Thứ Tư, 4 tháng 9, 2024

Đà Nẵng thực hiện “3 tiên phong", đột phá, đi trước mở đường.

 Làm việc với Thành uỷ Đà Nẵng, Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý Đà Nẵng phải nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí, tiềm năng, tầm quan trọng của thành phố, sứ mệnh đầu tàu, tiên phong, đột phá, đi trước mở đường; phát huy mạnh mẽ vai trò đầu tàu kinh tế của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, một cực tăng trưởng, phát triển của miền Trung và cả nước.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc. (Ảnh: ĐT).

Chiều 01/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đoàn công tác của Chính phủ đã có buổi làm việc với Thành uỷ Đà Nẵng về tình hình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 7 tháng đầu năm; triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.

Báo cáo với Thủ tướng và đoàn công tác, thay mặt Ban Thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng, đồng chí Lê Trung Chinh, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch UBND thành phố cho biết, mặc dù trong bối cảnh có nhiều khó khăn chung do tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, song Thành ủy Đà Nẵng đã phát huy truyền thống đoàn kết, nỗ lực, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiện toàn cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật, chấn chỉnh tình trạng đùn đẩy, né tránh, không làm đúng chức trách nhiệm vụ được giao.

Đà Nẵng cần thực hiện 3 tiên phong, đột phá, đi trước mở đường (Nguôn: vtvgo.vn) 

Thành phố xác định chủ đề năm 2024 là: “Năm đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tiếp tục khơi thông các nguồn lực đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội”; chủ động phối hợp với các cơ quan Trung ương báo cáo, tham mưu Bộ Chính trị sơ kết 05 năm Nghị quyết số 43-NQ/TW (khóa XII) về xây dựng và phát triển TP Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ban hành Kết luận số 79-KL/TW ngày 13/5/2024 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW; Quốc hội ban hành Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26/6/2024 về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Đà Nẵng; đồng thời, phối hợp tham mưu Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 77-KL/TW ngày 02/5/2024 về thực hiện Đề án “Phương án tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án, đất đai trong các kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án tại một số tỉnh, thành phố”.

Kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực

Thông tin từ báo cáo và các ý kiến thảo luận tại buổi làm việc cho biết, trong 7 tháng đầu năm, kinh tế - xã hội TP Đà Nẵng tiếp tục phát triển. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trong quý II/2024 ước tăng 8,35%; 6 tháng đầu năm ước tăng 5% so với cùng kỳ, cao hơn mức tăng 3,48% của cùng kỳ năm 2023 và cao hơn mức tăng bình quân 3,54% của 6 tháng đầu năm giai đoạn 2020-2024.

Lĩnh vực dịch vụ, du lịch tiếp tục phát triển mạnh, là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong 7 tháng đầu năm, tổng số lượt khách tại các cơ sở lưu trú phục vụ ước đạt 6,6 triệu lượt, tăng 33% so với cùng kỳ; doanh thu lưu trú, ăn uống, lữ hành đạt hơn 20.000 tỷ đồng, tăng 30% so cùng kỳ. Đà Nẵng đang là điểm đến hấp dẫn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế.

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tính riêng quý II/2024 tăng 20,7% so với quý trước và tăng 5,8% so cùng kỳ năm 2023; 7 tháng đầu tăng 4,7% so cùng kỳ; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 1.871,2 triệu USD, tăng 11,5%, trong đó, kim ngạch xuất khẩu phần mềm đạt gần 100 triệu USD, tăng 11% so cùng kỳ. Thành phố đã chủ động triển khai nhiều giải pháp phát triển lĩnh vực vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo; đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu, đào tạo thiết kế vi mạch; xây dựng Đề án Phát triển vi mạch bán dẫn và trí tuệ nhân tạo TP Đà Nẵng; ký kết Bản ghi nhớ hợp tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thiết kế vi mạch và trí tuệ nhân tạo với Tập đoàn Synopsys và Tập đoàn Intel; tổ chức các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm thu hút, xúc tiến, kêu gọi đầu tư và tiếp cận các hỗ trợ về đào tạo bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, STEM tại Hoa Kỳ và lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc); tổ chức thành công Ngày vi mạch bán dẫn Đà Nẵng năm 2024...

