năm qua phát triển nhanh chóng trên hầu hết các lĩnh vực, nhất là sau khi hai bên nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện; nhấn mạnh Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị với Hàn Quốc.

Hai nhà lãnh đạo nhất trí tăng cường hơn nữa hiểu biết lẫn nhau và sự tin cậy chính trị thông qua duy trì tiếp xúc, trao đổi cấp cao và trên các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân giữa hai nước; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư ngày càng thực chất, hiệu quả, cân bằng, bền vững. Hai bên nhất trí sẽ cùng nỗ lực nâng kim ngạch thương mại song phương lên 150 tỷ USD vào năm 2030. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm hoan nghênh các doanh nghiệp Hàn Quốc tham gia vào các dự án đầu tư lớn của Việt Nam. Tổng thống Hàn Quốc nhấn mạnh Hàn Quốc sẽ tăng cường nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác lao động, văn hóa, du lịch, giáo dục, giao lưu nhân dân; quan tâm, hỗ trợ công dân hai nước đang sinh sống, học tập và làm việc tại mỗi nước.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trên các vấn đề khu vực, quốc tế. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định, Việt Nam luôn quan tâm và sẵn sàng đóng góp tích cực vào tiến trình hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên. Về vấn đề Biển Đông, hai bên nhất trí về sự cần thiết của việc giữ gìn hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Tổng thống Hàn Quốc trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sớm sang thăm Hàn Quốc. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cảm ơn và vui vẻ nhận lời mời.

* Chiều cùng ngày, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio. Thủ tướng Kishida Fumio một lần nữa chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio tin tưởng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục đóng góp quan trọng thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Việt Nam là đối tác quan trọng của Nhật Bản ở khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã gửi Điện chia buồn và cử Đặc phái viên là nguyên Thủ tướng Suga Yoshihide dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ Nhật Bản sang dự Lễ Quốc tang cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Thủ tướng Kishida Fumio đã gửi lời chúc mừng đến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, tái khẳng định Nhật Bản là đối tác quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Hai nhà lãnh đạo vui mừng về sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng và toàn diện trong quan hệ song phương, nhất là việc hai nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình ở châu Á và trên thế giới nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường tin cậy chính trị, hiểu biết lẫn nhau thông qua duy trì trao đổi cấp cao bằng nhiều hình thức linh hoạt, phát huy hiệu quả các cơ chế đối thoại, hợp tác song phương. Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác kinh tế là trụ cột chính của quan hệ hai nước, đi sâu kết nối hai nền kinh tế. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Nhật Bản sẽ tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của Việt Nam thông qua viện trợ ODA, tăng cường hợp tác với Việt Nam trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, hoan nghênh các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng, an ninh theo hướng thực chất, triển khai có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác đã ký kết; làm sâu sắc hơn kết nối nguồn nhân lực, giao lưu nhân dân, hợp tác giữa các địa phương. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị Chính phủ Nhật Bản tiếp tục quan tâm, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập, làm việc tại Nhật Bản.

Hai bên cũng trao đổi về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, nhất trí tăng cường hợp tác củng cố môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông. 

Lấy giáo dục để cải tạo con người

 Có thể nói, sự phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ, mặt trái của cơ chế thị trường…cũng phần nào tác động khiến tội phạm ngày càng trẻ hóa. Nhiều đối tượng được xác định là “trẻ em” nhưng tư duy, hành vi phạm tội (kinh tế, ma túy, tội phạm công nghệ cao...) lại không hề “ngây thơ”.

Người dưới 18 tuổi được xác định là người chưa thành niên, là người chưa phát triển đầy đủ về nhân cách và đạo đức. Đây là độ tuổi đang được giáo dục phổ thông, giáo dục cơ bản về nhận thức, ý thức, đạo đức, trong đó có ý thức chấp hành pháp luật. Thể chất có thể phát triển nhanh chóng nhưng tâm sinh lý lại tiềm ẩn những bất ổn, thậm chí nổi loạn.

