Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

TCCS - Với tư cách là đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2011 đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một di sản đồ sộ, quý báu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về các vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam; phòng, chống tham ô, tham nhũng,… đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Di sản của Tổng Bí thư không chỉ trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua, mà còn có giá trị dẫn dắt, định hướng, soi đường cho cách mạng Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những thập niên tiếp theo. Kế thừa và tiếp bước sự nghiệp mà Đồng chí đã vạch ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần học tập, noi theo phẩm chất đạo đức sáng ngời, tinh thần trách nhiệm, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để sự nghiệp của chúng ta đi đến thành công.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy đường của Công ty cổ phần đường Kon Tum _Ảnh: TTXVN

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: kiên định và sáng tạo qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (gọi tắt là Tác phẩm) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2022. Tác phẩm gồm 29 bài viết, đề cập một cách cô đọng những vấn đề trọng yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?... Tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng giai cấp công nhân, nông dân Việt Nam lớn mạnh… Tác phẩm đã chỉ rõ những thành công cũng như những bài học kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực, mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020(1).

Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, sự nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng(2).

Giáo dục và đào tạo, y tế có bước phát triển. Tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển(3).

Trong lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Tác phẩm đã chỉ rõ, trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của Đảng bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Thực tế từ ngày có Đảng, nhân dân ta đã có người lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nhờ thế chúng ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển đất nước.

Trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mớiNước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.

Tác phẩm đã chỉ rõ, trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động, nhạy bén, tích cực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao. Chất lượng điều tra, phá án được nâng lên. Cuộc sống bình yên của nhân dân được bảo vệ.

Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, trong hơn 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây, như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...(4). Đảng đã đưa ra một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo là quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà một đặc trưng căn bản, một thuộc tính căn bản là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)(5). Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nền kinh tế đó bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đặc điểm trong phân phối của mô hình kinh tế này, theo đồng chí Tổng Bí thư, là bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Cùng với việc đưa ra lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở thực tiễn, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu phát triển nền văn minh của nhân loại, Đảng ta đã xây dựng và hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bên cạnh đó, lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng được hoàn thiện. Từ việc coi văn hóa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, có giá trị tinh thần và yêu cầu thúc đẩy sự phát triển cân đối và kết hợp hài hòa kinh tế với văn hóa - xã hội (Đại hội VI và Đại hội VII) đến việc coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, mục tiêu của sự phát triển, vừa là động lực, sức mạnh nội sinh cho sự phát triển; văn hóa không chỉ có giá trị tinh thần, mà còn đem lại cả giá trị vật chất, kinh tế; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội (từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 cho đến nay); từ việc xác định mục tiêu xã hội mà chúng ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” (Đại hội VI năm 1986) đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đại hội XI năm 2011 và cho đến nay); từ việc xác định 8 mối quan hệ cần giải quyết trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đại hội XI) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, chúng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn; từ việc xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng (Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991), đến nay là 8 đặc trưng…

Đánh giá về những thành tựu trên, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam(6). Đồng thời, Tổng Bí thư cho rằng, đó là do chúng ta kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hợp tác xã chè Hảo Đạt, xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên _Nguồn: thainguyen.gov.vn

Tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Nghiên cứu Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong việc tiếp tục kiên định và sáng tạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Như chúng ta đều biết, trong nghiên cứu về sự vận động đi lên của xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định sự phát triển tất yếu của xã hội loài người là sẽ đi đến chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội, là chế độ thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong các nghiên cứu của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra mô hình của xã hội cộng sản và xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai cũng như con đường, biện pháp để đi đến các xã hội đó. Trải qua thời gian, quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn, lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như biện pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển có những thay đổi nhất định, thể hiện quan điểm phát triển, không giáo điều của các ông khi nghiên cứu về sự phát triển xã hội(7). Chính bản thân các ông cũng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(8).

Kế thừa các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, khi lãnh đạo nước Nga Xô viết thực hiện cách mạng, xây dựng đất nước, V.I.Lê-nin cũng đã bổ sung một số lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhận định về  thời kỳ quá độ cũng như chính sách kinh tế nới (NEP) là một minh chứng cho sự kiên định, đồng thời là sự sáng tạo của V.I.Lê-nin. Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã từng nhắc nhở “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động”(9) và do đó, nếu quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó – tức là phép biện chứng, học thuyết về sự phát triển lịch sử toàn diện và đầy mâu thuẫn; như thế chúng ta sẽ phá hủy sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn nhất định của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của lịch sử”(10). Ông khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”(11). Theo ông, điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở “sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước ‐ dân tộc”(12)

Tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có xuất phát điểm là nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là “cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc”(13)...

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong Tác phẩm, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể”(14). Như vậy, có thế thấy, việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ cần phải đặt trong trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, trong đó bao hàm việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ. Với tư cách một chế độ, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công có, mà thất bại cũng đã gặp phải. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, quá trình hiện thực hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt, cần kiên định, giữ vững các nguyên tắc nền tảng; mặt khác, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn cụ thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi, lộ trình phù hợp.

Trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đòi hỏi chúng ta phải tránh căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Bởi bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Về văn hóa, xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Về chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam(15). Đồng chí Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh rằng, trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó là tình hình thế giới biến động khôn lường, cả về vấn đề sinh thái, vấn đề quan hệ giữa các nước và tác động của công nghệ thông tin tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội tới mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, cá nhân. Điều đó cho thấy, chúng ta cần tiếp tục kiên định và sáng tạo để chủ nghĩa xã hội ngày càng được hiện thực hóa ở Việt Nam.

Tại sao phải “kiên định” và “sáng tạo”, “kiên định” và “sáng tạo” có mối quan hệ với nhau như thế nào? Về vấn đề này, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước”(16). Bởi nếu chỉ “kiên định” một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, nhưng nếu không kiên định, mà “đổi mới”, “sáng tạo” một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Chúng ta cần kiên định trong nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Nguyên tắc của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược của chúng ta là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm và tuỳ theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”(17).

