Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

 

 Những thành tựu về giáo dục Việt Nam - Điều không thể phủ nhận

Cùng với sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, những năm qua, giáo dục Việt Nam có những chuyển biến tích cực, phát triển về nhiều mặt và đạt được những thành tựu to lớn. Điều này không chỉ là một trong những động lực thúc đẩy đất nước đi lên, mà góp phần làm cho diện mạo đời sống xã hội ngày càng khởi sắc. Tuy nhiên, thời gian gần đây, lợi dụng một số vụ việc đơn lẻ xảy ra trong ngành giáo dục, Mạc Văn Trang lại có cái nhìn thiếu khách quan, toàn diện, thậm chí phủ nhận những thành tựu của nền giáo dục Việt Nam, khi cho rằng “nền giáo dục Việt Nam đang gặp khủng hoảng nghiêm trọng, đang gây hoang mang cho giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và dư luận xã hội”. Song sự thật đã hoàn toàn bác bỏ luận điệu sai trái này của Mạc Văn Trang.

Những năm qua, cùng với những thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, giáo dục Việt Nam đã tích cực đổi mới và đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chất lượng giáo dục, đào tạo từng bước được nâng lên, hệ thống giáo dục quốc dân tiếp tục được hoàn thiện, mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo từng bước được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học.

Chương trình giáo dục phổ thông cụ thể hóa mục tiêu giáo dục phổ thông, giúp học sinh phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.

Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam, giáo dục luôn được xác định là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai, bước đầu có hiệu quả. Mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng về quy mô. Giáo dục và đào tạo ở những vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng hơn. Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới được ban hành và đang tích cực triển khai; phương pháp giảng dạy và học tập có bước đổi mới. Giáo dục mầm non đạt chuẩn phổ cập cho trẻ em 5 tuổi và giáo dục phổ thông có chuyển biến tốt, được thế giới công nhận. Công tác thi, kiểm tra và đánh giá kết quả thực chất, hiệu quả hơn. Quản lý, quản trị đại học có bước đổi mới, chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên”.

Chứng minh cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam, tháng 7/2023, tờ Thời báo kinh tế – The Economist của Anh có bài viết đánh giá cao hệ thống giáo dục Việt Nam, đề cao giá trị của giáo dục trong nước và đáng giá cao năng lực giáo viên. Bài báo chỉ ra rằng chất lượng giáo dục của Việt Nam ngày càng tốt đẹp hơn, “Học sinh Việt Nam được học một trong những hệ thống giáo dục tốt trên thế giới” và dẫn chứng các thành tích xuất sắc của học sinh Việt Nam trong các cuộc thi quốc tế.

Nhờ những thành tựu trong giáo dục, Việt Nam trở thành điểm sáng trong khu vực Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương về kết quả, thành tích các cuộc thi Olympic quốc tế dành cho học sinh. Năm 2022, 38 lượt học sinh dự thi Olympic quốc tế đều giành huy chương, đưa Việt Nam năm thứ 2 liên tiếp lọt vào nhóm 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có thành tích tốt nhất tại các kỳ thi này. Năm 2023, cả 6 thành viên đội tuyển quốc gia Việt Nam dự thi Olympic Toán học quốc tế tại Nhật Bản từ ngày 2 đến 12/7 đã mang về cho Tổ quốc 6 tấm huy chương, gồm hai huy chương vàng, hai huy chương bạc và hai huy chương đồng. Với thành tích này, Việt Nam xếp thứ 6 toàn đoàn trên tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ có đội tuyển tham dự kỳ thi Olympic Toán quốc tế năm nay. Đội tuyển quốc gia Việt Nam dự thi Olympic Hóa học Quốc tế (IChO) năm 2023 gồm 4 học sinh dự thi, kết quả, 4/4 học sinh đoạt huy chương, gồm 3 huy chương Vàng và 1 huy chương Bạc, trong đó có 2 học sinh nằm trong tốp 10 điểm cao nhất…

Như vậy, có thể khẳng định rằng, cái nhìn của Mạc Văn Trang là hoàn toàn phiến diện và sai sự thật về nền giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng ở Việt Nam. Do đó, mọi người cần đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện rõ bản chất xấu xa của Mạc Văn Trang và các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái của chúng./.

