Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Giá trị to lớn, tầm nhìn vượt thời đại trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Di chúc thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trước lúc đi xa là “Bảo vật quốc gia”; trong đó, thể hiện tình cảm chân thực, trí tuệ sâu sắc, đạo đức cao cả, tâm hồn rộng mở, nhân ái và khoan dung, cùng với tầm nhìn vượt thời đại của Người.

1. Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm nhường gọi là “bức thư” - “mấy lời để lại cho đồng bào, đồng chí” vào lúc Người 75 tuổi. Suốt 04 năm liền, từ 1965 đến 1969, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng từ ngày 10 đến 15 tháng 5 và từ 9 giờ đến 10 giờ mỗi buổi sáng, Người thanh thản đọc lại, suy nghĩ và sửa chữa. Bốn tháng trước lúc đi xa, Người còn đọc và chữa lần cuối cùng. Có thể nói, 1.000 từ trong bản Di chúc không chỉ là một tổng kết lớn về sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và Nhân dân ta, mà còn là những trù tính chiến lược sáng suốt, những căn dặn ân cần, chu đáo của Người đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về những việc phải làm sau ngày cách mạng toàn thắng và miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Người ký thác niềm tin và hy vọng vào tất cả chúng ta về tương lai tươi sáng của dân tộc, thực hiện hoài bão và khát vọng phát triển Việt Nam giàu mạnh, văn minh, hiện đại. Tâm nguyện ấy của Người bắt nguồn từ một tư tưởng lớn: yêu nước, yêu dân, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Đã 55 năm kể từ ngày Người đi xa và cũng là hơn nửa thế kỷ chúng ta thực hiện Di chúc của Người. Những giá trị to lớn trong Di chúc đang được chúng ta thấm nhuần và nỗ lực thực hiện. Tầm nhìn vượt thời đại trong Di chúc của Người đang tiếp tục khai sáng tâm trí, thúc đẩy chúng ta hành động sao cho xứng đáng với dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại, vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ dẫn dắt của tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Cùng với những tác phẩm tiêu biểu khác, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành “Bảo vật quốc gia”1. Đó là Quốc bảo đồng thời là Pháp bảo của muôn đời. Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh thể hiện và kết tinh thành những giá trị to lớn trong Di chúc, có thể khái quát vào mấy điểm cốt yếu sau đây:

Thứ nhất, Di chúc khẳng định niềm tin khoa học sâu sắc và tinh thần cách mạng kiên định của toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ở cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định của Người về tính tất thắng của cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập thống nhất Tổ quốc có sức cổ vũ, động viên to lớn đối với đồng bào, chiến sĩ cả nước và bầu bạn quốc tế. Di chúc chỉ rõ, cuộc chiến đấu của chúng ta còn có thể kéo dài (mà Người hình dung “mấy năm nữa” như một điều tiên tri, dự báo). Đối mặt với thế lực đế quốc hùng mạnh, giàu có nhưng gây tội ác chiến tranh tàn bạo, phi nhân tính, nhân dân ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người.

Song, với bản lĩnh, tầm nhìn và một niềm tin mãnh liệt, Người khẳng  định: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”2. Nhìn lại thời điểm Người viết Di chúc (1965 - 1969), đó là lúc cuộc chiến cam go, ác liệt, đế quốc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, tiếp sức cho chế độ ngụy quyền; đồng thời, gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc tàn bạo đến mức hủy diệt; chính trường quốc tế và các nước, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em đang diễn biến phức tạp với những bất đồng ngày một nghiêm trọng,… mới thấy hết sự bình tĩnh, dũng cảm, mưu lược, đầy bản lĩnh và dự cảm sáng suốt của Hồ Chí Minh. Ở bản viết ngày 10/5/1969, Người khẳng định còn mạnh mẽ hơn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”3. Có thể ví như giữa sóng to gió lớn, bàn tay chèo lái của người thuyền trưởng quan trọng biết chừng nào tới cả phong trào, sự nghiệp. Người gieo niềm tin vào lòng dân, trao gửi vào dân sức mạnh vô giá để chiến đấu và chiến thắng.

Thứ hai, Di chúc khẳng định tầm vóc của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam và cống hiến lịch sử của dân tộc ta đối với sự nghiệp cách mạng thế giới. Tầm vóc lớn lao ấy đồng thời cũng là vinh dự lớn của nước ta, là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc. Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã đưa Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong chống đế quốc, thực dân, lại một lần nữa minh chứng cho niềm tin và sự khẳng định chiến thắng của Người trong Di chúc. Đánh bại cả chủ nghĩa thực dân cũ (Pháp) lẫn chủ nghĩa thực dân mới (Mỹ) làm thức tỉnh các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và công lý, cho chân lý và đạo lý lớn nhất của cả loài người: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thế kỷ XX in đậm dấu ấn thiên tài tư tưởng và tổ chức của Hồ Chí Minh và Đảng ta.

Thứ ba, Di chúc tập trung và làm nổi bật những điều hệ trọng cần thực hiện sau ngày cách mạng toàn thắng. Đó là những trù tính chiến lược về đường lối, chủ trương, chính sách mà Người căn dặn Đảng và Nhân dân ta khi cách mạng chuyển sang một thời kỳ mới. Trong Di chúc, Người đặc biệt nhấn mạnh: “Trước hết nói về Đảng” từ Trung ương đến các chi bộ phải “giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình”4. “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”5. Chỉ trong một đoạn ngắn nói về Đảng, Người bốn lần nhắc đến chữ “thật”, đó là lời dạy thiêng liêng, mãi còn vẹn nguyên giá trị và tính thời sự. Người còn dặn, trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố phát triển sự đoàn kết, thống nhất; mỗi đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Người tin tưởng rằng, “làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”6. Đảng ta đang ra sức thực hiện lời dạy của Người, coi xây dựng Đảng là then chốt, bởi Đảng và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Về vấn đề con người, trong Di chúc, Hồ Chí Minh quan tâm tới mọi đối tượng con người, mọi cảnh đời và số phận, dường như không sót một ai, từ em nhỏ đến người lớn, từ đồng bào nông dân đã bao đời khổ cực mà vẫn một lòng son sắt theo Đảng và cách mạng cho đến thanh niên, phụ nữ. Người căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”7. Đặc biệt, Người có ý miễn thuế nông nghiệp một năm cho bà con nông dân ngay sau ngày thắng lợi, để bà con hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Đó là an dân để quốc thái bền vững.

Chăm lo dân sinh là sự chăm lo đặc biệt của Người, không chỉ vì thương dân và nêu cao trách nhiệm với dân mà còn là lòng nhân ái, đức khoan dung, vị tha thấm đậm chất nhân văn của Hồ Chí Minh. Người không chỉ phấn đấu cho độc lập tự do mà còn chăm lo hạnh phúc cho dân từ những điều cụ thể, bình dị nhất. Người từng nói: “Thiên thời, địa lợi là quan trọng nhưng nhân hòa là quan trọng nhất”.

Thứ tư, Di chúc còn đề cập tới phong trào cộng sản và công nhân quốc tế với nỗi đau lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự bất hòa giữa các đảng anh em. Đây là trách nhiệm cao cả, hết lòng tận tụy của Người đối với quốc tế cũng như đối với dân tộc. Người căn dặn: “Về phong trào cộng sản thế giới - Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em! Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình. Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”8. Lời tâm sự bộc bạch và nỗi đau nhân tình thế sự của Người làm xúc động muôn triệu tấm lòng. Lại thêm một lý do nữa để hiểu về Bác: Người cộng sản đích thực, nhà nhân văn chủ nghĩa hiện đại.

Thứ năm, đạo đức cao cả toát lên từ lời Bác dặn “Về việc riêng”. Một đời tiết kiệm để lo cho dân, vì dân, để nêu gương, nay nói về việc riêng - việc tang lễ cho mình, Người yêu cầu đừng có điếu phúng linh đình, lãng phí ngày giờ, tiền bạc của nhân dân. Người muốn nằm trong lòng đất mẹ. Đau đáu với miền Nam, Người căn dặn: “Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”9. “Trên mộ, nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”10. Giản dị và thanh cao, dấn thân để hóa thân - đó là Hồ Chí Minh, “con người của mọi người”, “trái tim của muôn triệu trái tim”. Trong lòng nhân dân và nhân loại, Người là bất tử, vĩnh hằng. Đó là năm giá trị to lớn chủ yếu của Di chúc và còn bao nhiêu giá trị, ý nghĩa khác, lấp lánh như ánh sáng bởi “Đời Hồ Chí Minh trong như ánh sáng” đúng như nhận định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Những giá trị to lớn ấy, tự nó đã bao hàm cả tầm nhìn vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn nữa, còn rạng ngời phong cách đặc sắc của nhà tư tưởng Mácxít hiện đại, mang cốt cách hiền triết Á Đông và đậm đà bản sắc Việt Nam. Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói: “Người ra đi từ con sông Lam của quê hương, con sông Hồng của Tổ quốc, trải qua bốn bể năm châu, thâu thái mọi trí thức Đông Tây, kim cổ để rồi trở về, nhìn lại con sông Lam của quê hương, con sông Hồng của Tổ quốc với tầm mắt đại dương”11. “Tầm mắt đại dương ấy chính là tầm nhìn vượt thời đại” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề sau:

Một là, dự báo khoa học, vô cùng chính xác về chiến thắng của nhân dân ta, đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

Hai là, nhạy cảm sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Gắn liền điều đó với phẩm giá và tài năng sáng tạo, đức hy sinh và lòng dũng cảm của nhân dân ta, thấm thía và tin tưởng ở vai trò, sức mạnh của nhân dân. Tự hào bao nhiêu về sự lớn mạnh của phong trào cách mạng thì Người càng đau lòng bấy nhiêu về những bất hòa quốc tế. Trong linh cảm sâu xa của Người, đây sẽ là một hiểm họa mà cách mạng Việt Nam phải vượt qua.