Hoạt động sản xuất nông nghiệp chuyển biến khá; đã chủ động xây dựng Kế hoạch phòng, chống thiên tai, lụt bão trên địa bàn.

Tổng thu ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/8 đạt 16.468 tỷ đồng, đạt 85,23% dự toán năm 2024. Các hoạt động xúc tiến đầu tưđối ngoại và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, lũy kế từ đầu năm đến nay đã thu hút tổng vốn đầu tư cấp mới và điều chỉnh tăng thêm là 24.406,2 tỷ đồng; trong đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đạt khoảng 30 triệu USD, tăng 7,1% so cùng kỳ. Đã cấp mới giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho 2.600 doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện...

Thành phố đã phê duyệt điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung TP Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cùng nhiều đồ án quy hoạch phân khu đô thị và phân khu chức năng; tập trung xây dựng một số quy hoạch chuyên ngành; tiếp tục hoàn thiện hồ sơ đề xuất đầu tư dự án Bến cảng Liên Chiểu - Phần kêu gọi đầu tư; tập trung tháo gỡ vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, thúc đẩy tiến độ một số dự án quan trọng về hạ tầng đô thị, phục vụ dân sinh.

Theo UBND TP Đà Nẵng, 7 tháng đầu năm, lãnh đạo TP thường xuyên kiểm tra thực tế, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng phục vụ triển khai các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải; nhất là tuyến cao tốc Hòa Liên - Túy Loan, cảng biển Liên Chiểu... Nhờ đó, đã khởi công, hoàn thành và đưa sử dụng nhiều công trình, dự án đảm bảo tiến độ theo kế hoạch năm 2024.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư ngang tầm với phát triển kinh tế. TP đã dành hơn 50% nguồn vốn đầu tư công cho các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và đào tạo, y tế, và môi trường; duy trì thực hiện tốt các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội với nhiều chính sách nhân văn, vượt trội như: Chương trình Thành phố 5 không, 3 có, 4 an, chăm lo các gia đình chính sách, hộ nghèo, các đối tượng yếu thế, miễn học phí cho học sinh các cấp học…

Công tác quốc phòng, an ninh được giữ vững. TP đã tổ chức triển khai thực hiện tốt Đề án số 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn.

Báo cáo của Ban Thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng cũng chỉ ra những công việc, kết quả tình hình triển khai thực hiện Thông báo số 02/TB-VPCP ngày 4/1/2022 và Thông báo số 220/TB-VPCP ngày 1/8/2022 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại các buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng; về tình hình triển khai thực hiện một số chủ trương, kết luận mới của Trung ương liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội TP; việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 136/2024/QH15 của Quốc hội; tiến độ triển khai một số công trình, dự án động lực, trọng điểm trên địa bàn TP…

Đại diện các bộ, ngành tham gia đoàn công tác phát biểu, trao đổi tại buổi làm việc (Ảnh: ĐT).

Chủ động triển khai công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp

Tại buổi làm việc, sau khi nghe báo cáo của đại diện Ban Thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng, đại diện các Bộ, ngành trong đoàn công tác cũng đã có ý kiến trao đổi. Trong đó, các ý kiến đã thống nhất đánh giá Đà Nẵng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, thương mại, quân sự và quốc phòng; thành phố đáng sống, một trung tâm du lịch của cả nước trên "Con đường di sản" miền Trung, có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đầu mối giao thông quan trọng.

Đặc biệt, nhiều ý kiến đã khẳng định, với mục tiêu xây dựng TP Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế-xã hội lớn của cả nước, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 43/NQ-TW ngày 24/01/2019 về xây dựng và phát triển TP Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kết luận số 79-KL/TW ngày 13/5/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 43/NQ-TW. Đặc biệt, mới đây Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 119/2020/QH14 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Đà Nẵng, vừa được thay thế bằng Nghị quyết số 136/2024/QH15 ngày 26/6/2024. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1287/QĐ-TTg ngày 02/11/2023 phê duyệt Quy hoạch Đà Nẵng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là nhưng cơ sở pháp lý rất quan trọng giúp Đà Nẵng phát triển, bứt phá trở thành một trung tâm lớn của khu vực và cả nước.