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, như đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(18)Theo nghĩa đó, cần nắm vững những nguyên lý nền tảng, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người. Con đường phát triển của nước Việt Nam là không chịu sự chi phối, sự hướng lái của bất cứ thế lực bên ngoài nào và chỉ có con đường của chủ nghĩa xã hội thì mới đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, cho mỗi người dân. Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(19). Đồng thời, cần phải kiên định đường lối đổi mới, bởi chính đường lối đổi mới được thể hiện qua hơn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối này. Cần kiên định với nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi “sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(20), đặc biệt là các nguyên tắc: tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật… Các nguyên tắc này thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Coi nhẹ hoăc bỏ qua một nguyên tắc nào trong các nguyên tắc trên cũng làm cho Đảng suy yếu, mất vai trò lãnh đạo như sự sụp đổ vai trò lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX là một minh chứng.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tuân theo quy luật kế thừa và đổi mới trong phát triển. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam không phải bắt đầu từ hư vô, mà có sự kế thừa những thành quả của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của cha ông, là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, là ý chí vươn lên chống lại những hoàn cảnh khắc nghiệt. Đồng thời, chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam còn kế thừa thành tựu phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Song, đó không phải là sự kế thừa một cách nguyên xi, mà như đồng chí Tổng Bí thư nhắc nhở: “nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(21). Đó còn là kế thừa truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng; gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu; đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí; đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả(22).

Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng phải luôn nhận thức rõ “bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc, đầy đủ hơn”(23), chăm lo, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, bởi đây  “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(24). Cùng với đó, cần chú trọng đến giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và đội ngũ thanh niên với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Bởi đây là những tệ nạn ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nó cũng yêu cầu đấu tranh chống lại mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam yêu cầu Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cán bộ. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền khoa học trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược(25). Chỉ có như vậy, Đảng mới nâng mình lên, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước, của sự vận động không ngừng của những nhân tố khách quan và chủ quan.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về đổi mới. Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách. Tầm quan trọng đặc biệt của thực tiễn trong công tác lý luận của Đảng xuất phát từ chính vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; từ đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để phát triển lý luận. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của lý luận, bởi lý luận không chỉ nhằm giải thích thế giới, mà quan trọng hơn - còn nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.

Trong thời gian tới, nội dung hoàn thiện lý luận đổi mới rất rộng, bao gồm toàn bộ thể chế phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần chú ý đến một số nội dung cơ bản sau: trong lĩnh vực kinh tế, đó là tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, về kinh tế tập thể, về các hình thức sở hữu, về quản lý vốn nhà nước, về kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, đó là xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người Việt Nam; về biến đổi cơ cấu xã hội trong mối liên hệ với phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo gắn với sự phát triển, nâng cao năng lực của giai cấp công nhân, vị trí, vai trò của giai cấp nông dân; về ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong lĩnh vực chính trị, đó là tiếp tục hoàn thiện lý luận, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; bảo đảm tránh chồng chéo, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển. Đó còn là tiếp tục hoàn thiện lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và cầm quyền khoa học. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đó là vấn đề chiến lược trong điều kiện đối tượng, đối tác và phương thức chiến tranh thay đổi; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới; bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong bối cảnh mới.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là làm sao để chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên. Bởi, chỉ có hiểu biết, có nhận thức sâu sắc thì mới có thể thực hiện đúng, giữ vững nguyên tắc, không dao động, dân túy, “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Do đó, cần không ngừng tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý, đảng viên; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách, nhằm tránh trục lợi, sai lệch quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, cần lấy tiến bộ xã hội, hiệu quả kinh tế - xã hội, sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân, sự vững mạnh của đất nước, đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội làm mục tiêu để thực hiện./.

----------------

Củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng trong giai đoạn mới

 TCCS - Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố chủ yếu tạo nên sức mạnh, sự thống nhất ý chí, bảo đảm cho toàn Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Theo đó, việc củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là nhiệm vụ có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn; bởi lẽ, đây là những người có vị trí, vai trò quan trọng và quyết định trực tiếp đến chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.

Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước dự Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2024 tại phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, ngày 2-8-2024_Ảnh: TTXVN

1. Bản lĩnh chính trị của cán bộ là sự hiểu biết sâu sắc, niềm tin tuyệt đối, ý thức chấp hành nghiêm túc và sự kiên định đối với nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong mọi hoàn cảnh, nhất là trước những khó khăn, thử thách, những thời điểm có tính bước ngoặt của cuộc cách mạng.

Củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ là hoạt động có mục đích của cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức, cơ quan có trách nhiệm và từng cán bộ trong việc xác định và tổ chức thực hiện hiệu quả những yêu cầu về tư tưởng chính trị, thường xuyên tự phê bình và phê bình, uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và hành động, nhằm làm cho đội ngũ cán bộ có trình độ nhận thức lý luận chính trị, nắm vững và tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có kiến thức và quyết tâm đổi mới, có khả năng vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, định hướng, chi phối toàn bộ sự nghiệp chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên và là yếu tố chủ yếu tạo nên ý chí, khát vọng, khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để phấn đấu, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng giao cho.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu dựa trên sự nắm vững tri thức khoa học và khả năng đúc rút tri thức mới từ thực tiễn hoạt động chính trị, với yêu cầu “phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”(1).

Trong mọi giai đoạn của cách mạng, nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên luôn trung thành với Đảng, luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cách mạng, của Đảng, không ngừng phấn đấu, hy sinh, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, góp phần tạo nên thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam.

Tuy vậy, trong thời kỳ đổi mới, liên tiếp 3 kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương trong 3 nhiệm kỳ đại hội Đảng gần đây đều ban hành nghị quyết, kết luận những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong đó xác định vấn đề cấp bách nhất vẫn là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả ở cấp cao. Đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Kết luận số 21 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

Quan điểm nhất quán của Đảng là “Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(2).

Củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là tất yếu khách quan và là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.

Sở dĩ đây là nhiệm vụ mang tính cấp thiết là bởi lẽ, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò quan trọng nhất và quyết định trực tiếp đối với chất lượng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Người lãnh đạo, người đứng đầu giữ vai trò hạt nhân, quy tụ mọi thành viên trong tổ chức tạo nên sự đoàn kết, thống nhất, kết thành sức mạnh to lớn của tổ chức. Trong những yếu tố tạo nên phẩm chất, năng lực, phong cách của người lãnh đạo, người đứng đầu thì bản lĩnh chính trị là yếu tố đầu tiên, chi phối, dẫn dắt tập thể vượt qua mọi khó khăn để thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của tổ chức. Trong mọi thời kỳ và mọi giai đoạn cách mạng, bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu, nhất là cán bộ cao cấp luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố chủ yếu tạo nên sức mạnh, sự thống nhất ý chí, là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho toàn Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.

Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cán bộ, bao gồm cả những người giữ chức vụ không nhỏ, do thiếu rèn luyện, không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ của cuộc sống nên đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn vun vén lợi ích cá nhân, sa vào “lợi ích nhóm”, làm giàu bất chính. Điều đó làm suy giảm sức mạnh của tổ chức, tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng.

Trong thời gian tới, trước yêu cầu của tình hình mới, toàn Đảng đang tích cực thực hiện “nhiệm vụ then chốt” - xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Theo đó, nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt” là tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Trong đó, việc củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo, người đứng đầu trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền có vai trò, tầm quan trọng đặc biệt.

2- Củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu bao gồm các nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, xây dựng tiêu chuẩn chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Lãnh đạo là chức năng của Đảng, hoạt động của cán bộ lãnh đạo là tham gia lãnh đạo tập thể của cấp ủy các cấp - người “cầm lái, dẫn đường”. Các quyết sách của cơ quan lãnh đạo của Đảng đều ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc và toàn diện đến sự phát triển bền vững của mỗi địa phương, đơn vị và cả nước. Hoạt động của người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị là hoạt động lãnh đạo, quản lý, chủ trì tổ chức thực thi quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ do tổ chức có thẩm quyền giao.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”(3). Đồng thời, để thực hiện những nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng, trong đó giải pháp cấp bách nhất là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, thì giải pháp về củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị đều đặt lên hàng đầu và đều nhấn mạnh trước hết đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Trong công tác cán bộ, việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ là khâu quan trọng đầu tiên, là tiền đề, là căn cứ khoa học và pháp lý để thực hiện các khâu khác của công tác cán bộ, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, đánh giá, bố trí và giới thiệu cán bộ ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo các cấp trong hệ thống chính trị. Tiêu chuẩn chính trị đã được đề cập khá cụ thể trong Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18-6-1997, của Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, “Về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo đó, cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bên cạnh yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn chung, còn phải: “Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”(4).

Với quan điểm: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”(5), thì yêu cầu về bản lĩnh chính trị được đặt lên hàng đầu. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, trong đó có yêu cầu về chính trị, tư tưởng.

Với quan điểm: cán bộ giữ vị trí lãnh đạo càng cao thì yêu cầu tiêu chuẩn chính trị càng lớn, ngày 4-8-2017, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 90-QĐ/TW, “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”, đặt ra yêu cầu cao hơn về chính trị, tư tưởng: “Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng để bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước và phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị...”(6).

Lãnh đạo Tỉnh ủy Lai Châu thăm mô hình sản xuất nông nghiệp tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không phải tự nhiên mà có, mà do nhiều yếu tố tạo nên. Yếu tố cơ bản, hàng đầu là tính khoa học, đúng đắn của nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có lý luận cách mạng, khoa học mới giúp Đảng xác định rõ mục tiêu, xây dựng đường lối đúng đắn, hệ thống pháp luật đầy đủ, khả thi, làm căn cứ, tạo niềm tin vững chắc cho đội ngũ lãnh đạo, người đứng đầu. Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng có tính quyết định là việc học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Vì thế, trong các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để tạo nền tảng chính trị vững chắc cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phụ thuộc vào nhận thức lý luận, tình cảm và ý chí cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường./ Tận trung với nước. Tận hiếu với dân(7). Do đó, Đảng chủ trương “Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(8).

Để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải tích cực, tự giác học tập lý luận chính trị để nắm chắc đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở được trang bị hệ thống lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hệ thống giáo dục lý luận của Đảng phải “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(9). Học tập phong cách tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nghiên cứu lý luận cần nắm vững phép biện chứng duy vật để vận dụng sáng tạo và phát triển vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; tránh giáo điều, bảo thủ, xơ cứng, trì trệ; phải nắm bắt tinh thần, phương pháp khoa học để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.

Các cơ quan quản lý cán bộ cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Khi bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu được nâng cao sẽ góp phần đẩy lùi các nguy cơ đối với vai trò cầm quyền của Đảng, đồng thời nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng. Nhận thức đúng đắn của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng phải được thể hiện trong kế hoạch học tập các nghị quyết, quy định của Đảng về chế độ học tập lý luận chính trị(10).

Thứ ba, thực hiện đúng quy định của Đảng, thể hiện và phát huy bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu trong mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý.

Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không phải là vấn đề trừu tượng, khó đoán định, mà được thể hiện thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Người đứng đầu (với tư cách là người chủ trì hoạt động của cấp ủy) phải mẫu mực trong thực hiện các nguyên tắc của Đảng, bảo đảm thực hiện nguyên tắc của Đảng một cách đầy đủ, đúng đắn và hiệu lực, hiệu quả nhất. Trên cơ sở chuẩn bị nghiêm túc, thấu đáo những vấn đề đưa ra tập thể bàn bạc, quyết định, thực sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, thực sự khách quan, công tâm, người chủ trì phải biết lắng nghe, có khả năng thuyết phục, giải đáp và xử lý được những ý kiến khác nhau, bảo vệ chân lý, lẽ phải, bảo đảm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng đắn ở cơ sở. Đó chính là bản lĩnh chính trị của người đứng đầu.