Ba là, với Đảng cách mạng, người cách mạng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền, đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là bảo đảm căn bản nhất cho thắng lợi, nên phải đặt đạo đức lên hàng đầu. Hồ Chí Minh là lãnh tụ hiếm hoi, sớm nhận ra chính trị không chỉ là quyền lực mà còn là đạo đức, như Người định nghĩa “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết”, “Đảng là đạo đức, là văn minh”. Trong số các chính khách, lãnh tụ, dường như chỉ có Hồ Chí Minh đã nhận ra “tình huống đạo đức khi cầm quyền” và sớm cảnh báo nguy cơ tha hóa, thất bại, đổ vỡ nếu “sa vào chủ nghĩa cá nhân” - giặc nội xâm nguy hiểm nhất.

Bốn là, bày tỏ tâm nguyện, “điều mong muốn cuối cùng” mà làm hiển lộ hệ giá trị của chủ nghĩa xã hội, trở thành định nghĩa khoa học về chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Người đã nêu trong “điều mong muốn cuối cùng của mình” những giá trị căn bản nhất của hệ giá trị quốc gia mà Đảng ta đã đề cập gần đây trong Đại hội XIII.

Năm là, nếu đến Đại hội VI, năm 1986, Đảng ta mới khởi xướng đổi mới, thì hơn nửa thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về đổi mới trong Di chúc. Đó là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời, hư hỏng để xây dựng những cái mới mẻ, tiến bộ, tốt tươi. Đó là sự nghiệp của nhân dân, của toàn Đảng, toàn dân ta, làm cho đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Với tầm nhìn vượt thời đại đó, Di chúc của Hồ Chí Minh thực sự là một thiết kế lý luận; đồng thời, là chương trình hành động, chiến đấu và chiến thắng, Đổi mới - Sáng tạo và Phát triển để không ngừng chăm lo đời sống hạnh phúc cho nhân dân. Có thể nói nhiều tới phong cách Hồ Chí Minh: chân thành và khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc, nhân ái và bao dung, truyền thống và hiện đại, hàm súc, cô đọng và vô cùng tinh tế. Nhưng trong Di chúc của Người, chỉ nhấn vào hai điểm đặc sắc đó là: bản lĩnh dùng cái tối thiểu (1.000 từ) để chuyển tải một cái tối đa như một đại tổng kết lý luận - thực tiễn cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ và thắng Mỹ; “chữ” ít nhất để “nghĩa” nhiều nhất. Đó là hội tụ, kết tinh cả Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách của một vĩ nhân.

 

Tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Trong bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà đặc biệt là tự phê bình và phê bình, được Người đề cập và xác định là việc làm trước tiên sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Những di huấn quan trọng này của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là tất yếu khách quan, quy luật tồn tại và phát triển của Đảng; là việc tuyệt đối cần thiết cho tất thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống; là vũ khí sắc bén nhất giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh; là thang thuốc hay nhất “trị bệnh cứu người”. Nếu sợ tự phê bình, che giấu sai lầm, khuyết điểm thì không phải là người cách mạng, không phải là đảng chân chính cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “kiêu ngạo cộng sản” là một căn bệnh nguy hiểm, nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ. Vấn đề có tính quy luật là tất cả các đảng cách mạng, cán bộ, đảng viên tự cao tự đại, không biết cách nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, sợ sệt không dám công khai thừa nhận sai lầm, vạch rõ nguyên nhân sai lầm và phân tích hoàn cảnh sai lầm để sửa chữa, thì đảng đó sớm hay muộn sẽ hỏng. Tự phê bình và phê bình là nguyên lý căn bản giúp đảng cầm quyền tự hoàn thiện mình, trở thành một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.

Tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến và gương mẫu thực hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Người chỉ rõ: khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền thì tự phê bình và phê bình trong Đảng là điểm mấu chốt vì: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”1; đảng viên và cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thói xấu cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Có bệnh mà giấu, không dám uống thuốc, thì bệnh ngày càng nặng. Với tinh thần đó, trong Di chúc, Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”2.

Thực hiện Di chúc của Bác, trong 55 năm qua, có không ít tập thể, cá nhân làm tốt tự phê bình và phê bình, trở thành điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được xã hội ghi nhận, tôn vinh. Song, bên cạnh đó, việc tự phê bình và phê bình trong Đảng vẫn còn hạn chế, “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”3.

Để tạo bước chuyển mới, tích cực hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần hiểu thấu và làm đúng tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong đó, tập trung vào những nội dung chủ yếu sau.

Một là, nhận thức đúng mối quan hệ giữa tự phê bình và phê bình. Trong thực hiện hai nội dung này, có ý kiến cho rằng, Bác luôn đặt tự phê bình trước phê bình để nhấn mạnh tự phê bình quan trọng hơn phê bình. Nhận thức như vậy không đúng. Bởi, trong nhiều trường hợp Bác đặt phê bình trước tự phê bình, như: Bài nói tại Hội nghị Trung ương chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II của Đảng (ngày 10/5/1950) có mục “phê bình và tự phê bình”; hay bài viết “phê bình và tự phê bình” của Bác, năm 1957, v.v. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “phê bình mình cũng như phê bình người” tức là phê bình bao hàm cả tự phê bình và phê bình. Như vậy, tự phê bình và phê bình cần được hiểu là hai mặt của một vấn đề, như “hai cánh của một con chim”. Theo Bác, nói tự phê bình trước vì chúng ta phải “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; đồng thời, yêu cầu mọi người phải thẳng thắn phê bình: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa”4.

Những luận giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy tự phê bình và phê bình đều quan trọng và cần thiết như nhau. Hiện nay, trong sinh hoạt, các cấp ủy, tổ chức đảng phải chú trọng, quan tâm đúng mức cả hai mặt này như lời căn dặn: “... các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”5.

Hai là, tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ rộng rãi. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phê bình là quyền lợi nhiệm vụ của mọi người, là thực hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể”6. Dân chủ rộng rãi trong thảo luận và phê bình tức là phải đường hoàng, chính đáng: “mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”7. Ngược lại, nếu không dân chủ thì: “... các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau”8. Rõ ràng, không dân chủ trong phê bình là hết sức nguy hại.

Để thực hành dân chủ được rộng rãi thì vai trò của cấp ủy, người đứng đầu rất quan trọng. Theo Bác, người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh: “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu”; “nghiêm túc tự kiểm điểm, tự phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế”9. Là người luôn tâm huyết, tận trung với Đảng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng đúc rút: “Kinh nghiệm cho thấy muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng đắn”10.

Ba là, cách thức tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm chỉnh dựa trên tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau. Đây là sự đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt mấy chục năm rèn luyện Đảng ta. Tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, như mỗi ngày phải rửa mặt, để trong Đảng không có bệnh và Đảng mạnh khỏe. Người căn dặn: “Người cách mạng và đoàn thể cách mạng cần phê bình và tự phê bình thiết tha như người ta cần không khí. Cách mạng sở dĩ phát triển mãi, tiến bộ mãi, càng gặp nhiều gian khổ càng mạnh mẽ thêm, là nhờ có phê bình và tự phê bình”11. Phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh là phải hết sức đúng đắn và chặt chẽ. Phê bình nghiêm chỉnh là phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nói bóng bẩy, không nể nang, không thêm bớt; phải vạch rõ cả ưu và khuyết điểm với thái độ đúng mực. Chính sự nghiêm chỉnh là biểu hiện rõ nét nhất của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, vì chỉ có lòng thân ái, lòng thành thật thì mới ráo riết phê bình đồng chí mình một cách nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh không có nghĩa là cứng nhắc, mà là phải: “... biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình để tự mình sửa chữa”12. Chúng ta phải: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định sẽ hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”13.

Quan điểm của Bác về phê bình và tự phê bình được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong các nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng; trong đó, nhấn mạnh đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”14. Rút kinh nghiệm của những nơi làm qua loa, đại khái, Đảng ta yêu cầu cần thực hiện nghiêm chỉnh việc tự phê bình và phê bình, đó là: “Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp phê bình và tự phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác”15. Điều này, đang được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán triệt, triển khai thực hiện để nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình.