Theo các ý kiến, trên cơ sở những định hướng lớn của Trung ương, thời gian qua các cấp uỷ, chính quyền và các tầng lớp Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn TP Đà Nẵng đã có nhiều nỗ lực, huy động được nhiều nguồn lực để đầu tư, phát triển. Tuy nhiên, so với yêu cầu và vị trí, tiềm năng, lợi thế của mình, Đà Nẵng cần có những cách làm hay, thiết thực, đột phá hơn nữa, Bên cạnh đó, các Bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong khu vực cần tiếp tục có sự phối hợp, hỗ trợ để cùng Đà Nẵng bứt phá mạnh mẽ hơn, xứng đáng là một cực, một trung tâm lớn của khu vực và cả nước như kỳ vọng của Trung ương đã đặt ra với Đà Nẵng.

Trong các ý kiến này, đại diện các Bộ, ngành Trung ương cũng lưu ý TP Đà Nẵng quan tâm triển khai có hiệu quả Nghị quyết 136 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Đà Nẵng, trong đó chú trọng kiện toàn, xây dựng bộ máy hành chính gắn với đổi mới sáng tạo, khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế để phục vụ sự phát triển trong thời gian đến. 

Dip này, lãnh đạo UBND TP Đà Nẵng cũng thông tin với Thủ tướng Chính phủ và đoàn công tác kết quả việc thực hiện các chủ trương, kết luận, thông báo của Trung ương liên quan đến TP; tiến độ một số công trình, dự án lớn như dự án Cảng Liên Chiểu, tiểu Dự án giải phóng mặt bằng xây dựng đường cao tốc đoạn Hoà Liên - Tuý Loan thuộc tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông TP; tình hình triển khai nút giao đầu tuyến cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi…

Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới, báo cáo cho biết, TP Đà Nẵng tiếp tục chú trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên. Tập trung rà soát, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ TP. Chủ động triển khai công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng theo Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị. Tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc sinh hoạt Đảng và quy chế làm việc. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền trong xử lý công việc; đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng thành phố thông minh….

Đà Nẵng  thực hiện 3 tiên phong", đột phá, đi trước mở đường

Phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá cao, biểu dương và ghi nhận những nỗ lực, các kết quả khá toàn diện mà TP Đà Nẵng đã đạt được trong thời gian qua.

Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ ấn tượng với 6 nỗ lực, kết quả mà Đà Nẵng đã đạt được, trong đó ấn tượng đầu tiên là Đà Nẵng đã khắc phục hậu quả và tiếp tục phát triển sau đại dịch COVID-19; góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tháo gỡ nhiều vấn đề "điểm nghẽn" về cơ chế, chính sách; đẩy mạnh triển khai dịch vụ công trực tuyến và cải cách hành chính; triển khai nghiêm túc các kết luận của Thủ tướng Chính phủ, Tổ trưởng Tổ công tác của Chính phủ về nắm bắt tình hình, giải quyết các vấn đề nổi lên trên địa bàn; Đà Nẵng ngày càng khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của một cực tăng trưởng, trung tâm tăng trưởng của miền Trung và của cả nước, phát triển toàn diện, hài hòa, nhanh và bền vững; có cơ sở, có tiền đề và phát huy khí thế, truyền thống của địa phương, vận dụng sáng tạo, ứng dụng các thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để lãnh đạo, chỉ đạo, phát triển địa phương khá toàn diện.

Đại diện Ban Thường vụ Thành uỷ và lãnh đạo các ban, ngành, địa phương thuộc TP Đà Nẵng tham dự buổi làm việc (Ảnh: ĐT).

Tuy nhiên, Thủ tướng cũng bày tỏ "5 trăn trở" với Đà Nẵng, trong đó Thủ tướng cho rằng Đà Nẵng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh; cần phát triển toàn diện hơn cả về công nghiệp, dịch vụ, kinh tế nông nghiệp; còn nhiều vướng mắc, dự án tồn đọng kéo dài chưa được xử lý dứt điểm, gây lãng phí nguồn lực; phát triển nhanh nhưng phải bền vững, hài hòa hơn về kinh tế, xã hội, văn hóa, con người; phát triển hạ tầng chiến lược, kết nối các phương thức vận tải phải nỗ lực hơn nữa.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phân tích, chia sẻ một số bài học kinh nghiệm để Đà Nẵng phát triển nhanh, bền vững, hài hòa, toàn diện. Thủ tướng gợi ý Đà Nẵng phải thực hiện “3 tiên phong", đột phá, đi trước mở đường.

