Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Điểm sáng trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

1.     

Thiếu tá Trịnh Văn Phú, Chính trị viên Đồn Biên phòng Ngọc Lâm cho biết: "Để thực hiện nhiệm vụ trên tuyến biên giới biển, đơn vị đã phối hợp với các tổ chức đoàn thể chính trị trong huyện tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các hộ dân. Từ đầu năm đến nay, đơn vị đã phối hợp với Hội Nông dân huyện tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), cách phát hiện và phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội được 35 buổi sinh hoạt với trên 2.300 lượt hội viên tham gia".

Với phương châm “mỗi cán bộ, chiến sĩ Biên phòng là một tuyên truyền viên pháp luật”, Đồn Biên phòng Ngọc Lâm luôn đan xen, kết hợp chặt chẽ giữa việc thực hiện nhiệm vụ công tác biên phòng với công tác tuyên truyền, PBGDPL, lấy công tác tuyên truyền miệng là chính và được thực hiện bằng nhiều mô hình khác nhau, nổi bật nhất là mô hình “Tiếng loa Biên phòng”.

Theo đó, đơn vị cùng với chính quyền địa phương 3 xã Nghĩa Hải, Phúc Thắng, Nam Điền và thị trấn Rạng Đông, tổ chức 4 cụm loa tuyên truyền lưu động, vận động người có uy tín trong các khu dân cư, chức sắc tôn giáo phối hợp tích cực tuyên truyền, PBGDPL cho nhân dân tại các khu dân cư, bến, bãi neo đậu tàu, thuyền. Một số cụm loa cố định được đặt ngay trên tuyến đường đi làm về của bà con, ngư dân để đạt được hiệu quả rộng nhất.

Ông Đỗ Ngọc Sang, ngư dân xã Phúc Thắng đã chia sẻ: ”Hiện nay, tôi và bà con trong xã đã quen thuộc với tiếng loa phát các nội dung tuyên truyền về những nội dung thông báo của địa phương, những văn bản pháp luật mới ban hành... Đặc biệt, thời gian dịch Covid-19 hoành hành, mô hình "Tiếng loa Biên phòng" đã trở nên gần gũi và thiết thực với bà con chúng tôi, giúp người dân nắm bắt được những thông tin bổ ích để phòng, chống bệnh dịch, nâng cao sức khỏe và đời sống”.

Đồn Biên phòng Ngọc Lâm còn phối hợp tham gia cùng các xã, thị trấn khu vực biên giới biển thành lập Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”, “Nông dân với pháp luật”, “Phụ nữ vì sự phát triển và bình yên tuyến biển”, “Nông dân tham gia giữ gìn an ninh trật tự và bình yên tuyến biển”, 2 mô hình “Khu dân cư vùng giáo tiên tiến và an toàn về an ninh trật tự”. Bà Mai Thị My, Chi hội trưởng phụ nữ xóm 2, xã Nghĩa Hải cho biết: “Việc được cán bộ Biên phòng trang bị các kiến thức pháp luật cho người dân là rất quan trọng, để chị em phụ nữ và bà con hiểu và chấp hành nghiêm. Thông qua buổi tuyên truyền, chị em về nhà lại tiếp tục tuyên truyền cho chồng, con và các thành viên trong gia đình chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.

Cùng bước chân tuần tra của những người lính mang quân hàm xanh trên địa bàn biên giới biển Nam Định, đi trên những con đường liên xóm, liên xã của Nghĩa Hải hôm nay, chúng tôi cảm nhận được rõ nét sự đổi thay về mọi mặt của một xã biên giới biển. Những thành tích đạt được rất đáng tự hào ấy có sự đóng góp không nhỏ của những người lính Biên phòng đang ngày đêm bám dân, bám địa bàn, xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân”, để xây dựng tuyến biên giới biển ngày càng vững mạnh. 

Phát huy vai trò của Bộ đội Biên phòng trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

1.  

 Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm; quản lý, bảo vệ biên giới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó có vấn đề chủ quyền lãnh thổ (CQLT), an ninh biên giới quốc gia (ANBGQG). Do vậy, phát huy vai trò của BĐBP trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng (KGM) về vấn đề CQLT, ANBGQG là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay.

Trong những năm qua, các đơn vị BĐBP đã tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP, chấp hành nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền địa phương. Đồng thời, tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất nhiều chủ trương, giải pháp bảo vệ vững chắc CQLT, ANBGQG; làm tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới; thường xuyên duy trì quan hệ tốt với lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng, góp phần xây dựng biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tích cực tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp trong việc xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới.

Tuy nhiên, hiện nay, các thế lực thù địch, phản động cơ hội chính trị triệt để lợi dụng mạng xã hội, internet để đăng tải những thông tin sai sự thật, hòng bẻ lái dư luận và kích động người dân nhằm mục đích xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và Quân đội. Cụ thể, các đối tượng quy chụp lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta “phản ứng chậm” hoặc “né tránh, không dám đối đầu, đang tâm để CQLT quốc gia bị đe dọa”... Mưu đồ cốt lõi của những luận điệu sai trái này là khiến lòng dân mất yên, dần mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; phủ nhận vai trò, công sức của các lực lượng, trong đó có BĐBP trong bảo vệ, gìn giữ biên cương của Tổ quốc.

Càng nguy hiểm hơn khi nhiều đối tượng phản động lợi dụng vấn đề CQLT, trong đó có chủ quyền biên giới, biển, đảo để kích động, kêu gọi người dân “xuống đường” biểu tình thể hiện lòng yêu nước, từ đó gây mất an ninh, trật tự xã hội và kiếm cớ để tiếp tục chống phá. Một thực tế khác cần nhìn nhận, đó là trong khi đa số người dân nhận thức đúng đắn về quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ CQLT quốc gia, thì vẫn còn khá nhiều người “sập bẫy”, chủ yếu là những người mới hoặc ít tiếp xúc với internet, mạng xã hội, trong đó có giới trẻ. Sự thiếu nhận thức đúng đắn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước khiến họ chưa kịp chắt lọc thông tin đúng - sai, dễ bị cuốn vào “ma trận phản động” trên internet, mạng xã hội của các thế lực thù địch. Đây chính là những mầm mống, phương thức để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn trong nước, tạo cớ can thiệp từ bên ngoài.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, thời gian tới, các thế lực thù địch, phản động sẽ tiếp tục đẩy mạnh hành vi lợi dụng internet và mạng xã hội để chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó có vấn đề CQLT, ANBGQG. Đây là cuộc đấu tranh mang tính lâu dài, phức tạp; việc xác định tư tưởng, sự chuẩn bị tâm thế và lực lượng luôn được đề cập tại văn kiện Đại hội Đảng các nhiệm kỳ. Do vậy, phát huy vai trò của BĐBP trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG hiện nay là hết sức cần thiết. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, cần quán triệt và thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là cấp ủy, chỉ huy các cấp về vị trí, vai trò của biên giới quốc gia; đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG. Đây là giải pháp quan trọng để đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG. Bởi, nhận thức có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người và tổ chức. Nhận thức đúng là cơ sở để mỗi người xây dựng tư tưởng và ý chí quyết tâm cao, hạn chế được sai lầm, khuyết điểm trong hành động; đối với tổ chức, nhận thức đúng là cơ sở để thống nhất tư tưởng và chỉ đạo hành động.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG hiện nay chỉ có thể đạt chất lượng hiệu quả cao khi chủ thể và các tổ chức, lực lượng có nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vị trí, vai trò cũng như nhận thức sự cần thiết phải đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy của các cơ quan, đơn vị BĐBP cần quán triệt và thực hiện nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP và của cấp ủy, chính quyền các địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG.

Cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp trong BĐBP cần thường xuyên quán triệt và nắm chắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước về đấu tranh bảo vệ CQLT, ANBGQG; kịp thời cung cấp thông tin, “chỉ thị mục tiêu” và định hướng để đấu tranh kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm. Chỉ đạo thành lập, kiện toàn nhân sự và đẩy mạnh hoạt động của Ban Chỉ đạo 35, Lực lượng 47; tuyên truyền, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, các luận điệu xuyên tạc đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề CQLT, ANBGQG trên KGM.

Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của Ban Chỉ đạo 35 và Lực lượng 47 BĐBP tỉnh, nòng cốt, đi đầu trong đấu tranh, phản bác với những quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG.

Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, hoạt động của Ban Chỉ đạo 35 và Lực lượng 47 của BĐBP từng bước được củng cố, kiện toàn, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm. Công tác nắm bắt, đánh giá tình hình tư tưởng, dư luận xã hội được triển khai sâu rộng, công tác thông tin, tuyên truyền, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc trên mạng xã hội được tăng cường với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Qua đó, kịp thời tuyên truyền, định hướng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của Quân đội và BĐBP, tạo sự đồng thuận cao trong cán bộ, chiến sĩ các đơn vị, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG là trách nhiệm của mọi tổ chức, lực lượng và cá nhân. Trong đó, Ban Chỉ đạo 35 và Lực lượng 47 tại các đơn vị là lực lượng nòng cốt, tiên phong. Do vậy, cần chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ được giao nhiệm vụ chuyên trách đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các đối tượng phản động, thế lực thù địch; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng. Những cán bộ, đảng viên được lựa chọn phải là những người có trình độ chuyên sâu về lý luận, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng lập luận, xâu chuỗi các vấn đề, am hiểu về công nghệ thông tin.

Bốn là, phát huy tinh thần xung kích, sáng tạo, ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ BĐBP trong đấu tranh, phản bác với những quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG.

Hiện nay, ứng dụng internet và mạng xã hội đã phổ biến trong công tác, học tập và sinh hoạt của giới trẻ, trong đó có cán bộ, chiến sĩ BĐBP. Bên cạnh thông tin tích cực, các bạn trẻ cũng dễ dàng tiếp xúc với những thông tin trái chiều, có nội dung chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng kiên định hoặc nhận thức đúng bản chất của những thông tin đó, nên không ít thanh niên dễ bị lôi kéo, kích động.

Do đó, tổ chức Đoàn các cấp cần chủ động nắm, dự báo, báo cáo, cung cấp thông tin về hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; gắn bồi dưỡng nâng cao năng lực đấu tranh với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Đồng thời, thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng, dư luận, tâm trạng của cán bộ, đoàn viên, từ đó, có biện pháp tuyên truyền, giáo dục, định hướng, giải quyết hiệu quả, tránh để các thế lực thù địch, phản động có cơ hội lôi kéo, mua chuộc; kịp thời tuyên truyền, giáo dục, uốn nắn những thanh niên có biểu hiện tư tưởng lệch lạc, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Năm là, bảo đảm tốt hơn nữa về cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ đấu tranh, phản bác với những quan điểm sai trái, thù địch trên KGM về vấn đề CQLT, ANBGQG.

Thực tiễn cho thấy, để phát huy vai trò của BĐBP trong công tác này, cần phải bảo đảm tốt hơn nữa về cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ quá trình đấu tranh. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần phải tổ chức quán triệt sâu sắc, nắm vững các chế độ, chính sách đã được quy định trong các văn bản của Đảng, Nhà nước và Quân đội; gặp gỡ, động viên, khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá nhân có thành tích trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên KGM. 

Chung sức xây dựng khu vực biên giới biển vững mạnh

 

1.    

          Những năm qua, cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Ngọc Lâm, BĐBP Nam Định luôn sát cánh cùng địa phương thực hiện các chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giúp nhân dân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân khu vực biên giới biển nắm vững và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua đó, góp phần củng cố “thế trận lòng dân”, xây dựng khu vực biên giới biển ngày càng vững mạnh.

Chúng tôi theo chân đội công tác của Đồn Biên phòng Ngọc Lâm xuống địa bàn xã Nghĩa Hải, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định những ngày đầu tháng 6. Đi trên con đường trải rộng thênh thang, sạch sẽ, thoáng mát dẫn đến xóm 2, xã Nghĩa Hải, chúng tôi được ngắm những chậu hoa giấy đua nhau nở rộ, khoe sắc. Đồng chí cán bộ đi cùng cho biết, đoạn đường được trải bê tông này là một phần của mô hình Tuyến đường nông thôn mới (NTM) kiểu mẫu do Đồn Biên phòng Ngọc Lâm tham mưu với Đảng ủy, UBND xã Nghĩa Hải lựa chọn làm điểm xây dựng điểm. Sau khi huy động tổng lực sức dân, cùng với sự đóng góp công sức của cán bộ, chiến sĩ BĐBP, con đường liên xóm dài 0,1km bằng bê tông, mặt đường rộng 5m, dày từ 20-25cm đã được đầu tư gần 400 triệu đồng để xây dựng. Ngay sau khi hoàn thiện, con đường còn được nhân dân trong xã đóng góp, lắp đặt thêm 18 cột đèn điện chiếu sáng, trồng hàng chục cây bóng mát xung quanh...

Ông Phạm Văn Điện, Bí thư chi bộ, Trưởng ban Công tác mặt trận xóm 2, xã Nghĩa Hải cho biết: “Sau khi được công nhận huyện đạt chuẩn NTM, huyện Nghĩa Hưng đã chuyển trọng tâm sang xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu theo các tiêu chí mới. Đứng chân trên địa bàn, phụ trách xã Nghĩa Hải, Đồn Biên phòng Ngọc Lâm đã tham mưu cho Đảng ủy, UBND xã lựa chọn xây dựng khu dân cư kiểu mẫu ở xóm 2 của xã Nghĩa Hải. Trong 3 năm qua, đường ngõ đi lại trong xóm 2 đã được đầu tư xây dựng theo quy chuẩn NTM nâng cao, việc đi lại sinh hoạt của người dân ngày một thuận lợi. Xóm 2 có được bộ mặt đổi mới như hôm nay có sự đóng góp phần công sức không nhỏ của các cán bộ Biên phòng”.

Ông Nguyễn Văn Nam, Trưởng xóm 2, xã Nghĩa Hải chia sẻ: “Việc triển khai mô hình Tuyến đường NTM kiểu mẫu do những người lính Biên phòng khởi xướng trong mấy năm qua đã mang lại giá trị tinh thần vô cùng to lớn cho bà con. Mỗi lần đi làm về, đi trên con đường bê tông rộng rãi, sạch sẽ, được ngắm những chậu hoa sắc màu hai bên đường thì bao muộn phiền, mệt mỏi của chúng tôi dường như tan biến”.