Bốn là, mục đích của tự phê bình và phê bình là để đoàn kết và đi tới thắng lợi của cách mạng. Phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, để tiến bộ, để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Phê bình và tự phê bình là một khâu trong công tác chỉnh đốn Đảng, mà mục đích chỉnh đốn Đảng theo Hồ Chí Minh là nhằm: “... làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”16. Trong Di chúc của mình, Người cũng đã chỉ rõ, tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Chính nhờ sự đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc nên Đảng ta mới tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đúc kết một cách ngắn gọn, thì mục đích gần của phê bình là tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; mục đích xa là vì sự thắng lợi của cách mạng. Đại đoàn kết sẽ dẫn tới đại thành công. Đó là vấn đề mà trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh, đề cao tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp. Bởi vì, chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình thì Đảng ta mới không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu, thực sự có sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

 

“Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác”

 “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc”.

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Chống quan liêu, tham ô, lãng phí”, đăng trên Báo Nhân dân, số 68, ngày 31/7/1952. Những tư tưởng về chống tham ô, lãng phí của Bác Hồ mang tầm chiến lược và có giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc. Thấu triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành đồng bộ các nghị quyết, chỉ thị, qui định và các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; mở rộng dân chủ rộng rãi ở cơ sở; tăng cường công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng, gắn với phát động và động viên sự giám sát của nhân dân theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng, không có vùng cấm để loại bỏ thứ giặc nội xâm ra khỏi đời sống xã hội đã trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế độ góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và thành công trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai quyết liệt, đồng bộ các biện pháp thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Qui định trách nhiệm của người cán bộ chủ trì và tổ chức cho cán bộ, đảng viên đăng ký cam kết chấp hành nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, Nhà nước; thực hiện nghiêm, có chất lượng qui định về kê khai tài sản với các đối tượng theo qui định; phát huy dân chủ rộng rãi thông qua sinh hoạt Đảng, sinh hoạt đơn vị, thực hiện tài chính công khai ngày, tuần, tháng; tổ chức có nền nếp, chất lượng Ngày Chính trị, văn hóa tinh thần; Ngày Pháp luật ở đơn vị. Đồng thời, tích cực triển khai nhiều biện pháp đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành hành tiết kiệm, chống lãng phí trên mọi lĩnh vực học tập, công tác, sinh hoạt ở đơn vị tạo bầu không khí dân chủ, tin cậy, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

 

Khi vĩnh biệt thế giới này, Bác Hồ của chúng ta không có tài sản gì để lại, chỉ để lại “Muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. 

Trong Di chúc, lời căn dặn đầu tiên của Người là: “Trước hết nói về Đảng”. Bác viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Những chỉ dẫn của Bác về Đảng tập trung vào 3 vấn đề lớn gồm: Đoàn kết, tự phê bình và phê bình và đạo đức cách mạng. Đây là 3 nội hàm quan trọng bậc nhất, quyết định sự trường tồn của Đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng phải thể hiện bằng tư tưởng và hành động; trong Đảng không thể có tình trạng “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh.

Sau khi khẳng định nhờ có sự đoàn kết và tinh thần phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, phục vụ Tổ quốc, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Bác đã chỉ ra: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

Có thể khẳng định, mỗi khi đọc lại, nghe lại bản Di chúc thiêng liêng của Bác, mỗi người dân Việt Nam ai cũng vẹn nguyên xúc động, xao xuyến. Là những người làm công tác đảng nhiều năm, chúng tôi càng thấm thía, càng thấy sâu sắc bản Di chúc bất hủ, chứa đựng đầy ắp, chứa chan tình cảm thân thương của Bác đối với Đảng, Tổ quốc, với Nhân dân.

Toàn bản Di chúc chỉ trên 1.000 từ được cân nhắc từng câu, từng chữ, vậy nhưng chỉ trong hơn 3 dòng ngắn gọn, cô đọng để dành nói về Đảng cầm quyền, Bác dùng tới 4 chữ “thật, thật sự”: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”

Đối với Nhân dân, Bác lo cái lo của dân, đau nỗi đau của dân. Quan điểm của Bác về vấn đề nhân dân rất rõ ràng. Đó là, Đảng muốn mạnh, muốn vững phải dựa vào nhân dân. Sau này, những nguyên tắc, quan điểm của Đảng đã cụ thể hóa quan điểm của Bác: Phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, nhiều Quy định của Trung ương, của Bộ Chính trị đã khẳng định vai trò kiểm tra, giám sát của Nhân dân với Đảng và Đảng phải giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân, phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

Hội nghị lần thứ tám (khóa XII) đã ban hành Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 “Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” và các Quy định trong nhiệm kỳ khóa XIII như: Quy định số 142-QĐ/TW ngày 23-4-2024 của Bộ Chính trị “về quy định thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ”; Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị “về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”; Quy định số 148-QĐ/TW ngày 23-5-2024 của Bộ Chính trị “về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”… càng cho thấy Đảng ta đang kiên trì, quyết tâm đẩy mạnh nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng theo tư tưởng của Người.

55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta đã làm được nhiều việc theo đúng lời căn dặn của Người. Trong đó, Đảng ta luôn kiên trì thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách sáng tạo, khoa học. Toàn Đảng đang đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIIkhóa XIII),

Nhờ có các nghị quyết, chỉ thị mà cán bộ, đảng viên đã nhận thức đầy đủ hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhằm đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống, nhiều nơi có cách làm sáng tạo như tổ chức hội thi kể chuyện về tấm gương của Bác. Nhiều mô hình, cách làm hay về xây dựng Đảng mang lại hiệu quả thiết thực như mô hình “Chi bộ bốn tốt”, “Giữ trọn lời thề đảng viên”, “Đảng viên dìu dắt quần chúng”, “Làm việc theo chức trách, nêu gương trong hành động”, “Đề cao trách nhiệm, giữ nghiêm kỷ luật, “Đảng viên tình nguyện tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Mỗi ngày, mỗi cán bộ, đảng viên miệng nói một điều hay, tay làm mười việc tốt”, “Học Bác mỗi ngày”, “Lời Bác dạy ngày này năm xưa”… đã có sức lan tỏa mạnh mẽ và trở thành phong trào cách mạng lớn ở tất cả các ngành, cơ quan, đơn vị và nhân dân trong cả nước.

Di chúc là 1 trong 5 tác phẩm bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công nhận là Bảo vật quốc gia. Di chúc của Người để lại mãi mãi là động lực to lớn, là ngọn hải đăng dẫn dắt Đảng ta, dân tộc ta trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Đồng thời, tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Thực hiện theo Di chúc của Người, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, làm cho Đảng ta xứng đáng là đạo đức, là văn minh, đáp ứng niềm tin yêu của Nhân dân, phấn đấu thực hiện tâm nguyện cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Mới đây, trong bài viết “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm khẳng định: “Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Từ Trung ương đến chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; Đảng phải huy động cho được toàn bộ trí tuệ, sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình; nỗ lực phấn đấu xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Nhớ Bác, học tập và làm theo Bác, chúng ta nguyện một lòng đi theo con đường mà Bác đã vạch ra cho dân tộc: “Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi, vững như muôn ngọn dải Trường Sơn (Theo chân Bác - Tố Hữu).

“Nhờ tinh thần anh dũng và lòng yêu nước của toàn thể Nhân dân Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”.

 Đó là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tròn 15 tuổi”, Người viết vào cuối tháng 8-1960.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, đã lật đổ chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần anh dũng, lòng yêu nước của toàn thể Nhân dân Việt Nam.

Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước, toàn dân ta nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, không sợ hy sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do và sự thật Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do.

Phát huy tinh thần anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày nay, Quân đội ta tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), thế trận QPTD gắn với xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; ngăn chặn, phản bác kịp thời những thông tin, luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.


“Cán bộ phải thương yêu đội viên”

 Đó là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong 2, họp từ ngày 23 đến 28-10-1950 tại tỉnh Cao Bằng.

Tình đồng chí, đồng đội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, vừa là thuộc tính bản chất của quân đội cách mạng, vừa là cơ sở tạo nên sức mạnh của quân đội, trong đó quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ là mối quan hệ đặc trưng bản chất. Mối quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam được hình thành, phát triển trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, chiến thắng của quân đội. Một mặt, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của quân đội; mặt khác, dựa trên tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, đoàn kết gắn bó chặt chẽ keo sơn “lúc thường cũng như lúc ra trận” giữa những con người cùng chung lý tưởng, mục tiêu, cùng thực hiện nhiệm vụ cao cả của người quân nhân cách mạng. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô tận để bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Chính vì vậy, đòi hỏi cán bộ phải luôn là tấm gương sáng để cấp dưới và chiến sĩ học tập, noi theo. Tình thương yêu đồng chí, đồng đội được tôi luyện, thiết lập vững chắc trong Quân đội ta qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và trở thành nét đẹp truyền thống, thành bản chất, là một trong những nhân tố cấu thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội ta.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ căn dặn, đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đội các thời kỳ luôn quan tâm thiết thực, chu đáo đến đời sống tinh thần và vật chất của bộ đội, hết lòng chăm lo xây dựng đơn vị, tôn trọng và thương yêu cấp dưới như “chân tay”, do vậy cấp dưới sẽ kính trọng, coi lãnh đạo, chỉ huy của mình “như đầu óc”, như người thân; từ đó họ sẽ mang hết khả năng của mình để thực hiện chỉ thị, mệnh lệnh một cách tự giác và có hiệu quả cao nhất. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy phải thường xuyên phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện xứng đáng là người anh, người “chị hiền” tận tuỵ chăm lo cho tập thể, cho bộ đội, là hạt nhân đoàn kết thống nhất xây dựng đơn vị VMTD

“Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở”

 Đó là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết: “Đoàn kết tiến lên giành thắng lợi mới”, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 33 Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-1963), trong bối cảnh dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đang tích cực thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và cùng với đồng bào, chiến sĩ miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng để thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.

Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng lúc này đặt ra tính cấp thiết phải đoàn kết và phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Tuy nhiên, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân chỉ có thể được phát huy khi mỗi chi bộ đảng ở cơ sở phải thực sự là hạt nhân lãnh đạo và là tấm gương mẫu mực về sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động. Mặt khác, để phát huy trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và các chi bộ đảng phải làm tốt công tác dân vận.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ yêu cầu đối với việc xây dựng các chi bộ ở các địa phương, các cấp, các ngành. Theo Người, các chi bộ phải thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo, phải biết đoàn kết, gắn bó và phát huy vai trò của quần chúng; đồng thời chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Trung ương.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ và là mục tiêu phấn đấu, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Lời dạy của Người đã củng cố ý chí, quyết tâm, sự đoàn kết, thống nhất của các chi bộ ở cơ sở, góp phần quan trọng thúc đẩy thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc và phát huy sức mạnh của đồng bào, chiến sĩ miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

“Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy…”

 “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt”. Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, ngày 20-2-1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt. Mặc dù phải chỉ đạo kháng chiến nhưng Bác vẫn dành thời gian đi thăm và nói chuyện với cán bộ, nhân dân các địa phương, trong đó có tỉnh Thanh Hóa.

Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là: Cán bộ phải là mắt xích quan trọng, là dây chuyền của bộ máy, giúp cho bộ máy hoạt động có chất lượng, hiệu quả. Người còn nhấn mạnh, khẳng định vị trí, vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ, theo đó, cán bộ là cái gốc của mọi công việc và cái gốc của cán bộ chính là đạo đức cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần chúng không được giáo dục, không được tập hợp thành một khối thống nhất thì cách mạng cũng không đi đến thành công. Trách nhiệm của người cán bộ là người tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân và tập hợp quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất mới tạo ra sức mạnh tổng hợp và đưa cách mạng đến thành công. Cán bộ còn là cầu nối, là dây chuyền của bộ máy, phải thực sự tận tâm, tận lực với công việc, thực sự là tấm gương trước quần chúng nhân dân, thực sự là công bộc của dân.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lời căn dặn của Bác vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn, là tư tưởng chỉ đạo trong công tác cán bộ của Đảng ta, đồng thời là yêu cầu, đòi hỏi đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ trong quân đội nói riêng phải không ngừng học tập, tu dưỡng về phẩm chất, năng lực, thực sự là hạt nhân đoàn kết, gương mẫu, tiêu biểu về mọi mặt, tận tâm tận lực với công việc, là tấm gương sáng trong từng đơn vị để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.


Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ

 Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Nguyên ngày 13-3-1960, trong thời điểm miền Bắc đang tiến hành khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển nền kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN); quân và dân miền Nam đang đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tiến tới phát động cao trào cách mạng mới.

Quan điểm trên đây của Người cùng với đường lối, chủ trương đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) đã trở thành định hướng, phương châm, mục tiêu hành động của các tầng lớp Nhân dân trong công cuộc xây dựng miền Bắc theo con đường cách mạng XHCN, củng cố, tăng cường sức mạnh của hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Dưới ánh sáng của Đại hội III, quân và dân ta thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hướng tới mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của CNXH là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh xét đến cùng là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Ngược lại, con người là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Năm 1975, quân và dân ta đã hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc-kỷ nguyên độc lập, hòa bình, thống nhất, cả nước đi lên CNXH.

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay có nhiều chuyển biến mau chóng, phức tạp, câu nói của Bác: “CNXH là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là mục tiêu lý tưởng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta hướng tới.

Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về rèn đức, luyện tài, phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân; phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực tự cường, cần, kiệm xây dựng đất nước, xây dựng quân đội vững mạnh.

Ra mắt bộ sách mới về Bác Hồ: “Rèn nhân cách - Luyện tài năng”

 Nhân dịp kỉ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2024) và 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2024), nhằm giúp các em học sinh có thêm tư liệu tìm hiểu về Bác Hồ kính yêu, phấn đấu, học tập, rèn luyện theo gương sáng của Người, Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản bộ sách “Rèn nhân cách - Luyện tài năng”.

Bộ sách gồm 5 cuốn với 5 chủ điểm: Yêu nước; Đoàn kết; Khiêm tốn; Giản dị; Tiết kiệm. Những câu chuyện về Bác được các tác giả là các giảng viên thế hệ 8X Tạ Văn Sang, Bùi Văn Như, Phạm Văn Hòa sưu tầm và kể lại một cách ngắn gọn, súc tích.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta là tấm gương sáng về đạo đức, tác phong và phẩm chất cách mạng để các thế hệ thời đại mới học tập và noi theo. Sinh thời, bằng hành động, việc làm cụ thể, Bác đã luôn gợi mở cho chúng ta rất nhiều bài học thực tế về lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần đoàn kết, nếp sống kỉ luật, giản dị, liêm khiết, suốt đời phấn đấu hi sinh vì sự nghiệp cách mạng, vì hạnh phúc của nhân dân.

Giản dị, trước hết là lối sống đơn giản, không phô trương, không coi nặng tiền bạc. Giản dị từ cách diễn đạt, sinh hoạt, trang phục, nơi ăn chốn ở nhưng lại trọng nghĩa, trọng tình, tinh tế và sâu sắc trong đối nhân xử thế, được đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế kính trọng.

Tiết kiệm là sử dụng chừng mực, đúng mức, không phí phạm tiền bạc, của cải, sức lực, thời gian. Tiết kiệm cũng được hiểu là sự dành dụm, tích lũy do biết quản lí, chi phí tiêu dùng đúng mức. Với Bác, tiết kiệm không chỉ là câu chuyện chiếc phong bì, tờ bản tin, bữa cơm… ở phòng làm việc, cơ quan, công xưởng mà còn rộng lớn hơn, tiết kiệm là đức tính hữu ích cho xã hội. Bác đưa ra những quan điểm về tiết kiệm một cách gần gũi, dễ hiểu và giúp mọi người ai cũng có thể thực hành tiết kiệm được.

Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mực trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình hơn người. Trong cuộc sống, khiêm tốn thể hiện từ lời ăn, tiếng nói, cách ứng xử, truy cầu học hỏi, không ngừng hoàn thiện bản thân. Để rèn luyện đức tính khiêm tốn đúng mức, chúng ta cần hạn chế khoe khoang hay phô trương, không coi mình là “bậc thượng đẳng” quan trọng hơn nhiều so với người khác, biết tiếp thu ý kiến và trân trọng những gì người khác mang lại cho mình. Đọc những chuyện kể về Bác, chúng ta nhận thấy trong bất kể hoàn cảnh nào, Bác Hồ cũng luôn là người mực thước, khiêm cung.

Yêu nước, tình yêu đất nước hay lòng ái quốc, là cảm xúc, tình cảm, tinh thần yêu thương tích cực dành cho quê hương, đất nước, cội nguồn của một cá nhân hay một cộng đồng. Tình yêu đất nước, quê hương thể hiện ở niềm tự hào về những thành tựu của văn hóa, lịch sử, truyền thống… cũng như mong muốn được bảo vệ, giữ gìn, cống hiến hết mình cho nhân dân, cho Tổ quốc. Đọc những chuyện kể về Bác, chúng ta thấy một cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân và tận hiến đời mình cho dân tộc Việt Nam.

Đoàn kết là kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Tinh thần đoàn kết rất quan trọng, cần nhất quán, gắn bó, thống nhất một lòng, có thế sức mạnh và trí tuệ mới nhân lên, vượt qua được những thử thách của cuộc sống. Để rèn luyện đức tính đoàn kết, chúng ta nên rèn luyện, xây dựng tinh thần đồng đội, tăng cường kĩ năng hợp tác, giao tiếp, giải quyết vấn đề, gây dựng niềm tin, biết đồng thuận cũng như tôn trọng sự khác biệt. Trong suốt cuộc đời mình, Người cũng luôn tận tâm, tận lực quan tâm, nuôi dưỡng, gây dựng, gắn bó, đoàn kết mọi người, mọi nhà, mọi vùng miền, mọi tầng lớp nhân dân trong nước cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Những câu chuyện kể ngắn gọn, ý nghĩa về Bác Hồ được giới thiệu trong bộ sách "Rèn nhân cách - Luyện tài năng" sẽ làm sáng rõ thêm những phẩm cách cao quý của một vị lãnh tụ - danh nhân văn hóa, suốt đời vì dân vì nước. Phẩm chất, tư cách, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng cũng như những chuyện kể về Bác luôn để lại cảm xúc sâu đậm và có ý nghĩa sâu sắc với mỗi chúng ta.