Nếu giáo dục cứng nhắc hoặc không đúng cách thì có thể biến những đứa trẻ ngoan ngoãn, hiếu thảo trở nên ngỗ ngược, bất trị, dẫn tới hệ lụy như bỏ học, tự tử... Trong không ít trường hợp, vấn đề tuy nhỏ nhưng do các em thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc dẫn đến thực hiện hành vi tiêu cực, có tính chất bột phát.

Thống kê sơ bộ, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 13.000 thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, trong đó tỷ lệ gây án ở tuổi vị thành niên là 24,5% đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và 70,3% đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi, nhiều vụ thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng với các tội cố ý gây thương tích, giết người, cướp tài sản, trộm cắp tài sản…

 Cán bộ Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Hòa Bình giao lưu, tuyên truyền, phổ biến pháp luật với học sinh trường THPT Thạch Yên, huyện Cao Phong. (Ảnh minh họa. Nguồn: www.baohoabinh.com.vn)

Đáng chú ý, khu vực thành phố lớn, thành phố trực thuộc trung ương, khu đô thị đông dân, các khu công nghiệp phát triển thì tỷ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh, thành phố ở địa phương, các khu vực thuần nông.

Dùng công cụ tìm kiếm trên Google, chúng ta giật mình với những kết quả liên quan tới các vụ án mà người phạm tội còn chưa đủ 18 tuổi.

Đơn cử, khoảng giữa tháng 10/2023, chỉ vì khuyên cha bỏ rượu nhưng bị la mắng nên Phạm Minh Q (14 tuổi) sống tại xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang đã bỏ thuốc độc vào hộp sữa mà cha và bà nội thường hay uống khiến hai nạn nhân lần lượt tử vong. Quốc sau đó bị Công an tỉnh Tiền Giang bắt khẩn cấp, điều tra về hành vi Giết người.

Tiếp đó, ngày 22/12/2023, Ng.Đ.Th (15 tuổi) học sinh lớp 10 tại thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng sau khi lời qua tiếng lại với cha đã dùng hung khí đánh chết người sinh ra mình, đốt thi thể rồi dùng băng keo quấn lại gác lên la phông phía sau mái nhà tắm để phi tang.

Gần đây nhất, ngày 12/4/2024, L. Ph. T (15 tuổi), ở xã An Hồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã sát hại bạn gái trú cùng xã. Tại cơ quan điều tra, L. Ph. T. đã thừa nhận hành vi đánh bạn gái, sau đó siết cổ, cho vào bao tải kéo ra vườn nhà chôn. Đáng chú ý hai người đã có con chung.

Đây thực sự là hồi chuông báo động khẩn cấp, buộc các cấp, các ngành phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa sự gia tăng của tình trạng phạm tội ở lứa tuổi chưa trưởng thành.

Pháp luật hình sự Việt Nam quy định người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi phạm tội.

Theo Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên, Tòa án Nhân dân Tối cao đề xuất 14 nguyên tắc đặc thù để bảo vệ người chưa thành niên phạm tội bao gồm: Bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên; Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện; Bảo đảm người chưa thành niên được đối xử bình đẳng; Bảo đảm quyền được thông tin đầy đủ, kịp thời; Bảo đảm sự tham gia của người giám hộ, người đại diện của người chưa thành niên; Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời; Ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng; Xử lý chuyên biệt đối với người chưa thành niên phạm tội; Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên; Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý, phiên dịch của người chưa thành niên; Hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người chưa thành niên; Chuyên môn hóa trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên; Bảo đảm và tôn trọng quyền tham gia trình bày ý kiến của người chưa thành niên; Bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên.

Dự thảo luật giữ nguyên hệ thống hình phạt hiện hành (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn), không áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình đối với người chưa thành niên. Giảm mức hình phạt tù đối với người chưa thành niên theo từng trường hợp cụ thể.