Ngoài tham quan mô hình Tuyến đường NTM kiểu mẫu, chúng tôi còn được Thiếu tá Nguyễn Văn Tuấn, cán bộ Đội Vận động quần chúng của đồn giới thiệu tham quan mô hình trồng bưởi Diễn của một số hộ dân tại xã Nghĩa Hải. Điển hình là gia đình ông Phạm Xuân Ban đang thực hiện mô hình trồng cây bưởi Diễn, mỗi năm cho thu nhập khoảng 20-30 triệu đồng. Nhìn thấy chúng tôi, ông chạy tới tay bắt, mặt mừng, rồi hồ hởi khoe: “Năm vừa qua, nhờ có vườn bưởi thu nhập khá nên gia đình tôi đã đầu tư xây thêm được một gian nhà bếp khang trang. Năm nay, hy vọng sẽ có thu nhập tốt hơn để gia đình tôi cưới vợ cho cậu út”.

Được biết, vườn bưởi Diễn rộng hơn 2 sào, với 50 gốc của gia đình ông Phạm Xuân Ban là một trong 7 mô hình phát triển kinh tế do cán bộ Đồn Biên phòng Ngọc Lâm phối hợp với Hội Nông dân huyện Nghĩa Hưng triển khai từ năm 2016. Theo đó, để hỗ trợ cho bà con trên địa bàn tuyến biên phòng, cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Ngọc Lâm đã đóng góp kinh phí mua cây giống, Hội Nông dân huyện chuyển giao khoa học kỹ thuật chăm sóc cây trồng cho các hộ. Đến nay, các hộ gia đình thực hiện mô hình này đều phát triển tốt, có thu nhập trong tương lai.

Một số giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên

1.     

Để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng về nhiệm vụ đấu tranh, phòng, chống âm mưu của các thế lực thù địch vùng DTTS. Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, đồng bào vùng DTTS nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bọn phản động trong và ngoài nước. Tiếp tục tuyên truyền, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần ở nước ta. Thực hiện nghiêm, hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN...

Hai là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS. Đây là giải pháp có ý nghĩa nền tảng để vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề khó khăn trong đời sống của đồng bào DTTS để chống phá. Các cấp, các ngành cần triển khai hiệu quả các chủ trương, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ; giải quyết tốt tình trạng tranh chấp đất đai, đẩy nhanh tiến độ giao đất, khoán rừng, tổ chức lại sản xuất cho đồng bào các DTTS, tạo việc làm ổn định, giúp đồng bào an cư lạc nghiệp, trọng tâm là việc triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội ngày 18/11/2014 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030...

          Ba là, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ “cơ bản, toàn diện, liên hoàn, vững chắc”; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Nông nói riêng. Chủ động triển khai hiệu quả các biện pháp chống biểu tình, bạo loạn; làm tốt công tác kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các phương án bảo vệ an ninh ở địa phương, cơ sở. Đồng thời, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, chủ động phòng, chống các hoạt động tình báo, gián điệp của địch, củng cố trận địa an ninh nhân dân vững mạnh, làm cơ sở, chỗ dựa vững chắc cho đồng bào các DTTS trên địa bàn.

Bốn là, đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt là người DTTS vững mạnh về mọi mặt. Cấp ủy, chính quyền các địa phương cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là người DTTS tại chỗ; đồng thời tăng cường cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức cho cơ sở vùng đồng bào DTTS, vùng tôn giáo, nhất là ở những địa bàn trọng điểm...

Năm là, chủ động phát hiện, kịp thời đấu tranh vô hiệu hóa các hoạt động truyền bá, kích động cực đoan gây chia rẽ các dân tộc. Chủ động đấu tranh với các thế lực thù địch chỉ đạo, hậu thuẫn số đối tượng bên trong đòi ly khai, tự trị; đấu tranh với các hoạt động quốc tế hóa vấn đề dân tộc và sự can thiệp từ bên ngoài. MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội cần bám sát, nắm chắc tư tưởng của quần chúng, vận động họ tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương. Đồng thời, cần xây dựng nội dung, phương thức phù hợp để chủ động nhận diện và tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng và Nhà nước, chính quyền các cấp của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân tộc ở địa bàn các tỉnh Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Nông nói riêng 

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam.

 

Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là “Đảng toàn dân”

 Chống phá Đảng, Nhà nước ta nói chung, xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng nói riêng là mục tiêu không thay đổi của các thế lực thù địch. Đặc biệt gần đây, trên không gian mạng xuất hiện không ít luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng toàn dân”, từ đó phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1. Đây là cách diễn đạt hoàn toàn đúng đắn, phù hợp về bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện mới.

Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng vấn đề này, thường xuyên tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất của Đảng. Họ cho rằng, nếu “ôm đồm” như vậy, Đảng không còn là Đảng của giai cấp công nhân nữa, mà là “Đảng toàn dân”. Để minh chứng cho luận điệu này, chúng còn lấy số liệu thực tế về tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân không cao, trong khi số lượng đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trí thức cao hơn để phụ họa. Thâm hiểm hơn, lợi dụng việc Đảng ta chủ trương kết nạp những quần chúng ưu tú là chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng, để suy diễn, xuyên tạc cho rằng: bản chất giai cấp công nhân của Đảng sẽ bị phai nhạt, Đảng Cộng sản đang dần thành “Đảng toàn dân”. Đồng thời, hô hào “Đảng toàn dân” thì mới “chính danh” cầm quyền, “đại diện cho toàn dân tộc”(!).

Có thể khẳng định, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, phản động, không ngoài dụng ý xấu là nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đi đến xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, làm rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Lý luận Mác - Lênin đã chỉ rõ, bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản là tổng hòa các mặt, các yếu tố thuộc tính, mối liên hệ tất yếu bên trong quy định sự vận động, phát triển của đảng, được biểu hiện thông qua các tính chất, cách tổ chức và hoạt động của đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp mà bản chất và lợi ích của nó gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng; ở cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; mối quan hệ gắn bó giữa đảng với nhân dân và giải quyết vấn đề dân tộc với đoàn kết quốc tế; do đó, về mặt nhận thức, không thể lẫn lộn đảng với toàn bộ giai cấp, với toàn thể nhân dân và dân tộc. Điều đó cũng được V.I.Lênin khẳng định “... không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”2. Trên thực tế, Đảng Cộng sản được tổ chức chặt chẽ, khác với các tổ chức khác của giai cấp công nhân, là tổ chức của những người cách mạng, lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đại hội II của Đảng khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam là đội tiền phong và bộ tham mưu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng về thực chất, nó vẫn là một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam”3.