BÔI NHỌ CHÍNH SÁCH ĐẶC XÃ LÀ THỦ ĐOẠN ĐÊ HÈN

Việc các đối tượng xấu bôi nhọ công tác đặc xá với chiêu bài “tù nhân lương tâm”, “tù nhân

chính trị” là một thủ đoạn hết sức đê hèn. Phải khẳng định rõ, ở Việt Nam không tồn tại cái gọi

là “tù nhân lương tâm”. Việc kết án đối với bất kỳ ai đều trải qua một quá trình tố tụng hình sự

nghiêm minh, theo đúng quy định của pháp luật. Thực chất, những kẻ được giới “dân chủ” xếp

vào nhóm “tù nhân lương tâm” hầu hết là các đối tượng bị kết án thuộc nhóm tội phạm xâm

phạm an ninh quốc gia. Đáng chú ý, ngay cả trong quá trình chấp hành án phạt tù, các đối tượng

này vẫn không hề hối cải, tiếp tục ngoan cố, không nhìn nhận được lỗi lầm của bản thân, không

từ bỏ ý đồ chống phá đất nước, liên tục thực hiện các hành vi chống đối, bất hợp tác với cán bộ

quản giáo. Thậm chí, có kẻ còn giở trò tạo cớ cho các thế lực bên ngoài thực hiện hành vi chống

phá, gây sức ép, tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước. Theo quy định tại Hiến

pháp thì “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”. Do

đó, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều không bao giờ chấp nhận những kẻ

phá hoại đất nước. 

ÂM MƯU CHỐNG PHÁ CHÍNH SÁCH ĐẶC XÁ CỦA VIỆT NAM

 Đặc xá là chính sách khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước

thời hạn đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ

lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Với chính sách đặc xá, Nhà nước động viên,

khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo để được

hưởng sự khoan hồng. Tuy nhiên, với mục đích chống phá, các thế lực thù địch, phản động, các

đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã tung ra nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc công tác đặc

xá.

Theo Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2024, Nhà nước ta sẽ tiến hành đặc xá tha tù

trước thời hạn cho các phạm nhân có đủ điều kiện vào dịp kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2024) và 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô

(10/10/1954 – 10/10/2024). Đến nay, công tác đặc xá đang được các cơ quan chức năng tiến

hành khẩn trương, nghiêm túc và chặt chẽ theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, với mục

đích chống phá, các thế lực thù địch đã tung ra vô số thông tin sai trái, độc hại xung quanh công

tác này.

Lợi dụng quá trình xét đặc xá, các đối tượng xấu đã lèo lái dư luận, móc nối với hoạt động phạm

tội của các đối tượng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để công kích Đảng, Nhà nước ta.

Chúng rêu rao rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam phân biệt đối xử với các “tù nhân lương tâm”

trong đặc xá”; “cứ nộp tiền sẽ được đặc xá”; “công lý không giành cho dân nghèo”; “đặc xá chỉ

là trò mị dân”; “Nhà nước diễn kịch trong xét đặc xá cho phạm nhân”… Từ một chính sách nhân

văn, nhân đạo, qua lăng kính nhìn nhận của các đối tượng khoác áo dân chủ, nhân quyền, công

tác đặc xá đã bị bóp méo, bôi lem, tạo ra gam màu tiêu cực, bôi xấu Đảng, Nhà nước, chế độ.

Trang facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân đưa ra nhiều thông tin tiêu cực, cho rằng đặc xá

chỉ là “diễn kịch”, “trò hề”, thậm chí xuyên tạc Nhà nước Việt Nam “cưỡng bức đặc xá”. Các đối

tượng dựa vào những thông tin sai trái trên mạng xã hội rồi mặc nhiên quy kết, Nhà nước Việt

Nam áp dụng hình thức “cưỡng bức đặc xá”! Các đối tượng quy kết những phạm nhân phạm tội

xâm phạm an ninh quốc gia, bị kết án tù về các tội như “tội thành lập hoặc tham gia tổ chức

nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, “tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt

Nam”, “tội lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp

pháp của  tổ chức, cá nhân”… để gán ghép thành “tù nhân chính trị”, “tù nhân lương tâm”, từ đó

đưa ra yêu sách đòi Nhà nước phải đặc xá, tha tù “vô điều kiện” cho các phạm nhân này.