Thứ nhất là góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể là huy động nguồn lực ngoài nhà nước để phát triển, nhất là phát triển hạ tầng. Thứ hai là đổi mới sáng tạo, vận dụng linh hoạt, hiệu quả những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào điều kiện cụ thể của Đà Nẵng; tập trung phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức, kinh tế ban đêm. Thứ ba là đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí, thời gian tuân thủ, giảm phiền hà, sách nhiễu cho người dân và doanh nghiệp; xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Về nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu TP Đà Nẵng tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa Nghị quyết 26-NQ/TW của Bộ Chính trị về  phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết 43 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030; Nghị quyết 136 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. Đồng thời, Đà Nẵng phải nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí, tiềm năng, tầm quan trọng của TP, sứ mệnh đầu tàu, tiên phong, đột phá, đi trước mở đường; phát huy mạnh mẽ vai trò đầu tàu kinh tế của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, một cực tăng trưởng, phát triển của miền Trung và cả nước.

Cùng với đó, nỗ lực hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra năm 2024 và cả nhiệm kỳ, ưu tiên cho tăng trưởng, phấn đấu tăng trưởng GRDP năm 2024 từ 8-8,5%, bảo đảm các cân đối lớn, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Thủ tướng đề nghị TP Đà Nẵng tiếp tục tập trung xây dựng, triển khai các kế hoạch thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; triển khai Quy hoạch TP Đà Nẵng, xác định nội dung trọng tâm, tiến độ và nguồn lực thực hiện các chương trình, dự án trong Quy hoạch. Cùng với đó là quan tâm xây dựng Đề án phát triển khu thương mại tự do; huy động tối đa mọi nguồn lực cho phát triển, nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư, tăng thu, tiết kiệm chi, mở rộng cơ sở thu để đầu tư phát triển; xử lý các vấn đề tồn đọng, vướng mắc kéo dài để giải phóng nguồn lực.

Thủ tướng cũng lưu ý Đà Nẵng cần đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, xã hội số, công dân số; nghiên cứu xây dựng, áp dụng các cơ chế, chính sách thử nghiệm có kiểm soát, thúc đẩy đào tạo, nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.

 Quang cảnh buổi làm việc chiều 1/9/2024 (Ảnh: ĐT).

Thủ tướng đã lưu ý các quan điểm mà Đảng ta đã đặt ra để Đà Nẵng vận dụng, phát triển. Theo Thủ tướng, Đà Nẵng phải phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và bảo vệ môi trường; giải quyết tốt các vấn đề xã hội; đẩy mạnh hội nhập và đối ngoại, tăng cường bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên; thực hiện tốt Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Dịp này, Thủ tướng cũng trả lời một số kiến nghị của TP Đà Nẵng; đồng thời giao cho các Bộ, ngành phối hợp, hỗ trợ để cùng Đà Nẵng tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, giúp Đà Nẵng triển khai các chủ trương, chính sách đặc thù được Nghị quyết 136 của Quốc hội cũng như nhiều văn bản, chủ trương được Đảng, Quốc hội và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặt ra, qua đó giúp Đà Nẵng thực hiện thành công các cơ chế đặc thù, sớm bứt phá vươn lên/.

Chuyển đổi số - Động lực quan trọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

 Nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm có bài viết: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu nội dung bài viết:

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm 

1. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc phát triển lực lượng sản xuất và từng bước cải tạo, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Quá trình này diễn ra qua nhiều giai đoạn, phản ánh sự vận động và phát triển không ngừng của Cách mạng Việt Nam.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra trang sử mới cho sự phát triển của dân tộc trong điều kiện đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Xuất phát điểm từ nền nông nghiệp lạc hậu, trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm thực dân đô hộ, Đảng ta đã thực hiện chính sách “người cày có ruộng” nhằm trao ruộng đất về tay nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hướng tới việc cải tạo quan hệ sản xuất, tạo tiền đề xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. 