Ở Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm đất nước và điều kiện của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nên Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều này làm cho bản chất giai cấp công nhân của Đảng thống nhất biện chứng với tính nhân dân và tính dân tộc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình”4. Đến nay, cách diễn đạt bản chất của Đảng đã được bổ sung đầy đủ, sâu sắc hơn như ở đầu bài viết đã nêu. Diễn đạt như vậy không hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cũng không trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”, mà diễn giải bản chất giai cấp công nhân của Đảng sâu sắc, biện chứng hơn; phản ánh sự thống nhất về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, diễn đạt này không trái với học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, bởi: “... giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”5. Khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính là đại diện của dân tộc, là chủ nhân của đất nước, thì Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân đương nhiên là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Bên cạnh đó, Ðảng Cộng sản Việt Nam vốn dĩ ra đời, phát triển ở nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu nên ban đầu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, số lượng còn ít so với các thành phần xã hội khác như giai cấp nông dân,... song luôn chứng tỏ tinh thần cách mạng triệt để, tính tổ chức kỷ luật cao, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ không cao trong Đảng, song có vai trò rất quan trọng. Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Thành phần xã hội xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy không phải là yếu tố duy nhất hoặc là yếu tố chủ yếu, nhưng rất quan trọng, vì nó góp phần bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của Đảng, có ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu, đến sự trong sạch về tư tưởng và tổ chức của Đảng,...”6. Đây là sự vận dụng, phát triển sáng tạo vấn đề thành phần giai cấp trong Đảng ở nước ta. Đồng thời, phù hợp với chỉ dẫn của V.I.Lênin về các tiêu chí đặc biệt quan trọng để xem xét, đánh giá một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, một đảng Mác xít chân chính hay không: “Dĩ nhiên, đại bộ phận Công đảng là công nhân. Nhưng nó có thực sự là một chính đảng của công nhân hay không, điều đó không phải chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó có bao gồm công nhân hay không, mà cũng còn phụ thuộc vào chỗ ai lãnh đạo nó, và ở tính chất của hành động và của sách lược chính trị của đảng đó ra sao nữa”7. Như vậy, số lượng đảng viên là công nhân tuy có vai trò quan trọng song không quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà được quyết định bởi: Ai là người lãnh đạo của Đảng; chất lượng của đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng ra sao; đường lối lãnh đạo và hành động của Đảng có đúng đắn hay không. Từ những phân tích trên cho thấy, luận điệu về cái gọi là “Đảng toàn dân” mà các thế lực thù địch rêu rao, gán ghép cho Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuất phát từ những ý kiến chủ quan và không có cơ sở khoa học. Điều đó càng lộ rõ mưu đồ của họ nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm phai nhạt vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cũng như mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.

Thực tiễn đã cho thấy, cùng với lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng không hoài nghi, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng, luôn kiên định lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đã được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”8.

Và để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thường xuyên bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu, thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Đồng thời, Đảng không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; giữ vững, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo quan điểm, lập trường, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những sâu mọt, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo.

Mặt khác, Đảng, Nhà nước ta luôn củng cố quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chú trọng hoàn thiện thiết chế dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”9. Xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân.

Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế thông qua đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; mở rộng hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã khẳng định, Ðảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, mãi xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc; lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tế đó là minh chứng rõ ràng nhất bác bỏ luận điểm xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà các thế lực phản động, thù địch vẫn rêu rao, xuyên tạc./.

 

Thấm nhuần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong Quân đội

 

Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng, kết tinh trong đó tinh hoa tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người; thể hiện ý chí, niềm tin, trách nhiệm lớn lao đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Di chúc còn là công trình lý luận có giá trị to lớn về xây dựng Đảng, nhất là việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Vì vậy, học tập và làm theo Di chúc của Người, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội hiện nay là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc. 

“Trước hết nói về Đảng” là nội dung đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong bản Di chúc thể hiện tâm nguyện sâu sắc, cốt yếu nhất của Bác về công tác xây dựng Đảng. Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”1 và chỉ rõ: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, coi đó là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Bởi người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Đạo đức cách mạng mà Người đề cập “... không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”2. Đạo đức cách mạng được hình thành từ những phẩm chất cơ bản là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.  

Quán triệt, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội đã gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) và Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng Đảng. Đáng chú ý là, Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, xác định nhiều chủ trương, giải pháp tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 87-CT/QUTW, ngày 08/7/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân”, v.v. Đồng thời, chỉ đạo cụ thể hóa và triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương và Quân ủy Trung ương về những điều đảng viên không được làm; về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên vào chương trình hành động, kế hoạch công tác của các cấp ủy, tổ chức đảng và bản cam kết phấn đấu hằng năm của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên giữ gìn và phát huy phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng - di sản quý báu “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Quá trình triển khai, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã thực hiện đồng bộ với quyết tâm chính trị cao và đạt được kết quả quan trọng, góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ Quân đội.

Tuy nhiên, qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đối chiếu với 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) vẫn còn những khuyết điểm, hạn chế. Một số cán bộ, đảng viên còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thiếu trách nhiệm, ngại nghiên cứu học tập lý luận. Vẫn còn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa quyết liệt thực hiện các giải pháp đột phá để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, khắc phục khâu yếu, mặt yếu trong cơ quan, đơn vị. Đâu đó vẫn còn có cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm quy định, chỉ thị của Trung ương về tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hành tiết kiệm, phòng, chống lãng phí, tiêu cực và những điều đảng viên không được làm. Cá biệt, còn có cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội.

Để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân đội theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau.

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên Quân đội về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cách mạng theo Di chúc của Bác. Thực tiễn cho thấy, nguyên nhân sâu xa, chủ yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do thiếu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ, mua chuộc bởi lợi ích vật chất. Trong khi đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là giáo dục nhận thức về đạo đức cách mạng ở một số cơ quan, đơn vị chưa được coi trọng; nội dung, phương pháp tiến hành còn chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao, v.v. Tình hình đó đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục để đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức ngày càng sâu sắc hơn nội dung cơ bản, ý nghĩa, giá trị to lớn của bản Di chúc của Người đối với công tác xây dựng Đảng nói chung, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Thông qua đó, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng, định hướng xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ. Đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn tích cực, chủ động, tự giác học tập, làm theo và thực hành đạo đức cách mạng theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cũng như những chỉ dẫn trong Di chúc thiêng liêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi gắn với cương vị, chức trách, nhiệm vụ.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng các tổ chức vững mạnh ở cơ quan, đơn vị; duy trì nền nếp công tác kiểm tra, giám sát. Trong bối cảnh hiện nay, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, các tổ chức cơ sở đảng cần tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả những nội dung, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng đã được các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung ương chỉ ra. Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”; gắn xây dựng cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, đội ngũ cán bộ với đội ngũ đảng viên với phương châm: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”3. Đồng thời, chú trọng lãnh đạo xây dựng các tổ chức ở cơ quan, đơn vị vững mạnh; củng cố mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Từng cấp ủy, tổ chức đảng phải có quy chế để tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân tham gia kiểm tra, giám sát, phê bình, góp ý hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị mình.