 

Cảnh giác với thủ đoạn chống phá về truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 

Những ngày qua, trên “Vietnamthoibao” đã đăng tải bài viết “Hám học hay hám danh?” của Nguyễn Văn Tuấn. Trong bài viết, đã “nghĩ lại” theo kiểu “thầy bói xem voi” để minh chứng cho lời của “một giáo sư khả kính ở Hà Nội nhận xét rằng người Việt hám danh, chớ không hẳn hám học” là đúng. Nghĩa là Tuấn đã dựa vào “góc nhìn của xã hội phương Tây” và hiện tượng “háo danh” của không ít người để bài bác truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Thực tế là:

Học tập là cách thức con người tích lũy kinh nghiệm và làm giàu tri thức cho mình.

Không một nước nào, không một dân tộc nào tồn tại và phát triển mà không coi trọng việc học tập. Học tập chính là con đường ngắn nhất để làm giàu, lưu giữ, truyền đạt kiến thức, tích lũy kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể nói, không một bước phát triển nào của văn minh nhân loại mà không gắn với việc học. Học tập góp phần trang bị hệ thống kiến thức và kỹ năng cần thiết cho mỗi cá nhân trong lao động, sinh tồn và phát triển. Bằng vốn kiến thức, kinh nghiệm thu nhận được từ thế hệ trước, con người nâng cao trình độ, tăng hiệu quả lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên, xã hội và tiếp tục bổ sung kinh nghiệm, phát triển tri thức. Học tập mang lại cho cá nhân trình độ học vấn, nâng cao kỹ năng lao động, hòa nhập vào cộng đồng, thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên và xã hội; đồng thời rèn luyện đạo đức và nhân cách con người. Như UNESCO đã đề xướng “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.

Hiếu học là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam

Hiếu học là thói quen ham thích, coi trọng việc học hành và được hình thành lâu dài, truyền từ đời này sang đời khác trở thành truyền thống của dân tộc Việt Nam. Người “hiếu học” là biểu hiện của sự ham học hỏi, ham hiểu biết, muốn vươn tới, muốn chinh phục những tri thức của nhân loại. Hiếu học thể hiện một tinh thần tự nguyện, một sự nỗ lực cố gắng không ngừng của bản thân, không bao giờ tự bằng lòng với những cái đã biết, những cái đã học được. Người hiếu học có thể học ở mọi nơi, mọi lúc, học trong sách vở, học trong cuộc sống. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông minh và có truyền thống hiếu học. Người Việt Nam luôn coi trọng việc học, lấy việc học làm điều căn bản để thực hiện đạo lý làm người.

Nổi bật lên những nhân vật có tinh thần hiếu học, đó là Thầy Chu Văn An (1292 – 1370); Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam – Nguyễn Hiền (1234 – 1256); Nhà sử học  Lê Văn Hưu (1230 – 1322), Nhà chính trị – nhà quân sự – nhà văn hóa Nguyễn Trãi (1380 – 1442); Nhà toán học Lương Thế Vinh (1441 – 1497); Nhà văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585); Nhà bác học Lê Qúy Đôn (1726 – 1784); Thầy giáo Võ Trường Toản (1709 – 1792); Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh; Thầy giáo – Nhà khoa học Tạ Quang Bửu (1910 – 1986); Thầy Nguyễn Ngọc Ký (1947 – 2022), v,v… là những tấm gương hiếu học, tự học, đồng thời là những “nhà giáo, nhà văn hóa mẫu mực đức trọng, tài cao”, mãi sáng ngời cho mọi thế hệ học sinh noi theo.