 Giai đoạn 1954 - 1975, cách mạng nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Ở miền Bắc, lấy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới dựa trên ba trụ cột: chế độ công hữu, quản lý kế hoạch hóa tập trung và phân phối theo lao động [1], đã đưa lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc.

Năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra chương mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IV của Đảng năm 1976 trên cơ sở đánh giá đặc điểm lớn của đất nước đó là, từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; đã đề ra đường lối: kiên định chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, quyết tâm tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: về quan hệ sản xuất, khoa học - kỹ thuật và tư tưởng văn hóa [2]. Trong đó, cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm.

Từ năm 1979 đến trước Đại hội VI của Đảng năm 1986, đất nước ta đã trải qua những khủng hoảng nghiêm trọng, một phần nguyên nhân do sự thiếu đồng bộ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất [3]. Từ nhận thức đúng đắn đó, Đại hội VI của Đảng đã quyết tâm tiến hành đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ bao cấp, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị là bước đột phá về đổi mới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp khi chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ và trao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân, phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất [4]. Chỉ sau một năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Việt Nam từ một quốc gia thiếu lương thực triền miên đã sản xuất được 21,5 triệu tấn lúa và lần đầu tiên xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo. Việc điều chỉnh quan hệ sản xuất phù hợp đã tạo động lực mới cho lực lượng sản xuất phát triển, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế.

2. Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 5,7-5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỷ USD vào năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 3.400 USD đến khoảng 4.650 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; các chính sách điều hành linh hoạt, hiệu quả; vị thế, uy tín quốc tế ngày càng nâng cao; tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, đời sống Nhân dân được cải thiện đáng kể.

Lực lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người vào năm 2025, với cơ cấu chuyển dịch tích cực; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm mạnh, còn 25,8%; chất lượng nguồn nhân lực không ngừng nâng cao với 70% lao động qua đào tạo. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao.

Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành, lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng số, đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới viễn thông và internet băng thông rộng phủ sóng rộng khắp cả nước, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức mới. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cấp thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển công cụ sản xuất trong nền kinh tế số tạo ra biến đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất, dẫn đến những mâu thuẫn mới với quan hệ sản xuất hiện hữu; vừa tạo tiền đề, động lực hình thành phương thức sản xuất mới trong tương lai, vừa đòi hỏi thay đổi căn bản cách thức tổ chức sản xuất và quản lý xã hội. Lực lượng sản xuất mới đang hình thành và phát triển mạnh mẽ; song chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, trong khi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực công nghệ cao, vẫn là thách thức lớn. Quan hệ sản xuất còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong đó, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu.

Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để.

Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả.

Dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta nhận thức rõ rằng, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải không ngừng được điều chỉnh để phù hợp với trình độ ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển tiến bộ của toàn bộ phương thức sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.

3. Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.

Sự thay đổi trong quan hệ sản xuất sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội. Quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa đảm bảo bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới. Muốn vậy, người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp và người dân phải nhận thức đầy đủ, thống nhất, có trách nhiệm và quyết tâm thực hiện quá trình chuyển đổi số; đồng thời cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời không ngừng đổi mới để bắt kịp xu thế phát triển của thời đại. Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.

Thứ hai, khơi thông và phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội, đẩy nhanh hiện đại hóa. Có cơ chế, chính sách phù hợp huy động nguồn lực to lớn trong Nhân dân, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế; nguồn lực từ đất đai, tài sản trong xã hội mà người dân đang tích luỹ, biến những tiềm năng này thành động lực, tư liệu sản xuất, để sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, thu hút mạnh mẽ nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát huy tối đa nguồn lực con người - nhân tố quyết định của sự nghiệp đổi mới. Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Trong quá trình cải cách, bám sát nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Việc tinh gọn bộ máy phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.

Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại./.

T.L
------------------------
[1] Văn kiện Đảng toàn tập, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9/1960.

[2] Văn kiện Đảng toàn tập, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, tháng 12/1976.

[3] Văn kiện Đảng toàn tập, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12/1986.

[4] Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm gia đình cố nhạc sỹ Văn Cao.