Là người lãnh đạo, tham gia lãnh đạo (với tư cách là thành viên, cấp ủy viên) của tổ chức, cơ quan lãnh đạo, vấn đề bản lĩnh chính trị thể hiện ở chính kiến khi tham gia xây dựng các quyết sách thuộc thẩm quyền của tập thể lãnh đạo, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, địa phương và đơn vị. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao về thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động được quy định trong Điều lệ Đảng: Tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật cũng như các quy chế, quy định khác của Đảng. Người lãnh đạo, tham gia lãnh đạo cần tỏ rõ chính kiến, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, thậm chí khi chưa được tiếp thu ý kiến của mình (dù mình cho là đúng đắn) thì thực hiện quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. Nếu thực hiện đúng nguyên tắc này thì sẽ không xảy ra sai phạm khiến tập thể phải bị xử lý kỷ luật chỉ vì nể nang, “dĩ hòa vi quý”, không dám “đấu tranh”. Điều này đang là “điểm nghẽn” trong hoạt động lãnh đạo của không ít cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay, cần sớm khắc phục.

Thứ tư, phát huy vai trò tự giác rèn luyện để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Từ nhận thức đúng, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu tự ý thức rèn luyện - yếu tố quyết định bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ. Bản lĩnh của một con người hay bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu luôn mang sắc thái riêng, thể hiện đặc tính, tố chất của mỗi cá nhân và tạo nên nhân cách của mỗi người. Vì thế, chỉ khi mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu nhận thức đúng đắn vai trò của bản lĩnh chính trị thì mới thực sự tự giác học tập đạt kết quả thiết thực, bền vững. Bởi lẽ, mỗi lần tham gia quyết định lãnh đạo tập thể hay đưa ra quyết định của cá nhân theo chế độ thủ trưởng đều là sự hội tụ của trình độ lý luận, trí tuệ, của sự thấu hiểu thực tiễn, hoàn cảnh của địa phương, cơ quan, đơn vị, đất nước và lợi ích của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo, cần xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ giữa chiến lược và sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, tức là học tập, xây dựng cho mình phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, không lệ thuộc vào người khác hay cái có sẵn. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện rõ nhất khi được trang bị đầy đủ, sâu sắc những vấn đề lý luận, trung thành và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn để phân tích, đánh giá đúng tình hình, tìm ra bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng; từ đó, đưa ra được giải pháp phù hợp, tập hợp và phát huy được sức mạnh để vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được mục tiêu chính trị đề ra.

Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải được tiến hành đồng bộ thông qua việc thường xuyên bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, phương pháp làm việc, năng lực công tác,... gắn liền với việc tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người. Không thể coi học tập ở trường, lớp là đủ và cũng không chỉ học một lần là xong, mà phải học tập thường xuyên để cập nhật kiến thức, hiểu biết sâu sắc hơn, nhất là kinh nghiệm xử lý tình huống lãnh đạo, quản lý, kể cả tình huống phức tạp về chính trị.

Thứ nămtạo môi trường thuận lợi cho cán bộ thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị gắn với việc đấu tranh chống tư tưởng, việc làm sai trái, thiếu bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu được thể hiện khi họ hoạt động trong môi trường có nhiều thử thách, trong tình huống phức tạp; càng nhiều khó khăn, thử thách càng bộc lộ rõ bản lĩnh chính trị. Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện ở tác phong làm việc sâu sát cơ sở, nắm vững thực tiễn, nhất là khả năng giải quyết khó khăn và vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn.

Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung và nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản rất quan trọng mà đội ngũ cán bộ cần có, đó là “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(11). Bộ Chính trị có Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, “Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Đây là căn cứ chính trị, pháp lý và cũng là cơ hội để cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy, tầm nhìn và tài năng khắc phục “điểm nghẽn” của cơ chế, chính sách, có những phát kiến mới, tiến bộ để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Thời gian qua, vẫn chưa xuất hiện nhiều đề án, đề xuất thí điểm để tổng kết, có thể nhân rộng mô hình, hoàn thiện cơ chế quản lý đem lại hiệu quả thiết thực do công tác quán triệt, thực thi chủ trương, chính sách đó chưa đầy đủ, rõ ràng, mạnh mẽ. Vì vậy, một mặt, phải tuyên truyền, nhân rộng mô hình, giải pháp thí điểm, đổi mới sáng tạo hiệu quả; kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hóa thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng mô hình, giải pháp đó; biểu dương, khen thưởng xứng đáng; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao; mặt khác, phải xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây có thể coi là điểm mới và là điểm nhấn trong củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu giai đoạn hiện nay.

Đồng thời với quá trình giáo dục, rèn luyện, nêu gương của mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chất vấn, đối thoại nhằm làm cho bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu bộc lộ rõ nét và thường xuyên hơn. Thời gian qua, khi không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý bị xử lý kỷ luật không chỉ do tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, mà còn do một số cơ chế, chính sách quy định chồng chéo, lạc hậu, nhưng chậm sửa đổi, khó khả thi, đã dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu sợ sai, né tránh trách nhiệm, không muốn hoặc không dám làm, để công việc trì trệ, kéo dài.

Thứ sáutrong đổi mới công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, lãnh đạo, người đứng đầu cần chú trọng đánh giá thực chất về bản lĩnh chính trị.

Đổi mới tư duy về công tác đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và căn cứ vào quan điểm của Đảng. Khi tiến hành đánh giá thực hiện tiêu chuẩn chính trị theo hướng dẫn hằng năm, cần hết sức tránh việc đánh giá một cách chung chung, mà phải thông qua hoạt động cụ thể theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Trước hết, cần dựa vào các tiêu chuẩn chính trị đã được quy định và các quy định cụ thể về vị trí việc làm để đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Khi xem xét, đánh giá cán bộ, đảng viên nói chung, đánh giá về bản lĩnh chính trị nói riêng cần căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương mà họ công tác. Tránh tình trạng quan liêu trong đánh giá, phân loại cán bộ. Điều đó cần cấp trên xem xét toàn diện hơn, qua đó bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, mạnh mẽ, quyết liệt trong hành động vì lợi ích của Đảng, của địa phương, đất nước. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đề ra một trong những giải pháp đột phá trong công tác cán bộ: “Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương”.

Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định quan điểm: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”; trong đó, củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là một trong những nhiệm vụ quan trọng, bao trùm./.

---------------------


Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

 TCCS -  Tham nhũng trong xây dựng pháp luật hay còn gọi là tham nhũng chính sách, là hình thức tham nhũng lớn, vô cùng phức tạp; là biểu hiện tha hóa quyền lực nhà nước ở mức độ cao nhất; là sự “bắt tay” giữa các chủ thể công, tư, “nhóm lợi ích”, “nhóm thân hữu” nhằm trục lợi chính sách từ văn bản pháp luật. Do đó, cần nhận diện đầy đủ về bản chất, đặc điểm, nguyên nhân, điều kiện phát sinh để góp phần nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay.

Bản chất và đặc trưng của tham nhũng trong xây dựng pháp luật

Tham nhũng trong xây dựng pháp luật là hành vi của người, nhóm người, tổ chức có chức vụ, nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động xây dựng pháp luật đã lợi dụng chức vụ, nhiệm vụ, quyền hạn đó để vụ lợi cho cá nhân, nhóm, tổ chức của mình(1). Các hành vi tham nhũng diễn ra trong toàn bộ chu trình chính sách công, gồm các giai đoạn, như lựa chọn chính sách; xây dựng và ban hành chính sách; thực thi chính sách; đánh giá, hậu kiểm chính sách.

Tham nhũng trong xây dựng pháp luật mang đầy đủ bản chất của tham nhũng nói chung: (i) Là hành vi của thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội có chức vụ, quyền hạn; (ii) thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội này đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó với mục đích vụ lợi; (iii) khách thể mà hành vi tham nhũng xâm hại đồng thời là các giá trị liêm chính, sự phát triển bền vững và lành mạnh của khu vực công và tư, các quyền về tài sản, quyền bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân và các chủ thể pháp luật. Ngoài ra, tham nhũng trong xây dựng pháp luật có những dấu hiệu đặc trưng khác biệt trong so sánh với các dạng tham nhũng khác, cụ thể:

Một là, về phạm vi: Tham nhũng trong xây dựng pháp luật là hành vi tham nhũng diễn ra trong toàn bộ quá trình của hoạt động xây dựng pháp luật, như: Khảo sát, đánh giá thực tiễn; phát hiện và nêu ý tưởng chính sách; đề xuất chính sách; duyệt/quyết định chương trình và nội dung chính sách; soạn thảo chính sách thành dự luật; quyết định, thông qua chính sách/pháp luật; tổng kết, sơ kết đánh giá chính sách, pháp luật và quá trình thực thi chính sách, pháp luật chuẩn bị cho đề nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới chính sách, pháp luật.

Hai là, về chủ thể: Chủ thể của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật hết sức phong phú, có thể là cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; tổ chức xã hội, pháp nhân, nhóm xã hội và cá nhân. Những chủ thể này có điểm chung là có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm hoặc lợi ích liên quan trong quá trình xây dựng pháp luật và liên quan đến nội dung chính sách của văn bản quy phạm pháp luật là sản phẩm của hoạt động xây dựng pháp luật trong tương lai. Trong số này, chủ thể có ảnh hưởng nhất là các “nhóm lợi ích” thuộc khu vực công và tư, bao gồm bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ.

Ba là, về đối tượng và khách thể xâm hại: Đối tượng xâm hại của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật là nội dung chính sách trong văn bản pháp luật; khách thể xâm hại là tính đúng đắn của nội dung chính sách trong văn bản quy phạm pháp luật được hình thành trong tương lai. Theo đó, các chính sách đã được ban hành hướng tới phục vụ “lợi ích nhóm” nào đó là các chính sách đã bị xâm hại, thao túng bởi hành vi tham nhũng.

Bốn là, về đối tượng tác động: Đối tượng tác động của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật chính là các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích trong hoạt động xây dựng pháp luật. Trong nhiều trường hợp, đối tượng bị tác động của hành vi tham nhũng có thể hoán đổi để đồng thời là chủ thể của hành vi tham nhũng - nghĩa là một thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội nào đó vì lợi ích của mình, có thể vừa thực hiện hành vi đưa hối lộ và nhận hối lộ liên quan đến cùng một quá trình xây dựng văn bản pháp luật cụ thể.

Năm là, về động cơ và mục tiêu. Mục tiêu “vụ lợi” của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật thường là mục tiêu sâu xa, có tính lâu dài, chưa hiện thực nhưng sẽ đạt được trên thực tế vì lợi ích không chính đáng của cá nhân, nhóm, tổ chức đã được “cài, cắm” vào nội dung văn bản pháp luật sẽ được ban hành. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số chủ thể, chẳng hạn chủ thể của hành vi nhận hối lộ có thể đã đạt được lợi ích bất hợp pháp của mình ngay trong quá trình đề xuất hoặc soạn thảo văn bản pháp luật.

Sáu là, về biểu hiện khách quan. Tham nhũng trong xây dựng pháp luật diễn ra vô cùng tinh vi, rất khó phát hiện bản chất của mối quan hệ “thân hữu” giữa biểu hiện bên ngoài và động cơ thực sự bên trong. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp, nó được che đậy bằng các “lập luận khoa học”, chẳng hạn coi đó là các hành vi nhân danh lợi ích chung; thể chế hóa đường lối của Đảng và Nhà nước; đáp ứng nhu cầu xã hội; theo thông lệ quốc tế, thông lệ kinh doanh, thông lệ đầu tư; đã có tiền lệ, phổ biến; phù hợp với tập quán, văn hóa truyền thống; phù hợp với kinh tế thị trường và điều kiện Việt Nam…, nhưng thực chất là sự bao biện nhằm hướng đến lợi ích cục bộ của một “nhóm thân hữu”, một tổ chức, một ngành nghề trong và ngoài khu vực công.