Truyền thống hiếu học của dân tộc đã thấm đẫm trong nhận thức của người Việt Nam, tiếp tục được kết tinh và tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh. Ngay sau khi giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 03 – 9 – 1945, khi đề cập “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra sáu “vấn đề cấp bách hơn cả” trong đó có “vấn đề thứ hai là nạn dốt”. Nạn dốt làm cho hơn 90% đồng bào Việt Nam mù chữ; đó là sản phẩm của một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân đã dùng để cai trị chúng ta. Đó là một trong ba thứ giặc cần phải diệt. Bởi: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Hạnh phúc đầu tiên khi đất nước có nền độc lập là đồng bào được đi học, được thoát khỏi sự tăm tối của cuộc đời để đến với ánh sáng của thế giới tri thức, văn minh. Ngày 04 – 10 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục ra lời kêu gọi “chống nạn thất học” để khuyến khích toàn dân học tập. Chỉ trong vòng một năm đã có trên 2,5 triệu người biết chữ, đồng thời các hủ tục cũng dần được xóa bỏ. Hạnh phúc của thành quả đầu tiên ấy đã góp phần quan trọng xây dựng nền móng hệ thống giáo dục phổ thông, chuyên nghiệp, đại học, văn hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước ngày nay.

Trong 94 năm lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn quan tập đặc biệt đến công tác giáo dục, đào tạo. Coi đây là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước và luôn bảo đảm điều kiện thuận lợi để mỗi người dân có cơ hội được thụ hưởng công bằng thành quả của nền giáo dục. Học tập không chỉ là nghĩa vụ thiêng liêng mà còn là quyền lợi cao cả của mọi công dân. Học tập không chỉ đem lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân, mà còn là hạnh phúc cho cả một dân tộc và toàn nhân loại.

Những nhận định xuyên tạc của Nguyễn Văn Tuấn không lừa gạt được người dân Việt Nam, mà ngược lại chỉ làm cho dân ta thấy rõ bộ mặt thật của những kẻ phản động, lừa dân, hại nước như Nguyễn Văn Tuấn.

NHỮNG CON SỐ VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

 Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng là luôn thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng

chính sách, từng bước phát triển. Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện được nhiều chính

sách xã hội như chính sách an sinh xã hội, chính sách xóa đói, giảm nghèo... để mọi người dân

đều được thụ hưởng, đó chính là thực hiện công bằng xã hội cho mọi người dân. Thực tế cho

thấy, công tác đảm bảo an sinh xã hội tương đối toàn diện, hiệu quả, điển hình là chính sách xóa

đói, giảm nghèo đạt thành tựu nổi bật. Tỉ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội tăng dần trong

các năm qua, từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010 và 4,67% GDP năm 2011 và

khoảng 6,7% GDP năm 2021. Chỉ số thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh (năm 2020, đạt

3.512 USD), tăng hơn 31,5 lần trong vòng hơn ba thập niên. Tuổi thọ trung bình cũng tăng

nhanh, từ 70,5 (năm 1990) lên 75,4 (năm 2019), cao nhất trong các quốc gia nằm trong khu vực

có mức thu nhập tương đương.

Công tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội là một nội dung cơ bản, quan điểm

nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta, được cụ thể bằng chính sách, pháp luật và chương

trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước qua các thời kỳ. Từ một trong những quốc gia

nghèo, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD

những năm 90 thế kỷ XX, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt 3.900

USD. Năm 2023 thu nhập bình quân đầu người mỗi năm là 4.284 USD, tăng 6,2% so với năm

2022. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo, từ 60% dân số

nghèo đói (năm 1990) đến năm 2022, tỷ lệ nghèo chỉ còn 2,23%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo đa

chiều giảm khoảng 1,2%. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%; tỷ lệ hộ nghèo ở các

huyện nghèo giảm từ 4 - 5%.

Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chăm lo cho người lao động, bằng chính sách hỗ trợ việc làm, hỗ

trợ người thất nghiệp. Trong đại dịch COVID-19, các đối tượng yếu thế luôn được Nhà nước,

Chính phủ, cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm, chú trọng, hơn 38.000 tỷ đồng từ quỹ bảo

hiểm thất nghiệp đã được chi để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động. Công tác khám, chữa

bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho mọi tầng lớp nhân dân cũng được chú trọng, tỷ lệ bao phủ BHYT tăng

từ 60,9% dân số (2010) lên 90,7% dân số (2020), cơ bản bao phủ toàn dân. Người nghèo, trẻ em

dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp BHYT miễn phí. Chỉ số phát triển con người Việt Nam

(HDI) phát triển mạnh mẽ. Trong đó, năm 2017: 0,687; năm 2018: 0,700; năm 2019: 0,703 và

năm 2020: 0,702. Việt Nam từ nhóm trung bình lên nhóm cao.

Các đối tượng yếu thế trong xã hội luôn được Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội quan tâm.

Trong năm 2023, 100% số đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hằng tháng; 100% số

người dân bị thiệt hại do thiên tai, thiếu đói được trợ giúp kịp thời, không để ai bị đói; 99% số hộ

người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú,

99% số xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ; hơn 90% số người khuyết tật khó khăn

được trợ giúp xã hội, chăm sóc, phục hồi chức năng; hơn 90% số người cao tuổi khó khăn được

trợ giúp xã hội, phụng dưỡng, chăm sóc. Cơ cấu mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội của cả nước

ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ trợ giúp xã hội của đối tượng cần trợ giúp

xã hội.

Như vậy, hệ thống chính sách xã hội được thực hiện về cơ bản đã bảo đảm được tính công bằng,

bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, đời sống

vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Thực tiễn luôn có các tồn tại, khiếm khuyết và sự bất bình đẳng, bất công vẫn xảy ra trong đời

sống, ở một số lĩnh vực và đơn vị, địa phương. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng, bất công đó là do

một số cá nhân, cấp lãnh đạo thực hiện chưa đúng hoặc vì các động cơ khác nhau chứ không

phải nguyên do chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước. Điều quan trọng là quan điểm nhất

quán của Đảng, Nhà nước ta trong kiểm tra, xử lý, chấn chỉnh những cá nhân, tổ chức để xảy ra

các hiện tượng tiêu cực nhằm thực hiện công bằng xã hội được đầy đủ, đúng nghĩa.

CÔNG BẰNG XÃ HỘI LÀ MỤC TIÊU XUYÊN SUỐT, NHẤT QUÁN CỦA VIỆT NAM

 Ở nước ta, thực chất của bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa phát

triển đất nước với thực hiện chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh

phúc cho nhân dân; phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của con người, trên tinh thần tất cả

vì con người. Trong đó, phát triển kinh tế thị trường dù theo mô hình CNXH hay chủ nghĩa tư

bản đều tồn tại khuyết tật bẩm sinh là cạnh tranh, bất bình đẳng xã hội. Vì vậy, điều quan trọng

là các quốc gia làm thế nào khắc phục hiệu quả nhất những tồn tại của khuyết tật bẩm sinh vốn

có của nền kinh tế thị trường.

Xuyên suốt sự nghiệp cách mạng, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện

đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng, Nhà nước Việt Nam đều

chủ trương, nhất quán thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Đại hội X của Đảng xác định: “Thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng

kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu

phát triển con người”. Đến Đại hội lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý

tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữ ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi

mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát

triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà

nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công

bằng xã hội, bảo vệ môi trường...”. Đồng thời, “Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi

người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận

bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Tiếp

tục hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển”.

Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất

của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn

trọng và giúp nhau cùng phát triển”.

CNXH ở nước ta hướng tới mục tiêu công bằng xã hội khác hoàn toàn về chất so với các nước tư

bản chủ nghĩa. Công bằng xã hội ở nước ta trước hết nhân dân là chủ, là chủ thể nắm giữ tư liệu

sản xuất, không giống như các nước tư bản “một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số,

nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức

và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội... Sự rêu rao bình

đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã

dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất” như cố Tổng Bí thư

Nguyễn Phú Trọng từng chỉ ra.