Bên cạnh đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp duy trì nền nếp công tác kiểm tra, giám sát; thực hiện nghiêm nguyên tắc cấp ủy cấp trên kiểm tra, giám sát cấp ủy cấp dưới với nhiều hình thức, như: kiểm tra chéo, kiểm tra định kỳ, đột xuất, v.v. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và thực hiện nhiệm vụ. Quá trình kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp gắn với kiểm tra, giám sát cấp ủy viên, cán bộ chủ trì về thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội; việc chấp hành nguyên tắc tổ chức của Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức và thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, kịp thời, phát hiện ngăn chặn và xử lý nghiêm vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất, đạo đức, lối sống, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tiêu chuẩn, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng trong Đảng bộ Quân đội.

Ba là, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong học tập, rèn luyện, công tác theo cương vị, chức trách được giao. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “... cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”4. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta yêu cầu: “Người đứng đầu các cấp phải thực sự mẫu mực, nói đi đôi với làm, nêu cao tinh thần trách nhiệm,...”5. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp trong Quân đội tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị; nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và hành động. Thực hiện nói đi đôi với làm, tư tưởng gắn với hành động, lý luận gắn với thực tiễn, góp phần xây dựng hình ảnh, uy tín, đạo đức người cán bộ, đảng viên Quân đội thời kỳ mới.

Bốn là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trước những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, một số cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ, sĩ quan cao cấp suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước. Để ngăn ngừa và khắc phục hiện tượng này, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu, thực hiện tốt chức năng tham mưu để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, quy chế kiểm soát quyền lực theo nguyên tắc: mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ, quyền hạn ràng buộc với trách nhiệm. Chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ; xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, không để những cán bộ có kết quả hoàn thành nhiệm vụ thấp, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vào cấp ủy các cấp. Đồng thời, thực hiện nghiêm quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, không để kẻ địch, phần tử xấu lợi dụng, mua chuộc, cài cắm, móc nối, lôi kéo đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội.

Thời gian đã lùi xa 55 năm, song Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị, là tài sản vô cùng quý báu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Khắc ghi những lời căn dặn của Người, đội ngũ cán bộ, đảng viên Quân đội nguyện tuyệt đối trung thành, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

 

 

"Gắn nhà trường với đơn vị"

 Những năm qua Học viện Phòng không-Không quân (PK-KQ) đã không ngừng đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, trong đó đặc biệt coi trọng phương châm: “Gắn nhà trường với đơn vị” để các đối tượng học viên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện tại Học viện, nhanh chóng tiếp cận và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ sau khi ra trường” - Đó là chia sẻ của Đại tá, TS Nguyễn Hữu Thiết - Phó Giám đốc Học viện PK-KQ về phương châm đào tạo chủ yếu của nhà trường hiện nay.

 Quán triệt nội dung chỉ đạo của Bộ Quốc phòng về chương trình đào tạo đối với các nhà trường Quân đội phải được điều chỉnh theo hướng giảm nội dung lý thuyết, tăng thực hành nhằm trang bị kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn cho học viên. Học viện đã nghiên cứu, bám sát nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện tại các đơn vị trong toàn quân để vận dụng vào thực tế công tác giảng dạy và học tập. Cấp ủy, chỉ huy các cấp làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên, học viên về vai trò và tầm quan trọng của việc kết hợp nhà trường với đơn vị, đây là cơ sở để phương châm nhanh chóng được quán triệt, triển khai, thực hiện ngày càng đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực.

Thực hành kéo pháo vào trận địa. Ảnh: HUY BÌNH

Trong công tác xây dựng kế hoạch, biên soạn giáo trình tài liệu, Phòng Đào tạo đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, khoa giáo viên, đơn vị quản lý học viên tổ chức thiết kế nội dung đào tạo vừa phù hợp với chương trình khung của Bộ GD-ĐT, Bộ Quốc phòng, vừa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn mà các đơn vị đang cần, mạnh dạn cắt bỏ những nội dung không thực sự cần thiết, còn nặng về lý thuyết; tăng thời gian huấn luyện thực hành, kỹ năng hoạt động thực tiễn. Biên soạn giáo trình, tài liệu các môn học luôn bám sát với nội dung huấn luyện tại các đơn vị, kịp thời cập nhật thông tin mới, phù hợp với xu thế phát triển của Quân chủng và Quân đội hiện nay.

Thực hiện tốt công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch đưa cán bộ, giảng viên đi thực tế chức vụ từ cấp phân đội đến cấp trung (lữ), sư đoàn. Thời gian thực tế tại đơn vị ít nhất là một năm với các chức danh phù hợp để bồi dưỡng thêm kiến thức thực tiễn. Các khoa giáo viên đã tính toán cụ thể đề nghị giảng viên (bảo đảm mỗi năm có từ 5-10% đồng chí) đi thực tế chức vụ tại các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu. Tổ chức nhiều đoàn cán bộ, giảng viên, học viên đi tập huấn, tham quan, khảo sát thực tế về chương trình, nội dung, phương pháp huấn luyện, thẩm định chất lượng sĩ quan được đào tạo từ Học viện tại các đơn vị để làm cơ sở xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện và phát triển nội dung chương trình đào tạo. Tích cực đề nghị cấp trên lựa chọn và luân chuyển các đồng chí cán bộ đang công tác tại đơn vị chiến đấu có năng lực, nhiều kinh nghiệm trong công tác chỉ huy, quản lý đơn vị về làm giảng viên tại Học viện. 

Đối với học viên, đã làm tốt công tác giáo dục xây dựng động cơ thái độ học tập, rèn luyện đúng đắn, chấp hành nghiêm nội dung và phương pháp tổ chức huấn luyện. Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch thực tập cán bộ kiêm chức đối với tất cả các đối tượng theo chức danh đào tạo để học viên làm quen với công tác chỉ huy, quản lý, điều hành đơn vị. Phát huy tính năng động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện để trau dồi kiến thức, kỹ năng, làm hành trang cần thiết cho quá trình công tác sau này. Tổ chức cho 100% học viên thực tập tại các đơn vị chiến đấu và thực hành diễn tập cuối khóa phù hợp với chuyên ngành đào tạo nhằm bổ sung, hệ thống kiến thức, trang bị năng lực thực hành. Thời gian thực tập từ 6 - 8 tuần, thời gian diễn tập từ 7 - 10 ngày. Trong diễn tập có thể tổ chức bắn đạn thật để rèn luyện bản lĩnh, phương pháp, tác phong chỉ huy chiến đấu cho học viên. 

Từng bước tăng cường, bảo đảm vũ khí, khí tài trang bị, vật chất, giáo trình, tài liệu, hiện đại hóa các điều kiện dạy và học thực hành trên khí tài, cơ sở vật chất hiện có của nhà trường. Tích cực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến cải tiến mô hình học cụ, củng cố thao trường bãi tập, mạnh dạn đầu tư mua sắm các trang thiết bị dạy học hiện đại như: hệ thống máy tính, máy chiếu, phát triển mạnh mẽ công nghệ mô phỏng, xây dựng thêm giảng đường chuyên dùng các môn chuyên ngành. Nâng cấp, củng cố hệ thống thư viện, các phòng thí nghiệm, bãi tập dã ngoại và xây dựng hệ thống phim huấn luyện sát với thực tiễn chiến đấu.