Phát biểu trên nghị trường Quốc hội mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình nhấn mạnh, dù có 2 loại ý kiến về mức hình phạt và tổng hợp hình phạt, tuy nhiên quan điểm xuyên suốt, chủ đạo là đề cao tính nhân văn nhưng vẫn bảo đảm nghiêm minh của chính sách hình phạt đối với người chưa thành niên. 

Trao đổi thêm về nội dung này, GS. TS Vũ Công Giao (Giảng viên trường Đại học Luật, Đại học QGHN) cho biết, Luật Tư pháp người chưa thành niên hướng tới mục tiêu hoàn thiện pháp luật tư pháp đủ nghiêm khắc nhưng cũng bảo đảm nhân văn; tăng cường giáo dục, hỗ trợ, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội tự sửa chữa lỗi lầm; xây dựng quy trình thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với độ tuổi, tâm lý và vì lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên… Nếu được thông qua chắc chắn có tác động lớn đến việc ngăn chặn và giảm các đối tượng trẻ vị thành niên phạm tội.

Hiện Việt Nam đã có tòa án gia đình và người chưa thành niên, phù hợp với luật pháp quốc tế, thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với trẻ em, người chưa thành niên.

Để giải quyết cơ bản, hiệu quả vấn đề này, các cơ quan chức năng cần tiếp tục khẩn trương, nghiêm túc trao đổi, tìm ra những giải pháp trong lĩnh vực xây dựng luật, áp dụng luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật; giáo dục cũng như tăng cường các biện pháp quản lý xã hội (đặc biệt là trên môi trường không gian mạng).

Theo dõi, nắm tình hình, và xử lý quyết liệt các hoạt động kinh doanh có tính bạo lực, kích động bạo lực, lôi kéo làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển hình thành nhân cách của trẻ em.

Bên cạnh các biện pháp quản lý khoa học, chặt chẽ đối với học sinh, các cơ sở giáo dục (công lập, dân lập…) cần tăng cường công tác tuyên tuyền, giáo dục pháp luật trong nhà trường và phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa với gia đình trong việc trao đổi thông tin để cùng quản lý giáo dục các em phát triển toàn diện.       

Điều quan trọng nhất, mỗi gia đình phải thực sự là một pháo đài vững chắc trong nhiệm vụ kiểm soát mối quan hệ xã hội của con em mình, từ đó kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những lệch lạc, sai trái./.


Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3

 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 86/CĐ-TTg ngày 3/9/2024 chỉ đạo các bộ ngành, địa phương khẩn trương triển khai ứng phó bão số 3 năm 2024 (có tên quốc tế là YAGI).

Bão YAGI vào Biển Đông, trở thành bão số 3 trong năm 2024

Xuất hiện bão YAGI gần Biển Đông

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương ứng phó bão số 3 

Công điện gửi Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình; Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Công an, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Ngoại giao, Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Công điện nêu rõ: Sáng 3/9/2024, cơn bão có tên quốc tế là YAGI đã vượt qua đảo Lu-Dông (Philippines) vào khu vực Đông Bắc biển Đông trở thành cơn bão số 3 hoạt động trên biển Đông trong năm 2024, sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8, giật cấp 12.

Dự báo, bão số 3 sẽ tiếp tục mạnh thêm, sức gió mạnh nhất trên biển có thể đạt cấp 13, giật cấp 16 trong những ngày tới, di chuyển nhanh về phía đảo Hải Nam (Trung Quốc) và khu vực Vịnh Bắc Bộ, khả năng rất cao ảnh hưởng trực tiếp đến vùng biển và đất liền khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta.

Đây là cơn bão được dự báo có cường độ rất mạnh. Để chủ động ứng phó với bão và mưa lũ do ảnh hưởng của bão, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:

1. Bộ trưởng các Bộ và Chủ tịch UBND các địa phương nêu trên chủ động tổ chức theo dõi sát thông tin dự báo, diễn biến tình hình bão, mưa, lũ, kịp thời chỉ đạo, triển khai công tác ứng phó theo phương châm "bốn tại chỗ" theo nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, không để bị động, bất ngờ nhằm bảo đảm an toàn tính mạng, hạn chế thấp nhất thiệt hại về tài sản cho người dân.

2. Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nêu trên căn cứ tình hình thực tế và khả năng ảnh hưởng của bão, mưa lũ tại địa phương chủ động thông tin kịp thời, chỉ đạo, hướng dẫn người dân ứng phó với bão, lũ, trong đó:

a. Tập trung bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển, đảo:

- Tổ chức rà soát, kiểm đếm, chủ động thông tin, hướng dẫn phương tiện, tàu thuyền (bao gồm cả tàu cá, tàu vận tải, tàu du lịch) còn đang hoạt động trên biển biết, không đi vào hoặc thoát ra khỏi khu vực nguy hiểm hoặc về nơi tránh trú an toàn; có biện pháp bảo đảm an toàn cho tàu thuyền tại khu neo đậu.

- Rà soát, triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn đối với các hoạt động du lịch, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản trên biển, cửa sông, ven bờ; kiên quyết sơ tán người dân trên lồng bè, chòi canh nuôi trồng thủy sản đến nơi an toàn trước khi bão ảnh hưởng trực tiếp.

- Căn cứ tình hình cụ thể, chủ động quyết định việc cấm biển đối với tàu cá, tàu vận tải, tàu du lịch.

b. Bảo đảm an toàn khu vực ven biển và trên đất liền:

- Chủ động tổ chức sơ tán người dân ra khỏi các nhà yếu không đảm bảo an toàn, khu vực có nguy cơ bị ngập sâu, sạt lở, nhất là ở cửa sông, ven biển.

- Triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn, hạn chế thiệt hại về nhà ở, kho tàng, trụ sở, công trình công cộng, khu công nghiệp, nhà máy, đê điều; bảo vệ sản xuất nông nghiệp, chống ngập úng khu đô thị và khu công nghiệp.

- Kiểm soát việc đi lại, tổ chức phân luồng, hướng dẫn giao thông, hạn chế người dân ra đường trong thời gian bão đổ bộ, mưa lũ lớn để đảm bảo an toàn.

c. Bảo đảm an toàn khu vực miền núi:

- Chủ động di dời, sơ tán dân tại khu vực có nguy cơ bị ngập sâu, lũ quét, sạt lở đất; chuẩn bị lực lượng, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm theo phương châm "bốn tại chỗ" để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống.

- Kiểm tra, chủ động biện pháp đảm bảo an toàn các hồ chứa và hạ du; bố trí lực lượng thường trực sẵn sàng vận hành điều tiết và xử lý các tình huống.

- Kiểm soát, hướng dẫn giao thông an toàn, nhất là qua các ngầm, tràn, khu vực ngập sâu, nước chảy xiết; chủ động bố trí lực lượng, vật tư, phương tiện để khắc phục sự cố, đảm bảo giao thông thông suốt trên các trục giao thông chính.

- Sẵn sàng lực lượng, phương tiện để kịp thời cứu hộ, cứu nạn và khắc phục nhanh hậu quả bão, lũ nếu xảy ra tạ cơ quan, đơn vị, địa phương mình.

3. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dõi sát tình hình bão, lũ, chủ động chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành, địa phương liên quan kịp thời triển khai có hiệu quả công tác bảo đảm an toàn đê điều, hồ đập, bảo vệ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản, kịp thời báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền.

4. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường theo dõi chặt chẽ, tăng cường bản tin dự báo, cảnh báo, thông tin kịp thời về diễn biến bão, mưa lũ, nguy cơ lũ quét, sạt lở đất để các cơ quan liên quan và người dân biết chủ động triển khai các biện pháp ứng phó.

5. Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Công an chỉ đạo các lực lượng đóng trên địa bàn rà soát phương án ứng phó, chủ động tổ chức triển khai lực lượng, phương tiện sẵn sàng hỗ trợ địa phương ứng phó với bão, lũ, sơ tán dân, cứu hộ, cứu nạn.