Bảy là, về hậu quả, tác hại: Tham nhũng trong xây dựng pháp luật có hậu quả thường nặng nề, lâu dài, phạm vi rộng lớn, có thể trên phạm vi toàn quốc và trên mọi phương diện của đời sống xã hội và thường không thể lượng hóa. Về kinh tế, tham nhũng trong xây dựng pháp luật làm cho môi trường kinh doanh trở nên thiếu bình đẳng; cản trở sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp; khoa học - công nghệ, năng suất lao động và hiệu quả đầu tư xã hội chậm được cải thiện; các doanh nghiệp phải gồng mình với các gánh nặng chi phí đủ loại và nguy cơ phá sản hoặc bỏ lỡ cơ hội phát triển, nâng cao sức cạnh tranh. Về chính trị - xã hội, tham nhũng trong xây dựng pháp luật làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước; làm sai lệch bản chất chế độ, tha hóa cán bộ; đe dọa sự phát triển ổn định của hệ thống thể chế và sự lành mạnh nền kinh tế - tài chính quốc gia; làm gia tăng sự phân hóa và bất bình đẳng xã hội; tước đoạt cơ hội của các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp “thân cô thế cô”, nhóm yếu thế trong xã hội; làm mất lòng tin của nhân dân vào các giá trị cốt lõi(2); ngăn cản các mục tiêu phát triển bền vững của các quốc gia. Đặc biệt, “lũng đoạn nhà nước” - cấp độ cao nhất của tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật sẽ gây ra tác hại vô cùng to lớn cho nhiều chủ thể khác nhau. So với các hình thức tham nhũng khác, tác hại của “lũng đoạn nhà nước” nghiêm trọng hơn nhiều, vì nó có phạm vi rộng, làm biến đổi, méo mó các quy tắc pháp lý và đạo đức, từ đó tác động tiêu cực lên toàn bộ xã hội(3).

Tham nhũng trong xây dựng chính sách sẽ phát sinh trong điều kiện chính trị - pháp lý và xã hội sau:

Thiếu dân chủ trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật; trong tiếp cận thông tin; trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và giám sát quá trình này từ phía người dân; thiếu sự công khai, minh bạch và bảo đảm về trách nhiệm giải trình của các cơ quan đề xuất chính sách, soạn thảo và thông qua văn bản luật. Đây là cơ hội, điều kiện lý tưởng để các “nhóm thân hữu”, tiêu cực “đi đêm”, chi phối thực tế quá trình chính sách.

- Đạo đức liêm chính và năng lực của các chủ thể nhà nước trong lập chính sách công và chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế, bất cập. Theo đó, các cơ quan chủ trì hoặc cán bộ, công chức, đại biểu dân cử có trách nhiệm đề nghị, đề xuất, soạn thảo, tiếp thu - giải trình, góp ý - phản biện, quyết định văn bản quy phạm pháp luật... không đủ liêm chính khi lợi dụng quyền hạn của mình chủ động “vòi vĩnh” hối lộ để “ban ơn” chính sách cho các doanh nghiệp, hiệp hội, “nhóm lợi ích” công - tư hoặc cá nhân; hoặc thụ động nhận hối lộ để ghi nhận, thể hiện trong dự thảo văn bản pháp luật các nội dung chính sách cục bộ của một “nhóm lợi ích”. Mặt khác, cơ quan chủ trì hoặc cán bộ, công chức, đại biểu dân cử thiếu năng lực, khả năng phân tích, dự báo chính sách; thiếu kỹ năng thể chế hóa chính sách thành quy phạm và khả năng tiếp thu, giải trình đối với các chủ thể có liên quan, dẫn tới thụ động chấp nhận, ghi nhận, thể hiện trong văn bản dự thảo hoặc thông qua những văn bản đã bị các “nhóm lợi ích” chi phối về nội dung chính sách trong đó.

- Trình độ dân trí thấp là môi trường lý tưởng cho tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Khi người dân không có đủ năng lực góp ý, phản biện đối với dự kiến chính sách hay dự thảo luật; không có khả năng phản hồi về tác động, tính thực tiễn, khả thi của dự luật thì các “nhóm lợi ích” có thể dễ dàng thao túng toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật. Ngược lại, việc tham gia rộng rãi, hiệu quả của các tầng lớp nhân dân vào quá trình xây dựng luật sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan đề xuất ý tưởng chính sách và soạn thảo chính sách, hạn chế tối đa hành vi tham nhũng.

- Quy trình xây dựng pháp luật thiếu khoa học, không chặt chẽ, tạo nguy cơ tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Nếu quy trình xây dựng pháp luật không thu hút sự tham gia thực chất, hài hòa của các đối tượng chịu tác động; không bảo đảm sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể có liên quan và khả năng kiểm soát hoạt động xây dựng pháp luật từ phía Nhà nước và nhân dân; không bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật thì các “nhóm lợi ích”, các chủ thể có liên quan lợi dụng trục lợi trong quá trình xây dựng pháp luật.

- Bất cập về điều kiện tài chính, kỹ thuật cho công tác xây dựng pháp luật. Với nguồn lực tài chính đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật không được bảo đảm, các hoạt động nghiên cứu, tổng kết, khảo sát thực tiễn; trưng cầu, tiếp thu, phản hồi, giải trình ý kiến góp ý đối với dự luật sẽ không thể bảo đảm chất lượng các dự án luật. Cơ quan chủ trì soạn thảo và các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia pháp lý rất dễ chịu sự tác động tiêu cực của các “nhóm lợi ích” và các chủ thể có liên quan.