Trong dịp này, nhiều ấn phẩm viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản như: “Búp Sen Xanh”, “Thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh”, “Tấm chân dung Bác Hồ”, “Từ Làng Sen”; “Bác Hồ sống mãi”, “Bác Hồ viết Tuyên ngôn Độc lập”, “Bác Hồ viết Di chúc và Di chúc của Bác Hồ”, “Bác Hồ kính yêu”, “Kể chuyện Bác Hồ”, “Suốt đời học Bác”, “Những thiếu nhi bên Bác ngày ấy”…/.

 

Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi…

 Lời trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong bài “Một công nhân gương mẫu”, đăng trên Báo Nhân Dân, số ra ngày 29-3-1955, khi mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, cùng lúc phải thực hiện cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, vì vậy cần phải có sự nỗ lực cố gắng, đẩy mạnh thi đua.

Người chỉ rõ: Muốn thi đua đạt kết quả tốt thì đầu óc phải suy nghĩ, tìm tòi và phải có sáng kiến thì mới thu được kết quả tốt, cũng như chân tay phải cần cù nhanh nhẹn, có như vậy kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.

Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp cách mạng nước ta tuy đã đạt được những thành tựu to lớn sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Lời dạy của Người: “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi… cũng như tay chân phải cần cù nhanh nhẹn” vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được Đảng, Nhà nước, các ban, ngành, các tổ chức chính trị xã hội… hiện thực hóa thành các phong trào thi đua sâu rộng… Để thực hiện tốt nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, đòi hỏi nội dung, hình thức, phương pháp thi đua phải sát với yêu cầu thực tiễn của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân; từ phong trào nhỏ, quy mô nhỏ, tiến tới phong trào lớn và quy mô lớn.

Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi...” và “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển, yêu cầu cao; thời cơ, thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen. Điều đó đặt ra cho công tác thi đua phải tiếp tục đổi mới, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả, thực sự là động lực thúc đẩy toàn quân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.


Bồi dưỡng thế hệ cách mạng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào các thế hệ đoàn viên, thanh niên Việt Nam. Trước lúc đi xa, Bác đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với đoàn viên, thanh niên. Người căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên””.

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

Được Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết từ tháng 5/1965, bản Di chúc thực sự là kết tinh trí tuệ và tình cảm của Bác; là những lời di huấn thiêng liêng nhất Người muốn gửi lại toàn dân tộc trước lúc đi xa. Nội dung Di chúc đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như xây dựng Đảng; bồi dưỡng thế hệ cách mạng; giáo dục đạo đức, truyền thống… qua đó thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện và khả năng dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Bác với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh việc chăm lo, giáo dục đoàn viên, thanh niên. Theo Bác, cách mạng là sự nghiệp lâu dài; vì vậy Đảng phải có lực lượng nòng cốt là đoàn viên, thanh niên. Muốn xây dựng Đảng phải quan tâm giáo dục thế hệ trẻ, đoàn viên, thanh niên; Đảng, Nhà nước và nhân dân cần quan tâm, chăm lo đoàn viên, thanh niên với tư cách là những chủ nhân tương lai của đất nước.

Người viết: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ” (1). Đây là kết quả tổng kết, đúc rút từ chính thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ cách mạng. Lời căn dặn này của Bác trong Di chúc có giá trị định hướng việc giáo dục rèn luyện và phát huy mọi khả năng của đoàn viên, thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Cùng với đó, Người nhấn mạnh: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” (2). Việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể hiện trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết là bồi dưỡng lý tưởng cộng sản; giáo dục truyền thống yêu nước; bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo lực lượng kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự quan tâm, chăm lo cho sự nghiệp cách mạng, vun trồng “cái gốc” để sự nghiệp của các thế hệ đi trước luôn được thế hệ trẻ gìn giữ, phát huy, phát triển. Đồng thời, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc còn thể hiện nhãn quan chính trị sáng suốt, tầm nhìn sâu sắc của Bác đối với vận mệnh của dân tộc; có giá trị cả với hiện tại và tương lai của đất nước.

Giáo dục thanh niên vừa “hồng” vừa “chuyên” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định vị trí vai trò của đoàn viên, thanh niên trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ năm 1925, Bác đã khẳng định trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại. Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” (3). Theo Người, thanh niên là bộ phận trẻ, khỏe, dám nghĩ, dám làm, giàu ý chí, nghị lực và ước mơ; “Thanh niên là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội… Thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ…” (4). Do vậy, tập hợp, giáo dục, rèn luyện đoàn viên, thanh niên luôn là vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng.

Đặc biệt, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần quan tâm, giáo dục đạo đức cách mạng để đoàn viên, thanh niên “thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” (5). Thấm nhuần và thực hiện căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm qua, Đảng ta đã luôn quan tâm chăm lo, xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Thanh niên Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm; luôn trung thành với sự lãnh đạo của Đảng, kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đại đa số thanh niên Việt Nam đã ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng đã trở thành động lực cho sự phát triển của các địa phương trong cả nước.

Tuy nhiên, mặt trái nền kinh tế thị trường và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động đang tác động tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của đoàn viên thanh niên hiện nay. Một bộ phận đoàn viên, thanh niên vì vậy đã có những biểu hiện phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống hưởng thụ, thực dụng; ngại cống hiến, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội;…

Trước thực trạng trên, tiếp tục thực hiện căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc về bồi dưỡng thế hệ cách mạng, thời gian tới, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đoàn viên, thanh niên với nội dung và phương pháp thích hợp làm cơ sở cho nâng cao bản lĩnh chính trị, thức trách nhiệm, giữ vững niềm tin của đoàn viên, thanh niên vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Phát huy vai trò của tổ chức Đoàn các cấp trong tập hợp, giáo dục và đưa đoàn viên, thanh niên vào các phong trào hành động cách mạng. Chú trọng nâng cao chất lượng các phong trào thi đua của tuổi trẻ cả nước; nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến gắn với đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".

Đặc biệt, cần quan tâm xây dựng môi trường xã hội tích cực, tạo cơ hội thuận lợi để đoàn viên, thanh niên phát triển bản thân và cống hiến cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Hoàn thiện hệ thống chính sách, quan tâm, chăm lo toàn diện đời sống vật chất, tinh thần và nhu cầu, lợi ích chính đáng của thanh niên. Đồng thời, chủ động khắc phục tư tưởng hoài nghi, hoang mang, dao động, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng ở một bộ phận giới trẻ hiện nay. Kiên trì xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam có đạo đức cách mạng, có ý thức chấp hành kỷ luật, có văn hóa, lối sống lành mạnh... là lực lượng nòng cốt trong xây dựng đất nước Việt Nam “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn", như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời./.

 



 

“Bất kỳ việc to việc nhỏ, phải chịu khó giải thích cho mọi người dân hiểu rõ thì dân sẽ vui lòng làm, mà việc gì cũng thành công”

 Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài: “Công trái”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1859, ngày 11 tháng 7 năm 1951. Đây là giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đảng và Nhà nước ta phát hành công trái để phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đi đến thành công. Mặc dù cuộc phát hành công trái nhìn chung đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra; nhưng có địa phương, đơn vị chưa đạt chỉ tiêu; đặc biệt, so với việc Liên Xô phát hành công trái thì ta còn hạn chế. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra lý do những địa phương, đơn vị chưa đạt chỉ tiêu là do cán bộ những nơi đó tuyên truyền, giải thích chưa rõ, thậm chí quan liêu, mệnh lệnh.

Hồ Chí Minh khẳng định, trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bất kỳ từ “việc to” đến “việc nhỏ”, nếu biết cách và kiên trì tuyên truyền, giải thích, động viên quần chúng nhân dân để họ hiểu rõ thì sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và việc gì cũng sẽ đem lại thành công. Lời dạy đó không chỉ dành cho một người, một việc mà còn dành cho mọi cán bộ, đảng viên trong tất cả mọi việc. Qua đây, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh những tác động tiêu cực của bệnh quan liêu, mệnh lệnh đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên.

Lời dạy trên đây của Hồ Chí Minh là sự khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng; đồng thời, cũng nói lên tầm quan trọng đặc biệt của công tác tuyên truyền quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giác ngộ, đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng khó khăn, phức tạp hơn, trong khi đó các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, kích động, chia rẽ nhân dân với Đảng. Thực tế đó càng đòi hỏi phải quán triệt và thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền.