6. Bộ trưởng các Bộ: Giao thông vận tải, Công Thương và các bộ, ngành có liên quan theo chức năng quản lý nhà nước và nhiệm vụ được phân công chủ động chỉ đạo, phối hợp với các địa phương triển khai công tác bảo đảm an toàn các hoạt động dầu khí trên biển, khai thác khoáng sản và hệ thống lưới điện; vận hành đảm bảo an toàn hồ chứa thủy điện; đảm bảo an toàn giao thông theo quy định.

7. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam và các cơ quan truyền thông tăng cường thời lượng, đưa tin kịp thời về diễn biến của bão, mưa lũ và công tác chỉ đạo ứng phó để người dân biết, chủ động phòng, tránh.

8. Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo các cơ quan thuộc quyền xử lý các vấn đề liên quan đến vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm… do bão, mưa, lũ gây ra.

9. Giao Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai Công điện này.

10. Văn phòng Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Công điện này, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách những vấn đề đột xuất, phát sinh./.

Công tác dân vận của chính quyền khẳng định bản chất của Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”

 Trong thời gian qua, công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế của các địa phương, của đất nước.

 Công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần  phát triển kinh tế của các địa phương, của đất nước. (Ảnh minh họa: Nguồn chinhphu.vn)

Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nghị quyết Trung ương số 25-NQ/TW khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã xác định: “Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang” với cơ chế thực hiện là “Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt”. Cơ chế này đã thể hiện rõ tầm quan trọng của chính quyền các cấp trong việc tổ chức thực hiện và sự thành công của công tác dân vận.

Trong thời gian qua, công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế của các địa phương, của đất nước. Đó là, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nâng cao nhận thức, xác định tầm quan trọng của công tác dân vận chính quyền thông qua việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về công tác dân vận, về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Từ nhiều năm qua, công tác dân vận được chú trọng, nhiều chủ trương về công tác dân vận được ban hành, triển khai, lan tỏa sâu rộng đến cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở đó, các cấp chính quyền cũng đã nâng cao nhận thức, thường xuyên quán triệt, lãnh, chỉ đạo, ban hành kế hoạch, chương trình thực hiện công tác dân vận; đề cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện phong cách dân vận của cán bộ, công chức, viên chức và người thừa hành công vụ: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.

Điểm nổi bật là việc thay đổi nhận thức từ một “chính quyền hành chính, mệnh lệnh” thành “chính quyền phục vụ” nhân dân với nhiều mô hình hiệu quả. Nhiều địa phương đã thực hiện tốt, phát huy có hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm thực hiện tốt dân chủ trong nhân dân, tạo đồng thuận cao nhằm thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Từ phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nay thêm 2 thành tố mới là “Dân giám sát, “Dân thụ hưởng” đã đi vào đời sống thực tiễn hàng ngày đã góp phần thúc đẩy người dân tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề dân sinh cùng với chính quyền các cấp. Công tác đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân đã được chính quyền các cấp tập trung thực hiện trong thời gian qua. Các cơ quan nhà nước, người đứng đầu các cơ quan nhà nước thực hiện đúng trách nhiệm tổ chức tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân theo đúng pháp luật; đặc biệt các cấp chính quyền tập trung giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo tồn đọng, các vụ khiếu kiện kéo dài, phức tạp, đông người, nhất là tại các địa phương trọng điểm. Công tác cải cách hành chính đã được các địa phương, đơn vị nỗ lực thực hiện trong nhiều năm qua, gắn liền với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Các cấp chính quyền thực hiện công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch…, tạo điều kiện cho công dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; giải quyết nhanh nhất các hồ sơ hành chính của công dân, doanh nghiệp, không để xảy ra việc nhũng nhiễu, tiêu cực. Nhiều địa phương đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin; thực hiện công khai, dân chủ các quy trình về điều hành, quản lý, xử lý và giải quyết các thủ tục, các chế độ, chính sách liên quan đến người dân và doanh nghiệp…