- Thiếu cơ chế hữu hiệu nhằm kiểm soát quyền lực trong hoạt động xây dựng pháp luật. Thực tiễn cho thấy, tình trạng tham nhũng chính sách xảy ra chủ yếu ở những ngành, lĩnh vực, địa phương mà cơ chế kiểm soát quyền lực còn lỏng lẻo, bao gồm “tiền kiểm - hậu kiểm” văn bản/dự thảo văn bản pháp luật và kiểm soát nội bộ hay kiểm soát từ bên ngoài. Việc tổ chức giám sát, phản biện chính sách của các lực lượng chức năng còn hình thức; thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm trong hoạt động xây dựng pháp luật bị “buông lỏng” đã tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh và gia tăng của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật.

Cần nhận diện đầy đủ về bản chất, đặc điểm, nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng trong xây dựng pháp luật để góp phần nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng (Trong ảnh: Kiểm toán nhà nước kiểm tra tài chính nhà nước, quá trình quản lý, sử dụng tài sản công) _Nguồn: vietnamplus.vn

Nhận diện tham nhũng trong xây dựng pháp luật

Tham nhũng có thể xảy ra trong các giai đoạn của hoạt động xây dựng pháp luật, cụ thể:

- Giai đoạn lựa chọn vấn đề chính sách: Trong thực tiễn có rất nhiều vấn đề đang đặt ra cần được giải quyết bằng chính sách. Tham nhũng trong xây dựng pháp luật bắt đầu bằng hành vi vận động của các chủ thể nhà nước và xã hội để vấn đề, lợi ích của chủ thể được ưu tiên “luật hóa”, được giải quyết ở tầm chính sách và chính sách đó phải được lựa chọn đưa vào chương trình xây dựng pháp luật.

- Giai đoạn soạn thảo chính sách thành pháp luật. Trong giai đoạn này, nội dung chính sách đã được duyệt hay định hình từ trước đó, “nhóm lợi ích” vẫn có thể trực tiếp hoặc gián tiếp đưa những nội dung hay phương án hoặc “cài” câu, chữ “có lợi” vào văn bản dự thảo; cũng có thể đưa ra các thủ tục - điều kiện, các “giấy phép con” vào dự thảo văn bản để sau này có thể trục lợi. Trong giai đoạn này, các “nhóm lợi ích” thường “núp bóng” với lý do bảo đảm “an ninh quốc gia”, “lợi ích nhân dân”, “sự ổn định” hay “sự đổi mới” hoạt động của ngành - lĩnh vực, “tuân thủ điều ước quốc tế”… để che đậy mục đích tham nhũng.

- Giai đoạn thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định, nên các hành vi tham nhũng diễn ra trong giai đoạn này hướng vào việc “mua phiếu”, “mua quyết định” của những chủ thể có thẩm quyền quyết định về chính sách hay biểu quyết thông qua dự thảo văn bản pháp luật. Như vậy, tham nhũng có thể xảy ra khi những đại biểu dân cử hay những người đứng đầu cơ quan hành chính, tư pháp không giữ được phẩm chất đạo đức liêm chính và đã “trục lợi” khi quyết định hoặc tác động để thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có lợi cho “nhóm lợi ích”.

Những nguy cơ tiềm ẩn tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam

Thời gian qua, thể chế về xây dựng pháp luật ở Việt Nam không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, một số hạn chế về xây dựng pháp luật hiện hành là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng:

Một là, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật làm gia tăng khả năng xung đột lợi ích trên thực tế. Với quy định trưởng ban soạn thảo “là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo”(4), trong hầu hết các trường hợp, đó là bộ trưởng các bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật đó điều chỉnh. Quy định này luôn tiềm ẩn rủi ro là việc xây dựng luật từ chức năng của Quốc hội thực tế đã “tự động” chuyển sang cho cơ quan hành pháp. Tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” có thể đã làm gia tăng khả năng xung đột lợi ích, là nguyên nhân  dẫn đến tình trạng một số văn bản quy phạm pháp luật chỉ có “tác dụng - ý nghĩa” tăng thêm quyền lực của “nhóm lợi ích” là bộ, ngành nào đó. Đồng thời đẩy cái khó cho người dân, doanh nghiệp, không tính đến hoặc đề cập rất chung chung, mờ nhạt về quyền của các nhóm chủ thể khác, nhất là các chủ thể xã hội.

Hai là, thiếu cơ chế phản biện từ bên ngoài trong xây dựng thông tư. Quy trình xây dựng thông tư, thông tư liên tịch hiện còn có tình trạng “đóng kín”, thiếu cơ chế thẩm định, phản biện từ bên ngoài hiệu quả, nhất là thiếu tiền kiểm nhằm bảo đảm tính khách quan, minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống “lợi ích nhóm” trong hoạt động xây dựng thông tư của bộ, ngành. Do đó, thông tư được ban hành luôn tiềm ẩn rủi ro là sẽ chỉ tập trung phản ánh ý chí chủ quan của bộ, ngành hoặc mong muốn của “nhóm lợi ích” mà không quan tâm đúng mức đến nhu cầu của các chủ thể khác, nhất là các đối tượng xã hội chịu sự tác động của thông tư.

Ba là, góp ý, phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn hình thức. Các quy định hiện hành chưa bảo đảm sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể có trách nhiệm trong việc đề nghị, đề xuất, ban hành chính sách, pháp luật trên thực tế. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa quy định cụ thể về trách nhiệm phòng, chống tham nhũng của các chủ thể công và tư thông qua góp ý, phản biện chính sách, pháp luật(5). Do đó, nội dung các góp ý, phản biện thường không đề cập đến khả năng phát sinh tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng của văn bản quy phạm pháp luật trong tương lai, cũng như không nhận được ý kiến góp ý, phát hiện, phản biện về hiện tượng “lợi ích nhóm” và “vận động hành lang” trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Bốn là, quy định hiện hành chưa có yêu cầu đánh giá tác động của chính sách đến tình trạng tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng. Các quy định hiện hành về đánh giá tác động chính sách chưa đề cập đến khả năng tham nhũng và phòng, chống tham nhũng của chính sách trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực tiễn cho thấy, không có bất kỳ chủ thể có thẩm quyền nào đề cập đến đánh giá tác động về tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng trong các đề nghị, đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh. Mặt khác, việc đánh giá tác động chính sách chỉ thực hiện đối với dự thảo luật trước khi cơ quan chủ trì soạn thảo trình Chính phủ; nhưng ở các giai đoạn tiếp theo, khi Chính phủ trình dự thảo luật sang Quốc hội thì nhiều nội dung chính sách đã được điều chỉnh mà không được đánh giá tác động. Quy định pháp lý về đánh giá tác động chính sách hiện chưa chặt chẽ, tạo ra điều kiện để các nhóm chủ thể khu vực công và tư cài cắm lợi ích cục bộ, đơn lẻ trong các giai đoạn xây dựng pháp luật.