Như vậy, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền chặt

chẽ với tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò là điều kiện, tiền đề thiết

yếu để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, công bằng xã hội chính là động lực cho sự phát

triển kinh tế. Công bằng xã hội không chỉ bảo đảm sự phân phối thu nhập hợp lý mà còn bảo

đảm sự công bằng trong việc tiếp cận cơ hội và quyền lợi cho mọi tầng lớp nhân dân.

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ VIỆC THWUCJ HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

 Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã phát tán nhiều thông tin xấu độc xuyên tạc vấn

đề công bằng xã hội ở Việt Nam. Lợi dụng một bộ phận người dân gặp khó khăn trong đời sống

xã hội như nhà ở, việc làm, lao động, thu nhập…, các đối tượng thổi phồng để bôi nhọ thể chế.

Họ vu cáo rằng, chế độ độc đảng ở Việt Nam gây ra tồn tại bất công xã hội, người dân bị phân

biệt, đối xử; chính quyền không quan tâm đến các đối tượng yếu thế; công bằng xã hội chỉ dành

cho quan chức chứ không thuộc về “dân đen”…

Họ công kích việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội chỉ là khẩu hiệu suông, không có trong

hiện thực; đồng thời ca ngợi thể chế chính trị ở phương Tây, cho rằng chỉ có chủ nghĩa tư bản

mới có công bằng xã hội, mới là đích đến còn CNXH “chỉ là hư ảo, lừa mị dân”. Các đối tượng

suy diễn, ngụy biện xảo trá rằng, do chế độ “độc tài”, “toàn trị” nên xã hội không có quyền bình

đẳng, người dân không có quyền đòi hỏi, chỉ biết chấp nhận “an phận”. Từ đó, các đối tượng

kích động trên mạng xã hội, kêu gọi người dân muốn có cơm no, áo ấm, muốn có công bằng, dân

chủ, văn minh thì phải đấu tranh để thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phải “xoá bỏ

độc tài”... Trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm nay, các luận điệu

công kích, xuyên tạc trên lại tái diễn với nhiều phương thức truyền bá khác nhau.

Không khó để nhận ra âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm kích động tâm

lý hoài nghi, lung lay niềm tin về con đường đi lên CNXH, nhất là đối với giới trẻ. Từ đó, họ

hướng tới phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc; làm suy giảm ý chí đồng lòng, quyết tâm xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, hướng tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ XHCN ở nước ta.

NHỮNG THÀNH TỰU KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ, UY TÍN CỦA VIỆT NAM

 79 năm đã trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, Việt Nam đã đạt

được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm

trước đổi mới, như đánh giá trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có

được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Về kinh tế, Việt Nam từ một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nông nghiệp lạc hậu nghèo

nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, đi liền với đó là sự bao vây cấm vận về mọi mặt, GDP chỉ 26,3

tỷ USD trong những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới

1986 đến nay, trong gần 40 năm qua, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 430 tỷ USD năm 2023,

GDP bình quân đầu người đạt mức 4.300 USD/năm, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới,

tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9%.

Từ một nền kinh tế đóng cửa khép kín, Việt Nam thành một nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn

cầu sâu rộng khi trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu, tổng kim ngạch xuất nhập

khẩu năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, thu hút lượng đầu tư lớn từ nước ngoài đạt 23 tỷ USD, đây

là mức đầu tư cao nhất của Việt Nam từ trước đến nay, ngay cả khi các thị trường lớn bị thu hẹp

và chuỗi cung ứng toàn cầu còn nhiều đứt gãy. Nếu xét về quy mô, nền kinh tế của nước ta đứng

thứ 5 trong khu vực ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới. Việt Nam đã

trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu. Đến nay, có 72 quốc gia đã công nhận Việt

Nam là nền kinh tế thị trường.