“Mọi người công dân - già trẻ gái trai - đều phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà”

 “Mọi người công dân-già trẻ gái trai-đều phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà. Mọi người phải nâng cao tinh thần trách nhiệm cần kiệm xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội”- Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với nhân dân và cán bộ tỉnh Hải Dương khi Người về thăm và làm việc tại địa phương, ngày 26-7-1962. Đây là thời kỳ miền Bắc đang đẩy mạnh xây dựng CNXH; miền Nam chiến đấu anh dũng chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất nước nhà.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới chế độ mới-chế độ Dân chủ nhân dân, mọi công dân phải có tinh thần làm chủ đất nước, phải khắc phục tư tưởng làm thuê, làm mướn dưới chế độ thuộc địa, nửa phong kiến và phải chống chủ nghĩa cá nhân. Phải không ngừng phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, nhất là cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần mình vì mọi người, mọi người vì mình, đề cao trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập, công tác và thực hành tiết kiệm, thật sự là người chủ xây dựng đất nước.

Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng gay gắt; sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa thực tiễn to lớn; bởi, chỉ có đề cao tinh thần tự lực, tự cường, làm chủ mới có sự sáng tạo và chỉ có sáng tạo mới tạo ra những giá trị đáp ứng cho sự phát triển bền vững và bảo đảm cho thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Lời Bác dạy có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo đảm cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong bất luận mọi điều kiện, hoàn cảnh phải tuyệt đối trung thành và sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; ra sức học tập nâng cao trình độ mọi mặt; tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, bảo quản, giữ gìn, khai thác và phát huy tốt nhất sức mạnh của vũ khí, trang bị; thực hành cần, kiệm, liêm, chính; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thờ ơ, ngại rèn luyện, kém phấn đấu; nêu cao tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD “mẫu mực, tiêu biểu”

“Nhờ tinh thần anh dũng và lòng yêu nước của toàn thể Nhân dân Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”

 Đó là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tròn 15 tuổi”, Người viết vào cuối tháng 8-1960.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, đã lật đổ chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần anh dũng, lòng yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước, toàn dân ta nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, không sợ hy sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do và sự thật Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do.

Phát huy tinh thần anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày nay, quân đội ta tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; ngăn chặn, phản bác kịp thời những thông tin, luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

Cách mạng Tháng Tám thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong đồng bào Công giáo

 inh thần dân tộc và lòng yêu nước của đồng bào Công giáo Việt Nam như những viên than hồng âm ỷ cháy, khi Cách mạng Tháng Tám đến đã thổi bùng lên thành biển lửa, làm thay đổi diện mạo của Giáo hội với hầu hết người Công giáo đã đứng về phía Cách mạng.

Đạo Công giáo du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII. Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, ngay từ thời kỳ đầu Công giáo vào Việt Nam, đã xuất hiện những linh mục, tín hữu Công giáo người Việt có tư tưởng Công giáo đồng hành cùng dân tộc, tiêu biểu như linh mục Đặng Đức Tuấn (1806 - 1874) đã dâng kế sách chống Pháp (còn gọi là “Minh đạo bình Tây sách”); giáo dân Đinh Văn Điền ở Yên Mô- Ninh Bình, năm 1868 đã mật tâu với vua kế sách để đánh Pháp bằng việc canh tân đất nước, luyện tập võ bị sẵn sàng đánh Pháp; nhân sĩ người Công giáo Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) là một nhà cải cách có lòng yêu nước, đã đã chủ trương làm cuộc cách mạng trong giáo dục để chấn hưng dân trí, phát triển đất nước.

Đầu thế kỷ XX, ở vùng đất Nghệ Tĩnh dưới sự lãnh đạo của nhà trí sĩ yêu nước Phan Bội Châu với phong trào Đông Du - Duy Tân, một tổ chức yêu nước cách mạng riêng cho người Công giáo được thành lập với tên gọi Duy Tân Giáo đồ hội. Ban lãnh đạo Hội gồm 3 linh mục: Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng, Nguyễn Tường và thầy giảng đạo Mai Lão Bạng. “Chương trình hoạt động của hội là: Tuyên truyền, giải thích cho giáo sĩ, giáo dân Việt Nam về tinh thần yêu nước, xóa bỏ thành kiến đối với những người yêu nước chống Pháp;  Tổ chức các hội buôn hay cơ sở công nghệ để làm kinh tài cho phong trào Đông Du; Vận động các nhà phú hữu Công giáo đóng góp tài chính cho phong trào; Vận động thanh niên Công giáo cùng với thanh niên bên lương xuất gia tu học ở Nhật Bản”, PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương cho biết.

Còn theo TS. Pham Huy Thông, Phó Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hà Nội, Giám đốc Trung tâm Tôn giáo học - Viện Trí Việt, tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của người Công giáo Việt Nam thời kỳ Cách mạng Tháng Tám được biểu lộ qua nhiều hoạt động, như: tháng 7/1945, những nhạc sĩ Công giáo như Hùng Lân, Nguyễn Khắc Xuyên, Tâm Bảo… đã họp nhau tại phố Phủ Doãn (Hà Nội) để lập ra một nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh với chủ trương: “Về nội dung: Phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, về nghệ thuật: lấy dân ca cổ truyền làm cấu trúc âm thanh”. Trước đó trong thánh nhạc Công giáo, từ ca từ đến giai điệu đều là ở nước ngoài đưa vào.

Trong ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, mặc dù bị bề trên là các giáo sĩ người nước ngoài cấm đoán, nhưng 200 chủng sinh Đại Chủng viện Xuân Bích vẫn tập hợp để biểu thị ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Thiết kế kỳ đài cho Lễ Tuyên ngôn Độc lập là họa sĩ người Công giáo Lê Văn Đệ và chỉ huy đoàn quân nhạc cử bài “Tiến quân ca” hôm đó cũng là nhạc sĩ người Công giáo Đinh Ngọc Liên.

Nhiều Tòa Giám mục như Hà Nội, Thái Bình tu sĩ, linh mục đã tập trung hô các khẩu hiệu: “Các giáo sĩ nước ngoài hãy về nước, giáo hội Việt Nam để cho người Việt Nam”, những giáo phận này sau đó phải thay vị Tổng đại diện người nước ngoài bằng các linh mục người Việt. Tại Sài Gòn, không chỉ giáo dân mà có cả linh mục tham gia diễu hành ủng ủng hộ Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Những người Công giáo kháng chiến Nam Bộ ra tuyên bố: “Xét rằng, người Pháp xâm chiếm đất nước Việt Nam chúng ta và áp bức nhân dân Việt Nam trong 80 năm. Xét rằng, người Pháp thờ Chúa mà không sống yêu thương và công bằng như Chúa dạy mà tham lam đến độ không ngần ngại đàn áp nhân dân Việt Nam. Chúng ta phải đem cả con tim và trí tuệ bảo vệ sự sống còn của dân tộc chúng ta…” (1).

Đặc biệt, hào khí của Cách mạng Tháng Tám đã tác động đến hàng giáo sĩ cấp cao của Giáo hội tại Việt Nam qua việc các giám mục gửi thư cho Đức Giáo hoàng. “Cả 4 giám mục người Việt Nam lúc đó cùng ký tên vào bức điện gửi Tòa Thánh và Kitô hữu toàn thế giới đề nghị ủng hộ nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời bày tỏ quyết tâm bảo vệ đất nước đến cùng”, TS. Phạm Huy Thông nhấn mạnh.

Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương: Cách mạng Tháng Tám đã thôi thúc người Công giáo vùng lên cùng dân tộc giành lấy chính quyền. Người Công giáo huyện Kim Sơn (Ninh Bình) tham gia cướp chính quyền từ tay kẻ xâm lược, tổ chức mít tinh, biểu tình, đoàn người đa số là thanh niên Công giáo rực rỡ cờ đỏ sao vàng và căng khẩu hiệu vừa đi vừa hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Ủng hộ mặt trận Việt Minh”. Hàng chục vạn đồng bào Công giáo ở Vinh, Huế, Thái Bình, giương cao cờ đỏ sao vàng, xuống đường ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong lúc Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời còn non trẻ bị các thế lực giặc trong thù ngoài vây phá, đồng bào Công giáo cả nước đã thể hiện quyết tâm đứng lên bảo vệ Chính phủ Hồ Chí Minh. Điển hình là các giám mục, linh mục, giáo dân vùng Vinh - HàTĩnh - Quảng Bình gửi thư lên Hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định quyết tâm: “Dù phải hy sinh xương máu để kiến thiết nước nhà tự do hạnh phúc hoàn toàn thì chúng tôi cũng sẵn sàng không ngần ngại”. Trong thư hồi âm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng cảm ơn: “Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn bức thư các vị đã gửi cho chúng tôi. Trong thư viết: “Dù phải hy sinh xương máu để kiến thiết một nước nhà tự do hạnh phúc hoàn toàn, thì chúng tôi cũng sẵn sàng không ngần ngại”. Câu nói nhiệt thành đó tỏ rằng các vị là những người chân chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính của tín đồ của Đức Giêsu. Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu” (2).