Năm là, thiếu các quy định pháp lý cụ thể về kiểm soát tham nhũng trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; về nguy cơ phát sinh tham nhũng và khả năng phòng, chống tham nhũng trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thể chế về xây dựng pháp luật thiếu quy định về kiểm soát tham nhũng trong quá trình đề nghị và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cũng như thiếu quy định về nguy cơ phát sinh tham nhũng và khả năng phòng, chống tham nhũng trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực tiễn cho thấy, trong nhiều trường hợp, quá trình xây dựng pháp luật tuy không có biểu hiện can thiệp của “lợi ích nhóm” nhưng khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và có hiệu lực đã bộc lộ nhiều sơ hở, tạo điều kiện phát sinh tham nhũng. Nguyên nhân chính là do thiếu quy định pháp lý về tiền kiểm và hậu kiểm của các cơ quan chức năng của Chính phủ, Quốc hội hay cơ quan tư pháp về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong quá trình xây dựng pháp luật, trong nội dung chính sách của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Sáu là, thiếu quy định về hậu kiểm văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Các hoạt động hậu kiểm văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm giám sát, kiểm tra của cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước đều hướng tới mục tiêu phát hiện và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật(6). Tuy nhiên, đặc điểm chung của các quy định này là không giả định tình huống “văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực” hoặc “văn bản quy phạm pháp luật không bảo đảm yếu tố phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực”. Theo đó, trách nhiệm và trọng tâm ưu tiên phát hiện và xử lý sai phạm qua công tác giám sát và kiểm tra văn bản chỉ tập trung vào việc xem xét, đánh giá văn bản đó có trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên hay không. Việc xem xét, đánh giá “văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực” hoặc “văn bản quy phạm pháp luật không bảo đảm yếu tố phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực” là yêu cầu chưa có tiền lệ, chưa được coi trọng, nên chưa được xác định là những tiêu chí chính trị - pháp lý phổ quát, bắt buộc.

Bảy là, thiếu chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động xây dựng pháp luật. Trong các quy định pháp luật hiện hành không đề cập đến phòng ngừa, xử lý các hành vi “lợi ích nhóm”, tham nhũng chính sách trong quá trình xây dựng pháp luật. Các quy định về trách nhiệm của các chủ thể có liên quan tới hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung mà không thể áp dụng trực tiếp, cũng không quy định rõ các trách nhiệm chính trị, hành chính - công vụ, đạo đức hay hình sự, do đó, thiếu tính khả thi trong xử lý các hành vi vi phạm trên thực tiễn(7).

Tám là, thiếu quy định pháp lý về vận động chính sách công. Pháp luật Việt Nam chưa quy định chính thức về vận động chính sách công. Hiến pháp năm 2013 của nước ta có nhiều quy định xác lập căn cứ cho việc nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật. Đây là cơ sở quan trọng cho việc vận động chính sách trong xây dựng pháp luật của các chủ thể. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, theo đó, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật(8). Tuy nhiên, góp ý, phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hiện nay vẫn còn hình thức. Việc chậm ban hành quy định về vận động chính sách công sẽ tạo cơ hội để các “nhóm lợi ích” “móc ngoặc” với nhau trong hoạt động xây dựng pháp luật.

Quan điểm, định hướng phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam trong thời gian tới

Một là, tiếp tục thể chế hóa các chủ trương của Đảng về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định vai trò của các cấp ủy trong “lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật”(9); “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ”(10). Đảng ta cũng đã có những chỉ đạo định hướng liên quan đến xây dựng pháp luật và phòng, chống “lợi ích nhóm”. Mới đây, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 27-6-2024, "Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật". Đây là văn bản chỉ đạo chuyên biệt đối với vấn đề phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật, cần sớm được cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật trong thời gian sớm nhất, nhất là nghiên cứu thể chế các nội dung của Quy định số 178-QĐ/TW vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi).

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua một dự luật_Ảnh: TTXVN

Ba là, bảo đảm minh bạch, trách nhiệm giải trình trong xây dựng pháp luật. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định đây là một trong những yêu cầu hết sức quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: “Xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(11). Do đó, cần tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong xây dựng pháp luật phù hợp với quan điểm, mục tiêu trong Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030.

Bốn là, tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống “lợi ích nhóm”. Quán triệt và thực hiện hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””, các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, “duyệt - cấp”; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Năm là, đổi mới nhận thức về bản chất của pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật. Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần đổi mới mạnh mẽ “triết lý” về pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật theo quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”..., mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Sáu là, hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luậtTrọng tâm hoàn thiện thể chế nhằm phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật gồm các quy định về thẩm quyền, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; các quy định pháp luật chuyên ngành về phòng, chống tham nhũng và các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự, Luật Cán bộ, công chức, các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng pháp luật.

Bảy là, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam. Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Do đó, việc hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong công tác này rất cần thiết nhằm tiếp thu kinh nghiệm trong phòng, chống tham nhũng, nhất là kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng chính sách của các quốc gia có nền quản trị tiên tiến, như kinh nghiệm nhận diện, phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng chính sách; thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài; kiểm soát tài sản thu nhập của cán bộ, công chức và kiểm soát tài sản xã hội; công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật.../.

---------------------