 Nhân kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, sáng 2/9, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tới thăm gia đình cố nhạc sỹ Văn Cao và cố họa sỹ Bùi Trang Chước, những cây đại thụ của nền âm nhạc và hội họa Việt Nam.

Cùng đi có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Nguyễn Duy Ngọc.

Trong không khí thân tình, ấm áp ngày Tết Độc lập, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã thắp hương tri ân cố nhạc sỹ Văn Cao và tặng quà bà Nghiêm Thúy Băng, vợ cố nhạc sỹ cùng các con cháu.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dâng hương tưởng niệm nhạc sĩ Văn Cao - tác giả Quốc ca Việt Nam. Ảnh: Lâm Khánh - TTXVN

Nói chuyện với gia đình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng lớn lao của cố nhạc sỹ Văn Cao cho cách mạng Việt Nam; khẳng định ngoài Quốc ca, nhạc sỹ Văn Cao còn có nhiều tác phẩm, bản nhạc khác có ý nghĩa quan trọng, mang tính hiệu triệu, kêu gọi và động viên tinh thần rất lớn, góp phần quan trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tặng phu nhân cố nhạc sỹ Văn Cao và gia đình bức chân dung Bác Hồ, thăm hỏi chân tình và chúc phu nhân cố nhạc sỹ luôn mạnh khỏe, là chỗ dựa cho con cháu và có thêm nhiều đóng góp cho đất nước.

Tri ân tác giả Quốc ca và Quốc huy Việt Nam (Nguồn: vtvgo.vn) 

Phu nhân cố nhạc sỹ Văn Cao bày tỏ xúc động và vinh dự được đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đến thăm đúng vào ngày Quốc khánh và cũng là thời điểm cách đây 80 năm bài “Tiến quân ca” ra đời. Bà Nghiêm Thúy Băng bày tỏ cảm ơn trước những tình cảm chân tình của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, đồng thời khẳng định sẽ tiếp tục động viên gia đình luôn thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tặng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh cho gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh: Lâm Khánh - TTXVN 

Nhạc sỹ Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, tại Hải Phòng trong một gia đình viên chức. Ông là tác giả của bài “Tiến quân ca” - Quốc ca của Việt Nam với những giai điệu thiêng liêng, hào hùng. Bài hát ra đời gắn với những ký ức Việt Nam thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám cùng những kỷ niệm khó quên của tác giả.

Tên tuổi của ông quen thuộc với đông đảo với công chúng qua rất nhiều tác phẩm đi cùng năm tháng, trong đó đặc biệt nổi tiếng là “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Trường ca sông Lô”, “Tiến về Hà Nội”… Nhạc sỹ Văn Cao là một trong những văn nghệ sĩ đầu tiên được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Những cống hiến của ông đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí Minh…

Tiếp đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tới thăm gia đình cố họa sỹ Bùi Trang Chước, tác giả của mẫu Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ân cần thăm hỏi cuộc sống của gia đình và cho biết nhân dịp Quốc khánh, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến thắp hương tưởng nhớ, tri ân những đóng góp to lớn của họa sỹ Bùi Trang Chước với đất nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định những tác phẩm của họa sỹ Bùi Trang Chước đều là những tác phẩm kỹ lưỡng, tỉ mỉ, chi tiết, có tính khái quát cao, có sự cuốn hút của tác phẩm. Ngoài vẽ biểu tượng Quốc huy, họa sỹ Bùi Trang Chước cũng là người thiết kế mẫu các huân chương và biểu trưng của nhiều ngành. Các tác phẩm đều có những nét đặc trưng, thể hiện sự tâm huyết và tài năng của họa sỹ.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh, họa sỹ Bùi Trang Chước là một trong những người nổi bật trong thế hệ có công với đất nước. Những công lao, đóng góp của họa sỹ, nhất là tác phẩm thiết kế Quốc huy không chỉ là biểu tượng của nhân dân Việt Nam mà còn được quốc tế đánh giá cao; có ý nghĩa tập hợp đoàn kết quốc gia bền vững, sức mạnh toàn dân tộc.