Trong giai đoạn hiện nay, phương châm gắn nhà trường với đơn vị đã được phát triển cao hơn về chất và giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong công tác GD-ĐT góp phần quan trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Quân chủng và Quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.

Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia

 Thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”, 5 năm qua (2014-2019), Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng luôn quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả Phong trào Thi đua Quyết thắng. Ngày nay, trước yêu cầu xây dựng Quân chủng PK-KQ “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, cần tiếp tục đổi mới, lan tỏa sâu rộng Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo động lực tinh thần mạnh mẽ cho toàn Quân chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vững chắc bầu trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia
Trung tướng Lâm Quang Đại - Chính ủy Quân chủng PK-KQ
Quân chủng diễn ra đúng thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là dịp để Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ đánh giá, rút kinh nghiệm công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào thi đua và công tác thi đua, khen thưởng những năm qua; từ đó đề ra chủ trương, giải pháp tiếp tục đẩy mạnh Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo động lực mới để Phong trào Thi đua Quyết thắng trong toàn Quân chủng lan tỏa và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia
Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân chủng tặng hoa, chúc mừng các kíp chiến đấu 
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại Diễn tập bắn đạn thật các lực lượng phòng không năm 2017. 
Ảnh: HẢI HẠ


Thấm nhuần lời dạy của Bác và quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác thi đua, khen thưởng; 5 năm qua (2014-2019), Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp trong Quân chủng luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ Phong trào Thi đua Quyết thắng trong các cơ quan, đơn vị; nhờ đó, Phong trào Thi đua Quyết thắng đã có bước phát triển mới, đạt được hiệu quả thiết thực, kịp thời cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ phấn đấu vươn lên; góp phần quan trọng trong xây dựng Quân chủng vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Phong trào Thi đua Quyết thắng luôn hướng bộ đội vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, tập trung xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức - điều kiện tiên quyết để Quân chủng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc. Trước hết là thực hiện tốt công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; triển khai toàn diện, đúng trọng tâm Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân chủng lần thứ IX; Nghị quyết Trung ương 4, (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/ TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87- CT/QUTW của Thường vụ QUTW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.

Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia
Huấn luyện đổ bộ đường không. Ảnh: CTV

Quân chủng đã tổ chức phát động nhiều đợt thi đua đột kích như: “Tuổi trẻ Quân chủng Phòng không - Không quân đoàn kết, xung kích, sáng tạo bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, “Mừng Đảng, mừng Xuân, ra quân Quyết thắng”, “Viết tiếp chiến công, hiệp đồng quyết thắng”… Mục đích, nội dung các phong trào đều hướng hoạt động của bộ đội vào nhiệm vụ quản lý và bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc. Cùng với đó, triển khai, thực hiện các phong trào thi đua: “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”; tổ chức hàng nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ về các địa phương giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới. Thực hiện tốt phong trào “Vì sức khỏe cộng đồng”, với nhiều đợt hiến máu nhân đạo ở các cơ quan, đơn vị, nhà trường; xây dựng trạm xá quân - dân y kết hợp, khám chữa bệnh và cấp, phát thuốc miễn phí cho nhân dân. Với phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” và chính sách hậu phương Quân đội, toàn Quân chủng đã vận động quyên góp hàng chục tỷ đồng xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, Quỹ “Vì người nghèo”; xây dựng hàng trăm “Nhà tình nghĩa”, “Nhà đồng đội” tặng hàng nghìn suất quà cho các đối tượng chính sách, các cháu học sinh học giỏi có hoàn cảnh khó khăn. Giúp nhân dân phòng, chống bão lụt, tìm kiếm cứu nạn, chuyển hàng cứu trợ; cứu hộ, cứu nạn nhân dân ở những nơi đặc biệt khó khăn, bị lũ, lụt chia cắt, cô lập… sẵn sàng cấp cứu cán bộ, chiến sĩ, ngư dân đang ngày đêm bám biển, giữ đảo... xây dựng lòng tin để bà con nhân dân vươn khơi, bám biển; đồng đội yên tâm chắc tay súng bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Điển hình, năm 2014, Quân chủng là lực lượng nòng cốt tham gia tìm kiếm, cứu nạn máy bay MH-370 bị mất tích của hãng Hàng không Malaysia. Những việc làm đó thể hiện lòng trung thành của Quân chủng PK-KQ với Đảng, Tổ quốc, nhân dân; để lại tình cảm sâu nặng với bạn bè quốc tế; ngày càng tô thắm thêm hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, “Người chiến sĩ PK-KQ ưu tú”. 

Thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện và giáo dục, đào tạo, Quân chủng đã phát động nhiều phong trào: “Luyện giỏi, rèn nghiêm, ra quân đánh thắng”, “Cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc”, “Không để Tổ quốc bị bất ngờ vì các tình huống trên không”; “Dạy tốt, học tốt, quản lý và nghiên cứu khoa học tốt”, “Tiến độ nhanh, chất lượng cao, an toàn tuyệt đối”. Quân chủng đã chủ động nắm và dự báo chính xác tình hình trên không, trên biển, kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh các phương án, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu; hiệp đồng quân binh chủng; bảo vệ các hoạt động thăm dò, khảo sát tài nguyên và các hoạt động của ngư dân trên biển, hoàn thành tốt các nhiệm vụ diễn tập... được Bộ Quốc phòng đánh giá cao. 

Quân chủng tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng xác định địa bàn, khu vực trọng điểm phòng không; điều chỉnh, bố trí lại thế trận phòng không; chỉ đạo công tác phòng không lục quân, phòng không nhân dân, không quân toàn quân; đổi mới phương pháp huấn luyện nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng phòng không, không quân, không quân Hải quân, phòng không lục quân, phòng không nhân dân. Công tác xây dựng tổ chức lực lượng chặt chẽ, hiệu quả; công tác kế hoạch và đầu tư hoạt động đúng quy chế; công tác kỹ thuật có nhiều chuyển biến tiến bộ, với nhiều phong trào thiết thực, như: “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật”, “Giữ tốt, dùng bền, an toàn, tiết kiệm”, “Nhà xe thanh niên”; “Nhà kho kiểu mẫu”, “Ngày công tác kỹ thuật thanh niên tự quản”... Nhờ đó, hệ số kỹ thuật của máy bay, tên lửa, ra đa; súng, pháo phòng không đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch từ 1,6% - 2%. 

Tiếp tục thực hiện tốt Phong trào Thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” với “Một tập trung, ba khâu đột phá” và “Xây dựng doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp”, “Xây dựng đơn vị nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt” với các tiêu chí: “Đơn vị quản lý tài chính tốt”, “Đơn vị Quân y 5 tốt”, “Bếp nuôi quân giỏi, quản lý tốt”… kịp thời phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, nhất là các nhiệm vụ đột xuất: Tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, hiệp đồng phòng, chống bạo loạn... 

Năm 2019 và những năm tiếp theo, Quân chủng PK-KQ tiếp tục được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa, chấn chỉnh tổ chức lực lượng; tiếp nhận, khai thác, làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới, cải tiến. Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quản lý vùng trời, quản lý điều hành bay… yêu cầu ngày càng cao, tính chất đa dạng, phức tạp, khẩn trương nhất là trên hướng biển, đảo. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; với Phong trào Thi đua Quyết thắng, điều đầu tiên phải giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với công tác; tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của Đảng ủy Quân chủng và các tổ chức Đảng đối với đơn vị; nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và Hội đồng (Tổ) Thi đua - Khen thưởng, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ các cấp trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thi đua - khen thưởng và Phong trào Thi đua Quyết thắng. 