Hưởng ứng “Tuần lễ vàng” của Chính phủ cách mạng, Giám mục Giáo phận Bùi Chu Hồ Ngọc Cẩm thể hiện tinh thần kính Chúa, yêu nước bằng cách giữ lại cây thánh giá để phụng sự Thiên Chúa, dây chuyền vàng thì ủng hộ cho kháng chiến kiến quốc của dân tộc. Giám mục Hồ Ngọc Cẩn viết: “Phàn tôi khi thụ phong Giám mục, có một đấng biếu tôi Thánh giá và dây đeo thực bằng vàng. Nhưng tôi nghĩ, trên có giời che, dưới có đất chở. Trên phải phụng sự Thiên Chúa, dưới cũng không quên Tổ quốc. Vậy trong lúc này, tôi cũng vui lòng chia của quý này làm hai. Thánh giá tôi giữ lại để phụng sự Thiên Chúa, dây đeo tôi xin dùng để phụng sự quốc gia” (3).

Từ những minh chứng sống động trên, TS. Phạm Huy Thông khẳng định: Tinh thần yêu nước của người Công giáo như những viên than hồng âm ỷ cháy, khi Cách mạng tháng Tám đến đã thổi bùng lên thành biển lửa, làm thay đổi diện mạo của Giáo hội với hầu hết người Công giáo đã đứng về phía Cách mạng, khiến Giám mục Cassaigne phải thốt lên ngạc nhiên: “Họ đã cải biến người An Nam của chúng ta đi mất rồi”. Cũng theo TS. Phạm Huy Thông, lòng yêu nước của người Công giáo Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trân trọng. Ngay sau Quốc khánh, trong Chính phủ Cách mạng có nhiều gương mặt Công giáo, như bác sĩ Vũ Đình Tụng - Bộ trưởng Y tế, Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Hà - Bộ trưởng Kinh tế, nhân sĩ Ngô Tử Hạ - Bộ trưởng Cựu chiến binh. Hai Giám mục Lê Hữu Từ và Hồ Ngọc Cẩn là cố vấn Chính phủ, Linh mục Phạm Bá Trực là Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội khóa đầu tiên./.

 

 

“Cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào Nhân dân…”

 “Cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào Nhân dân; trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của Nhân dân là vô cùng vô tận”. Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài nói chuyện tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc, ngày 14-9-1959.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, qua thực tiễn hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh càng thấm sâu chân lý: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Người cho rằng, Nhân dân rất thông minh, sáng tạo, là nguồn sức mạnh vô tận. Thực tiễn đã chứng minh, thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và trong sự nghiệp đổi mới đất nước đều xuất phát từ đường lối, quan điểm “lấy dân làm gốc”.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không phải chỉ là việc riêng của các cơ quan Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, mà có sự tham gia tích cực của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Hoạt động của quần chúng Nhân dân theo phương châm đó, trước hết, là giúp cho các tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, đề cao trách nhiệm trước Nhân dân, tôn trọng ý kiến và nguyện vọng của nhân dân; tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thấm nhuần lời Bác dạy, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta, cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, thương yêu, tôn trọng bộ đội. Mối quan hệ cán-binh được xây dựng trên cơ sở tình thương yêu đồng chí, đồng đội, được tôi luyện, thiết lập vững chắc qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trở thành bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, vừa là thuộc tính bản chất của một quân đội cách mạng, vừa là một trong những cơ sở tạo nên sức mạnh, vượt mọi khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. 


Giá trị văn hoá trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước toàn dân và toàn thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn độc lập của Người là áng văn lập quốc vĩ đại, là văn kiện có giá trị cao về tư tưởng, lý luận, văn hoá vô cùng đặc sắc, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại; là nơi kết tinh và toả sáng những nét đẹp văn hoá rất tiêu biểu của dân tộc như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, khoan dung và yêu chuộng hoà bình.

Có thể nói, Tuyên ngôn độc lập mà Hồ Chí Minh soạn thảo là sự khái quát cao nhất về khát vọng của dân tộc Việt Nam trong việc khẳng định chủ quyền dân tộc để xác lập quyền dân tộc và quyền con người trong thời đại mới. Chính Người từng khẳng định: “Tuyên ngôn độc lập là kết quả của những bản yêu cầu gửi cho Hội nghị Véc xây mà cụ Hồ đã viết năm 1919 và Chương trình Việt Minh cụ Hồ đã viết năm 1941. Hơn nữa bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của tiền bối như các cụ Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và của nhiều người khác, của bao nhiêu sách báo truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay” [1]. Đó là sự hy sinh cao quý của những người con ưu tú của dân tộc, đấu tranh bền bỉ không tiếc xương máu của bản thân cho sự nghiệp cao cả.

Người viết: “Bản Tuyên ngôn độc lập là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường... Bản Tuyên ngôn độc lập là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam” [2]. Từ những giá trị đó mà người viết Tuyên ngôn được xem là linh hồn của dân tộc Việt Nam, là hiện thân của chủ nghĩa dân tộc chân chính. Vì vậy, Tuyên ngôn không chỉ là sự kết tinh của văn hóa dân tộc và nhân loại mà còn chuyển tải được sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh mà trong đó nội dung của Tuyên ngôn đã xác lập các khái niệm, phạm trù văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại.

Nếu nhìn văn hóa ở góc độ hoạt động thực tiễn để tạo ra giá trị vật chất và tinh thần, nhà văn hóa lớn của Colombia khẳng định: “Bản thân cách mạng cũng là một sự nghiệp văn hóa, nó biểu hiện trọn vẹn một thiên hướng và khả năng sáng tạo, chứng minh và đòi hỏi ở tất cả chúng ta một niềm tin sâu sắc ở tương lai” [3]. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì khẳng định: “Sự nghiệp văn hóa quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa” [4]. Nói như vậy, Hồ Chí Minh thực sự là một nhà văn hóa kiệt xuất và sự nghiệp cách mạng của Người chính là sự nghiệp văn hóa, giá trị văn hóa mà Hồ Chí Minh xác lập dựa trên giá trị của loài người.

Nói đến văn hóa là nói tới giá trị, là bàn tới trình độ con người trong các mối quan hệ xã hội và tự nhiên, trong đó nổi lên là tầm trí tuệ văn hóa. Từ phương diện này chúng ta thấy Tuyên ngôn độc lập năm 1945, là một điển mẫu của việc sử dụng tri thức trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội. Đó là việc, Người đã kế thừa giá trị văn hóa nhân loại trong việc khẳng định quyền con người. Mở đầu Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã dùng các khái niệm như “tất cả mọi người...”, “người ta sinh ra...”, để mở đầu cho sự khẳng định điều tự nhiên của con người văn minh, tiến bộ phải được thừa hưởng giá trị “tự do”, “bình đẳng”...

Như vậy, cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp đã xác lập một giá trị văn hóa mà không ai có thể chối cãi, Người gọi đó là lẽ phải, là chân lý hiển nhiên của con người. Có thể nói Hồ Chí Minh đến với cách mạng, xác lập sự nghiệp mới của cách mạng từ giá trị văn hóa của nhân loại. Một sự trùng hợp đến lạ lùng, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi trong căn nhà của một gia đình tư sản dân tộc để viết Tuyên ngôn độc lập mà mở đầu cũng chính là sự kế thừa những giá trị văn hóa của tư sản để khẳng định chủ quyền dân tộc Việt Nam. Ở sự trùng hợp lạ lùng này có nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định đây là cơ sở để Người “phát huy khả năng tiên tri, tiên giác về một nền văn hóa nhân văn của thời đại mới mang tính phổ quát của toàn nhân loại. Với nguồn lực văn hóa lớn lao và tươi mới như vậy, Hồ Chí Minh đã cùng với cả dân tộc ta làm nên sự nghiệp chính trị vĩ đại: giành độc lập, tự do cho dân tộc và nhân dân, đem lại hạnh phúc cho con người” [5].

Văn hóa là một kho tàng kiến thức của con người về thiên nhiên, cuộc sống cũng như đánh giá sự tồn tại mà giá trị của nó có thể tăng cường lòng tin vào tính hoàn thiện không ngừng của con người. Muốn tồn tại, cùng với việc xây dựng, chắt chiu những giá trị văn hóa, thì phải loại bỏ khỏi cuộc sống những tư tưởng và hành vi phản văn hóa. Trên phương diện đó, chúng ta thấy điểm chung của văn hóa được biểu hiện ở trình độ tri thức làm người - trình độ người là văn hóa. Trình độ người ở đây, được hiểu là sự tôn trọng về quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [6]. Đặc trưng của văn hóa là sự tiếp biến và vượt gộp. Có nghĩa là tiếp thu những giá trị văn hóa của nhân loại từ đó biến đổi thành cái riêng cái đặc sắc của chính mình; còn vượt gộp là thâu thái những giá trị văn hóa của nhân loại từ đó vượt lên trên tất cả. Về phương diện này, mở đầu Tuyên ngôn độc lập năm 1945, chúng ta thấy rất rõ, Hồ Chí Minh đã tiếp thu giá trị văn hóa của nhân loại mà trực tiếp là di sản văn hóa về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để nâng nó lên thành quyền dân tộc, Người viết: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [7]. Người gọi đó là lẽ phải - tức là chân lý khách quan, hiển nhiên. Từ giá trị văn hóa này mà nhân loại không thể phủ nhận quyền con người và quyền dân tộc của cách mạng Việt Nam cho dù họ không muốn. Vì vậy mà quyền dân tộc được Hồ Chí Minh xác lập đã trở thành một giá trị phổ biến trong thế giới đương đại hiện nay.