 
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chung vui ngày Quốc khánh 2/9 với gia đình cố họa sĩ Bùi Trang Chước. Ảnh: Lâm Khánh - TTXVN 

Đại diện gia đình, các con trai, con gái của họa sỹ bày tỏ lòng biết ơn sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đặc biệt là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, khẳng định gia đình tiếp tục học tập, noi theo tấm gương của họa sỹ thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Họa sỹ Bùi Trang Chước tên thật là Nguyễn Văn Chước, sinh ngày 21/5/1915 tại thôn Phú Xá, xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Ông tốt nghiệp loại Xuất sắc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1941. Ra trường, ông được mời về giảng dạy tại Trường Kiến trúc Đà Lạt. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, họa sỹ Bùi Trang Chước cùng gia đình chuyển ra Hà Nội và giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Hà Nội. Lúc toàn quốc kháng chiến, ông lên Việt Bắc theo cách mạng, giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Liên khu Việt Bắc.

Ngoài việc giảng dạy, họa sỹ Bùi Trang Chước dành nhiều thời gian sáng tác nghệ thuật và là một trong những họa sỹ tài năng của nền hội họa Việt Nam. Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật và ứng dụng, giàu ý nghĩa. Các phác thảo mẫu Quốc huy, mẫu tem thư, tiền giấy, tranh phong cảnh, ký họa nghệ thuật và rất nhiều các tác phẩm đồ họa khác giàu tính thẩm mỹ được ông vẽ công phu, tỉ mỉ. Các phác thảo mẫu Quốc huy của ông đã được công nhận Bảo vật quốc gia.

Đặc biệt, họa sỹ Bùi Trang Chước còn có nhiều tác phẩm giá trị về Chủ tịch Hồ Chí Minh đậm chất nhân văn và dấu ấn lịch sử, trong đó có các tác phẩm như: mẫu Huy hiệu “Intercosmos” và chân dung “Hồ Chủ tịch”; mẫu Huy hiệu Hồ Chí Minh, áp phích 100 năm Ngày sinh nhật Bác Hồ; khung tranh vẽ bằng bột màu Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm sinh nhật của Người năm 1970; mẫu Huy hiệu kỷ niệm 81 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mẫu tem kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Hồ Chủ tịch; mẫu tiền có vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh; mẫu vẽ thiết kế trang trí mặt tiền Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh...

Ghi nhận tài năng và công lao của họa sỹ Bùi Trang Chước, Đảng và Nhà nước đã trao tặng họa sỹ nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.../.

Làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam - Nhật Bản.

 Chiều ngày 3/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Thủ tướng Kishida Fumio một lần nữa chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio tin tưởng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục đóng góp quan trọng thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Việt Nam là đối tác quan trọng của Nhật Bản ở khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã gửi Điện chia buồn và cử Đặc phái viên là nguyên Thủ tướng Suga Yoshihide dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ Nhật Bản sang dự Lễ Quốc tang cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Thủ tướng Kishida Fumio đã gửi lời chúc mừng đến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, tái khẳng định Nhật Bản là đối tác quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước hội đàm trực tuyến cấp cao với Thủ tướng Nhật Bản
(Nguồn: vtvgo.vn)

Hai nhà lãnh đạo vui mừng về sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng và toàn diện trong quan hệ song phương, nhất là việc hai nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình ở châu Á và trên thế giới nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường tin cậy chính trị, hiểu biết lẫn nhau thông qua duy trì trao đổi cấp cao bằng nhiều hình thức linh hoạt, phát huy hiệu quả các cơ chế đối thoại, hợp tác song phương. Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác kinh tế là trụ cột chính của quan hệ hai nước, đi sâu kết nối hai nền kinh tế. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Nhật Bản sẽ tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của Việt Nam thông qua viện trợ ODA, tăng cường hợp tác với Việt Nam trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, hoan nghênh các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

 Hội đàm trực tuyến cấp cao  giữa Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio. (Ảnh:  Trí Dũng/TTXVN)

Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng - an ninh theo hướng thực chất, triển khai có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác đã ký kết; làm sâu sắc hơn kết nối nguồn nhân lực, giao lưu nhân dân, hợp tác giữa các địa phương. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị Chính phủ Nhật Bản tiếp tục quan tâm, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập, làm việc tại Nhật Bản.

Hai bên cũng trao đổi về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, nhất trí tăng cường hợp tác củng cố môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông./.