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho bộ đội nhận thức sâu sắc vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác thi đua - khen thưởng và Phong trào Thi đua Quyết thắng, từ đó tự giác tích cực thực hiện thắng lợi các nội dung, mục tiêu, chỉ tiêu thi đua; đồng thời không ngừng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tổ chức phong trào thi đua sát thực, hiệu quả, tránh phô trương hình thức, kiên quyết khắc phục những biểu hiện lệch lạc và bệnh thành tích trong thi đua. 

Thực hiện tốt việc phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến trong Phong trào Thi đua Quyết thắng; kịp thời cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ, gương “người tốt, việc tốt”, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, bảo đảm cho phong trào đi vào cuộc sống, thực sự trở thành động lực để cán bộ, chiến sĩ phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. 

Kết hợp chặt chẽ giữa thi đua với khen thưởng; đưa công tác khen thưởng vào nền nếp, bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng, chính xác; chú trọng khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ: Huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống lụt, bão, cứu hộ, cứu nạn... khắc phục mọi biểu hiện khen thưởng không đúng thành tích, không đúng người, đúng việc, trùng khen, tính giáo dục, thuyết phục thấp và những biểu hiện lệch lạc trong thi đua, khen thưởng. 

Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành, lực lượng và các tổ chức trong hoạt động thi đua, gắn Phong trào Thi đua Quyết thắng thường xuyên của đơn vị với cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành, các cấp, tạo sức mạnh tổng hợp hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, quản lý và bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc.

Giá trị to lớn, tầm nhìn vượt thời đại trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Di chúc thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trước lúc đi xa là “Bảo vật quốc gia”; trong đó, thể hiện tình cảm chân thực, trí tuệ sâu sắc, đạo đức cao cả, tâm hồn rộng mở, nhân ái và khoan dung, cùng với tầm nhìn vượt thời đại của Người.

1. Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm nhường gọi là “bức thư” - “mấy lời để lại cho đồng bào, đồng chí” vào lúc Người 75 tuổi. Suốt 04 năm liền, từ 1965 đến 1969, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng từ ngày 10 đến 15 tháng 5 và từ 9 giờ đến 10 giờ mỗi buổi sáng, Người thanh thản đọc lại, suy nghĩ và sửa chữa. Bốn tháng trước lúc đi xa, Người còn đọc và chữa lần cuối cùng. Có thể nói, 1.000 từ trong bản Di chúc không chỉ là một tổng kết lớn về sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và Nhân dân ta, mà còn là những trù tính chiến lược sáng suốt, những căn dặn ân cần, chu đáo của Người đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về những việc phải làm sau ngày cách mạng toàn thắng và miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Người ký thác niềm tin và hy vọng vào tất cả chúng ta về tương lai tươi sáng của dân tộc, thực hiện hoài bão và khát vọng phát triển Việt Nam giàu mạnh, văn minh, hiện đại. Tâm nguyện ấy của Người bắt nguồn từ một tư tưởng lớn: yêu nước, yêu dân, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Đã 55 năm kể từ ngày Người đi xa và cũng là hơn nửa thế kỷ chúng ta thực hiện Di chúc của Người. Những giá trị to lớn trong Di chúc đang được chúng ta thấm nhuần và nỗ lực thực hiện. Tầm nhìn vượt thời đại trong Di chúc của Người đang tiếp tục khai sáng tâm trí, thúc đẩy chúng ta hành động sao cho xứng đáng với dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại, vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ dẫn dắt của tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Cùng với những tác phẩm tiêu biểu khác, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành “Bảo vật quốc gia”1. Đó là Quốc bảo đồng thời là Pháp bảo của muôn đời. Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh thể hiện và kết tinh thành những giá trị to lớn trong Di chúc, có thể khái quát vào mấy điểm cốt yếu sau đây:

Thứ nhất, Di chúc khẳng định niềm tin khoa học sâu sắc và tinh thần cách mạng kiên định của toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ở cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định của Người về tính tất thắng của cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập thống nhất Tổ quốc có sức cổ vũ, động viên to lớn đối với đồng bào, chiến sĩ cả nước và bầu bạn quốc tế. Di chúc chỉ rõ, cuộc chiến đấu của chúng ta còn có thể kéo dài (mà Người hình dung “mấy năm nữa” như một điều tiên tri, dự báo). Đối mặt với thế lực đế quốc hùng mạnh, giàu có nhưng gây tội ác chiến tranh tàn bạo, phi nhân tính, nhân dân ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người.

Song, với bản lĩnh, tầm nhìn và một niềm tin mãnh liệt, Người khẳng  định: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”2. Nhìn lại thời điểm Người viết Di chúc (1965 - 1969), đó là lúc cuộc chiến cam go, ác liệt, đế quốc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, tiếp sức cho chế độ ngụy quyền; đồng thời, gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc tàn bạo đến mức hủy diệt; chính trường quốc tế và các nước, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em đang diễn biến phức tạp với những bất đồng ngày một nghiêm trọng,… mới thấy hết sự bình tĩnh, dũng cảm, mưu lược, đầy bản lĩnh và dự cảm sáng suốt của Hồ Chí Minh. Ở bản viết ngày 10/5/1969, Người khẳng định còn mạnh mẽ hơn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”3. Có thể ví như giữa sóng to gió lớn, bàn tay chèo lái của người thuyền trưởng quan trọng biết chừng nào tới cả phong trào, sự nghiệp. Người gieo niềm tin vào lòng dân, trao gửi vào dân sức mạnh vô giá để chiến đấu và chiến thắng.

Thứ hai, Di chúc khẳng định tầm vóc của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam và cống hiến lịch sử của dân tộc ta đối với sự nghiệp cách mạng thế giới. Tầm vóc lớn lao ấy đồng thời cũng là vinh dự lớn của nước ta, là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc. Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã đưa Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong chống đế quốc, thực dân, lại một lần nữa minh chứng cho niềm tin và sự khẳng định chiến thắng của Người trong Di chúc. Đánh bại cả chủ nghĩa thực dân cũ (Pháp) lẫn chủ nghĩa thực dân mới (Mỹ) làm thức tỉnh các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và công lý, cho chân lý và đạo lý lớn nhất của cả loài người: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thế kỷ XX in đậm dấu ấn thiên tài tư tưởng và tổ chức của Hồ Chí Minh và Đảng ta.