Khẳng định và xác lập về chủ quyền của một dân tộc độc lập cũng chính là sự sáng tạo ra một sự nghiệp văn hóa mới của Hồ Chí Minh. Chúng ta biết, chủ nghĩa thực dân là một vết nhơ của lịch sử, là phản văn hóa. Đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ một vết nhơ của lịch sử là một sự nghiệp văn hóa vĩ đại, Người vạch trần bản chất phản văn hóa đó của thực dân: “Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Từ sự xâm lược thuộc địa, vi phạm quyền dân tộc tất yếu dẫn đến vi phạm các quyền cơ bản của con người như quyền dân chủ, dân sinh, tự do... Cụ thể: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu, cồn, để làm cho nòi giống ta suy nhược” [8].

Có thể nói, Tuyên ngôn độc lập là một sáng tạo văn hóa độc đáo của Hồ Chí Minh. Thông qua Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã thể hiện tính sáng tạo, lưu giữ, giáo dục cho cái đúng, cái tốt, và tạo điều kiện cho cái đẹp được nảy nở trong xã hội. Sau khi vạch trần tội ác man rợ của thực dân Pháp gây ra đối với nhân dân Việt Nam, như việc chúng hai lần bán nước ta cho Nhật, thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị, v.v.. Nhưng khi chúng ta giành được thắng lợi “đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo,… cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” [9]. Đoạn văn trên đã thể hiện trình độ người của quan hệ xã hội. Chúng ta ứng xử với thực dân Pháp trên góc độ của văn hóa người - cốt lõi là văn hóa khoan dung được đúc kết hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, là đặc biệt tôn trọng tính mạng con người. Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh thực sự là một nhà chính trị có một nhãn quan văn hóa toàn diện bao quát và sâu sắc.

Từ lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập cho đến đoạn kết của Tuyên ngôn, chúng ta thấy, điều xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh đều hướng tới một quan hệ văn hóa. Người kiến giải trên góc độ của văn hóa, nền tảng của văn hóa; từ văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức cho đến văn hóa pháp luật. Về văn hóa chính trị, Người tố cáo chủ nghĩa thực dân Pháp thực thi một nền chính trị độc tài, phi dân chủ, phản dân chủ và mất nhân tính, để đi đến khẳng định chủ nghĩa thực dân là thú tính: “Về chính trị - Chúng tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào” [10].

Nhận thức về văn hóa chính trị ở Hồ Chí Minh đã có trước đó, trong tác phẩm Nhật ký trong tù năm 1942, ở mục đọc sách Người đã nêu lên năm điểm lớn của nền văn hóa mới, trong đó về chính trị, Người viết: “Xây dựng một nền chính trị dân quyền”. Chính yếu tố văn hóa trong Tuyên ngôn độc lập đã làm cho Tuyên ngôn trường tồn cùng dân tộc. Là một nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấu hiểu rằng không thể nào có ý thức độc lập, tự do, xây dựng chính trị dân quyền nếu nhân dân còn mù chữ. Vì vậy, Người tố cáo chính sách giáo dục của thực dân “chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học” và “thi hành chính sách ngu dân”. Hành động phản văn hóa của thực dân đã mang một tội ác to lớn “chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”.

Sau khi tố cáo những tội ác của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đi đến tuyên bố “Xây dựng nước Việt Nam độc lập”, lập lên chế độ dân chủ cộng hòa, thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp. Kể từ đây một sự nghiệp văn hóa mới ra đời. Sự nghiệp văn hóa đó gắn liền với độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, quyền con người và quyền dân tộc được đảm bảo trên thực tế “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập” [11]. Để xứng đáng với một nước tự do độc lập, Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách, trong đó có hai nhiệm vụ được xem là đỉnh cao của văn hóa là chống nạn đói và nạn dốt. Người chủ trương “phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất”..., và “mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” [12]. Bởi vì một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; một dân tộc nghèo là một dân tộc hèn. Người xem nghèo đói, dốt nát là một thứ giặc; xem thói quen và những truyền thống lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Cho nên “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” [13].

Kể từ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trên cơ sở pháp lý quốc tế, nhân dân ta đã được tiếp thêm động lực tinh thần để tự mình xây dựng một nền văn hóa mới, trong đó nhân dân là chủ thể của những giá trị văn hóa và sự sáng tạo ra văn hóa.

Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, nó trở thành một giá trị văn hóa chính trị trong việc xác lập quyền con người và quyền dân tộc từ đó toát lên giá trị đạo đức của đạo lý và pháp lý. Tuyên ngôn độc lập còn nói với nhân dân Việt Nam rằng, cách mạng Việt Nam quyết thực hiện những mục tiêu cao cả ấy: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc cho đất nước, cho dân tộc, cho con người Việt Nam.

Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế, khu vực và đất nước hiện nay, tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập vẫn còn giữ nguyên giá trị, ý nghĩa mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại. Vì vẫn còn phải đấu tranh xây dựng một nền văn hóa chính trị với những chuẩn mực pháp lý và đạo lý trong sự tôn trọng quyền độc lập, quyền tự do, quyền bình đẳng cho mỗi dân tộc, và quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền hạnh phúc cho mỗi con người.

 

 

“Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”

 “Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”. Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Thủ đô”, ngày 30-9-1964.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và động cơ của việc học tập trong chế độ mới, khắc phục cách tư duy cũ do nền giáo dục thực dân, phong kiến để lại. Người dạy: Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà. Bên cạnh việc xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, Người yêu cầu tuổi trẻ phải thực hiện học tập toàn diện và học tập phải gắn liền với rèn luyện. Người dạy thanh niên phải ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Theo Bác, muốn thành công trong công việc, phải biết kết hợp giữa học và hành một cách chặt chẽ và xuyên suốt. Lấy lý thuyết hỗ trợ cho hành động và ngược lại, lấy hành động để khẳng định sự đúng đắn của lý thuyết. Vận dụng lý thuyết vào hành động thì lý thuyết được kiểm chứng; từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao hơn hiệu quả công việc. Học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng đắn. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống một cách hiệu quả.

Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân tích cực tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực quan điểm của Bác trong định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn; quán triệt và thực hiện nghiêm 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội; bám sát phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị; giáo dục-đào tạo gắn với huấn luyện chiến đấu; huấn luyện sát nhiệm vụ, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, lấy thực hành là chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện thể lực bộ đội. Tổ chức có chất lượng các cuộc diễn tập để nâng cao trình độ, khả năng SSCĐ, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


“Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta...”

 Trong bài viết đăng trên Báo Nhân Dân, số 236, từ ngày 9 đến ngày 10-10-1954, với bút danh “C.B”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự, an ninh, làm cho Thủ đô ta thành một Thủ đô bình yên, tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”.

Mùa Thu lịch sử năm 1945, Hà Nội lần đầu tiên đón Bác Hồ về đọc Tuyên ngôn độc lập sau ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Mùa Thu lịch sử năm 1954, Hà Nội đón Bác Hồ về Thủ đô sau ngày giải phóng. Từ đó đến nay, Hà Nội tiếp nối truyền thống Thăng Long - Đông Đô ngàn năm, ngày một xứng đáng là trái tim cả nước, xứng với danh hiệu Thủ đô anh hùng, thành phố vì hòa bình.

Trong chiến đấu, Hà Nội cùng quân, dân cả nước lập nên nhiều chiến công hào hùng, với cuộc chiến đấu tháng Chạp năm 1946 cùng toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp; với trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm tháng 12-1972… Trong hai cuộc chiến tranh chống xâm lược, Hà Nội là địa danh thiêng liêng, là hồn thiêng sông núi, nơi cả nước gửi gắm niềm lạc quan tin tưởng, ý chí tự hào, là điểm tựa tinh thần cho quân và dân cả nước hăng hái đánh giặc.

Trong hòa bình, Hà Nội đang từng bước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Hà Nội đổi mới từng ngày, phấn đấu văn minh hiện đại trên nền truyền thống ngàn năm văn hiến, tạo nên gạch nối hài hòa Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Hà Nội là trái tim của cả nước, trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế. Cả nước quan tâm theo dõi, ngưỡng mộ từng bước đi lên của Thủ đô. Vì thế Thủ đô Hà Nội có vinh dự, tự hào to lớn, nhưng đồng thời có trách nhiệm hết sức nặng nề. Hà Nội phải luôn luôn gương mẫu, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.