Công tác dân vận chính quyền đi vào từng ý thức trách nhiệm, hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Nhà nước ta, của chính quyền địa phương là một minh chứng sống động cho bản chất ưu việt của Nhà nước ta: Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Thực tiễn từ các nền chính trị và hành chính các quốc gia khác trên thế giới cho thấy, không phải Nhà nước, Chính phủ nào cũng thể hiện rõ được bản chất ưu việt này. Dù vậy, các thế lực thù địch vẫn ra sức bóp méo, làm sai lệch bản chất của Nhà nước ta qua các luận điệu xuyên tạc, tìm kiếm các tiêu cực tồn tại đâu đó để nói xấu Đảng và Nhà nước ta, làm mất lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

 Công tác dân vận vùng biên giới được lực lượng biên phòng tỉnh An Giang triển khai thực hiện có hiệu quả trong nhiều năm qua.

Thực tiễn cũng cho thấy, công tác dân vận của chính quyền trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Tình trạng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài ở những dự án, công trình trọng điểm vẫn còn xảy ra hoặc chưa được giải quyết dứt điểm; vẫn còn nhiều vụ việc gây bức xúc trong Nhân dân; tinh thần “chính quyền phục vụ” ở một số cán bộ, công chức địa phương, sở ngành còn chưa được sâu sắc; vẫn còn tình trạng quan liêu, phiền hà, sách nhiễu với Nhân dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc; công tác nắm tình hình nhân dân, sâu sát đời sống, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng Nhân dân của đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cấp chính quyền cơ sở còn nhiều khó khăn, hạn chế; việc ban hành các chủ trương, chính sách của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp có nơi có lúc còn chưa sâu sát với tình hình thực tiễn, chưa đáp ứng, đảm bảo về quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, dẫn đến thiếu khả thi, không hiệu quả...

Nguyên nhân của những hạn chế là do cấp ủy, chính quyền một số địa phương, đơn vị chưa quan tâm đúng mức, chưa nhận thức đầy đủ về công tác dân vận của chính quyền; một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn xa dân, quan liêu, nhũng nhiễu gây bức xúc trong Nhân dân; chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm với Nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát, chế tài về công tác dân vận của chính quyền chưa thường xuyên, chưa tạo hiệu quả như yêu cầu…

Tổng kết 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta tổng kết rút ra một bài học quan trọng có giá trị làm quan điểm chỉ đạo công tác dân vận trong thời kỳ mới: “Sự nghiệp Cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng sẽ dẫn tới tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[1]. Tiếp tục bổ sung và phát triển những quan điểm nói trên, tại Đại hội XII, nhìn lại 30 năm đổi mới, Đảng ta đã bổ sung, làm rõ thêm: “Phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”[2].  Đại hội XIII xác định: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng”. Như vậy, yêu cầu đối với công tác dân vận đòi hỏi cao hơn; đồng thời bổ sung thêm trong quan điểm “dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng”. Đây là bước phát triển mới trong tư duy, lý luận của Đảng về vai trò của Nhân dân và công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Động lực thúc đẩy phong trào Nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Công tác dân vận cần quán triệt tinh thần kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân; trong đó quan tâm, coi trọng lợi ích trực tiếp, lợi ích thiết thân của người dân, cá nhân lao động. Lợi ích chung của sự phát triển xã hội được thể hiện một phần quan trọng qua lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Công tác dân vận cần làm cho mỗi người quan tâm tới quyền làm chủ, tới lợi ích chính đáng của mình; lấy đó làm động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động của họ, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực hiện nhiệm vụ của tổ chức.

Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để Nhân dân tin tưởng, noi theo. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mất thiết giữa Nhân dân với Đảng. Lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ được củng cố, tăng cương và nâng lên khi Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh; khi những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân.

Quan tâm đến công tác dân vận chính quyền, chính là xây dựng một Chính phủ, một nền hành chính vì Nhân dân phục vụ. Thước đo của công tác dân vận chính quyền chính là sự hài lòng của người dân, ý nghĩa hơn là xây dựng lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp. Làm tốt công tác dân vận chính quyền, chính là tạo ra mạch nối quan trọng để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ máu thịt của Đảng, Nhà nước với Nhân dân.