Thứ ba, Di chúc tập trung và làm nổi bật những điều hệ trọng cần thực hiện sau ngày cách mạng toàn thắng. Đó là những trù tính chiến lược về đường lối, chủ trương, chính sách mà Người căn dặn Đảng và Nhân dân ta khi cách mạng chuyển sang một thời kỳ mới. Trong Di chúc, Người đặc biệt nhấn mạnh: “Trước hết nói về Đảng” từ Trung ương đến các chi bộ phải “giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình”4. “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”5. Chỉ trong một đoạn ngắn nói về Đảng, Người bốn lần nhắc đến chữ “thật”, đó là lời dạy thiêng liêng, mãi còn vẹn nguyên giá trị và tính thời sự. Người còn dặn, trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố phát triển sự đoàn kết, thống nhất; mỗi đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Người tin tưởng rằng, “làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”6. Đảng ta đang ra sức thực hiện lời dạy của Người, coi xây dựng Đảng là then chốt, bởi Đảng và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Về vấn đề con người, trong Di chúc, Hồ Chí Minh quan tâm tới mọi đối tượng con người, mọi cảnh đời và số phận, dường như không sót một ai, từ em nhỏ đến người lớn, từ đồng bào nông dân đã bao đời khổ cực mà vẫn một lòng son sắt theo Đảng và cách mạng cho đến thanh niên, phụ nữ. Người căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”7. Đặc biệt, Người có ý miễn thuế nông nghiệp một năm cho bà con nông dân ngay sau ngày thắng lợi, để bà con hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Đó là an dân để quốc thái bền vững.

Chăm lo dân sinh là sự chăm lo đặc biệt của Người, không chỉ vì thương dân và nêu cao trách nhiệm với dân mà còn là lòng nhân ái, đức khoan dung, vị tha thấm đậm chất nhân văn của Hồ Chí Minh. Người không chỉ phấn đấu cho độc lập tự do mà còn chăm lo hạnh phúc cho dân từ những điều cụ thể, bình dị nhất. Người từng nói: “Thiên thời, địa lợi là quan trọng nhưng nhân hòa là quan trọng nhất”.

Thứ tư, Di chúc còn đề cập tới phong trào cộng sản và công nhân quốc tế với nỗi đau lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự bất hòa giữa các đảng anh em. Đây là trách nhiệm cao cả, hết lòng tận tụy của Người đối với quốc tế cũng như đối với dân tộc. Người căn dặn: “Về phong trào cộng sản thế giới - Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em! Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình. Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”8. Lời tâm sự bộc bạch và nỗi đau nhân tình thế sự của Người làm xúc động muôn triệu tấm lòng. Lại thêm một lý do nữa để hiểu về Bác: Người cộng sản đích thực, nhà nhân văn chủ nghĩa hiện đại.

Thứ năm, đạo đức cao cả toát lên từ lời Bác dặn “Về việc riêng”. Một đời tiết kiệm để lo cho dân, vì dân, để nêu gương, nay nói về việc riêng - việc tang lễ cho mình, Người yêu cầu đừng có điếu phúng linh đình, lãng phí ngày giờ, tiền bạc của nhân dân. Người muốn nằm trong lòng đất mẹ. Đau đáu với miền Nam, Người căn dặn: “Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”9. “Trên mộ, nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”10. Giản dị và thanh cao, dấn thân để hóa thân - đó là Hồ Chí Minh, “con người của mọi người”, “trái tim của muôn triệu trái tim”. Trong lòng nhân dân và nhân loại, Người là bất tử, vĩnh hằng. Đó là năm giá trị to lớn chủ yếu của Di chúc và còn bao nhiêu giá trị, ý nghĩa khác, lấp lánh như ánh sáng bởi “Đời Hồ Chí Minh trong như ánh sáng” đúng như nhận định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Những giá trị to lớn ấy, tự nó đã bao hàm cả tầm nhìn vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn nữa, còn rạng ngời phong cách đặc sắc của nhà tư tưởng Mácxít hiện đại, mang cốt cách hiền triết Á Đông và đậm đà bản sắc Việt Nam. Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói: “Người ra đi từ con sông Lam của quê hương, con sông Hồng của Tổ quốc, trải qua bốn bể năm châu, thâu thái mọi trí thức Đông Tây, kim cổ để rồi trở về, nhìn lại con sông Lam của quê hương, con sông Hồng của Tổ quốc với tầm mắt đại dương”11. “Tầm mắt đại dương ấy chính là tầm nhìn vượt thời đại” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề sau:

Một là, dự báo khoa học, vô cùng chính xác về chiến thắng của nhân dân ta, đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

Hai là, nhạy cảm sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Gắn liền điều đó với phẩm giá và tài năng sáng tạo, đức hy sinh và lòng dũng cảm của nhân dân ta, thấm thía và tin tưởng ở vai trò, sức mạnh của nhân dân. Tự hào bao nhiêu về sự lớn mạnh của phong trào cách mạng thì Người càng đau lòng bấy nhiêu về những bất hòa quốc tế. Trong linh cảm sâu xa của Người, đây sẽ là một hiểm họa mà cách mạng Việt Nam phải vượt qua.

Ba là, với Đảng cách mạng, người cách mạng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền, đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là bảo đảm căn bản nhất cho thắng lợi, nên phải đặt đạo đức lên hàng đầu. Hồ Chí Minh là lãnh tụ hiếm hoi, sớm nhận ra chính trị không chỉ là quyền lực mà còn là đạo đức, như Người định nghĩa “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết”, “Đảng là đạo đức, là văn minh”. Trong số các chính khách, lãnh tụ, dường như chỉ có Hồ Chí Minh đã nhận ra “tình huống đạo đức khi cầm quyền” và sớm cảnh báo nguy cơ tha hóa, thất bại, đổ vỡ nếu “sa vào chủ nghĩa cá nhân” - giặc nội xâm nguy hiểm nhất.

Bốn là, bày tỏ tâm nguyện, “điều mong muốn cuối cùng” mà làm hiển lộ hệ giá trị của chủ nghĩa xã hội, trở thành định nghĩa khoa học về chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Người đã nêu trong “điều mong muốn cuối cùng của mình” những giá trị căn bản nhất của hệ giá trị quốc gia mà Đảng ta đã đề cập gần đây trong Đại hội XIII.

Năm là, nếu đến Đại hội VI, năm 1986, Đảng ta mới khởi xướng đổi mới, thì hơn nửa thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về đổi mới trong Di chúc. Đó là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời, hư hỏng để xây dựng những cái mới mẻ, tiến bộ, tốt tươi. Đó là sự nghiệp của nhân dân, của toàn Đảng, toàn dân ta, làm cho đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Với tầm nhìn vượt thời đại đó, Di chúc của Hồ Chí Minh thực sự là một thiết kế lý luận; đồng thời, là chương trình hành động, chiến đấu và chiến thắng, Đổi mới - Sáng tạo và Phát triển để không ngừng chăm lo đời sống hạnh phúc cho nhân dân. Có thể nói nhiều tới phong cách Hồ Chí Minh: chân thành và khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc, nhân ái và bao dung, truyền thống và hiện đại, hàm súc, cô đọng và vô cùng tinh tế. Nhưng trong Di chúc của Người, chỉ nhấn vào hai điểm đặc sắc đó là: bản lĩnh dùng cái tối thiểu (1.000 từ) để chuyển tải một cái tối đa như một đại tổng kết lý luận - thực tiễn cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ và thắng Mỹ; “chữ” ít nhất để “nghĩa” nhiều nhất. Đó là hội tụ, kết tinh cả Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách của một vĩ nhân.