Về đối ngoại, Việt Nam từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay nước ta đã mở rộng, làm sâu

sắc thêm quan hệ ngoại giao với 193 nước, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt. Đến nay, Việt

Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 7 nước, cùng với đó là 12 nước đối tác chiến

lược và 12 nước đối tác toàn diện. Đặc biệt, nước ta hiện đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược

toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên

hợp quốc, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đảng ta đã

có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng Cộng sản, 63 đảng

cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính.

Trong những năm gần đây, hầu hết nguyên thủ, lãnh đạo các nước lớn và các tổ chức quốc tế

quan trọng, trong đó có Liên hợp quốc đều đến thăm, làm việc và có ấn tượng tốt về đất nước,

con người Việt Nam; đồng thời lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chuyến thăm thành công

đến các nước, đối tác trên khắp các châu lục.

Về đảm bảo quyền con người, đến nay Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước của Liên hợp

quốc về quyền con người như: Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc;

Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước quốc tế về các

quyền kinh tế, văn hóa và xã hội; Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị; Công ước về

quyền trẻ em; Công ước về quyền của người khuyết tật…

Kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV (nhiệm kỳ 2021-2026), số lượng nữ đại biểu Quốc hội là

151 người, chiếm 30,26% (đạt tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay); tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham

gia Quốc hội khóa XV là 89 người, chiếm 17,84%. Từ năm học 2017-2018, đã có 22 tỉnh, thành

phố tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số (715 trường); 8 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được

đưa thành môn học...

Về an sinh xã hội, công tác xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, đời sống của người dân ngày

càng được cải thiện. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ

lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc,

gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức

93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm

sóc và phục hồi chức năng…

Về nhà ở, đến năm 2020, đã hỗ trợ chỗ ở cho 648.000 hộ nghèo nông thôn, 323.000 căn nhà cho

người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Đến năm 2021, 90% người dân nông thôn được sử

dụng nước hợp vệ sinh. Bằng những sự thay đổi trên đã góp phần đưa tuổi thọ trung bình của

Việt Nam trong 30 năm qua tăng 9 tuổi, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023; chỉ số

phát triển con người (HDI) của Việt Nam được cải thiện rõ rệt, cao hơn nhiều so với các nước có

cùng mức thu nhập; chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 lên vị trí 54/143

quốc gia và vùng lãnh thổ.

Tính đến đầu năm năm 2024, Việt Nam ghi nhận có khoảng 78,44 triệu người dùng Internet; số

lượng người dùng mạng xã hội là khoảng 72,70 triệu người, chiếm 73,3% dân số. Đặc biệt, số

lượng kết nối di động tại Việt Nam đạt tới 168,5 triệu, tương đương 169,8% dân số. Việt Nam là

quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35

quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.

Tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh, trật tự giữ vững là một trong những điểm sáng và là

thế mạnh của Việt Nam trong một thế giới đầy biến động hiện nay. Việt Nam được xếp hạng

tăng 4 bậc, lên vị trí 41/163 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng chỉ số hòa bình toàn

cầu năm 2023 về đánh giá mức độ yên bình quốc gia do Viện Kinh tế và Hòa bình (IEP,

Australia) công bố. 

XUYÊN TẠC, BÓP MÉO VỊ THẾ CỦA VIỆT NAM

Đứng ngoài niềm vui chung của cả dân tộc trong ngày Quốc khánh 2/9, thì bằng nhiều thủ đoạn,

phương thức khác nhau, các thế lực thù địch, các tổ chức, đối tượng phản động lưu vong, phần tử

cơ hội chính trị lại ra sức xuyên tạc, bóp méo hòng phủ nhận những thành quả to lớn đó. Họ tìm

cách chỉ trích, miệt thị với những luận điệu như Việt Nam vẫn là một quốc gia nghèo nàn, kinh tế

lạc hậu, đời sống nhân dân khó khăn, thiếu thốn, chính trị “o ép dân”, nhân quyền “bị đàn áp”…

Từ đó, các đối tượng trên đưa ra luận điệu rằng, Việt Nam cần thay đổi thể chế theo hướng thực

hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đi theo con đường TBCN thì mới phát triển giàu có,

dân chủ, nhân quyền mới đảm bảo.

Có thế thấy, những luận điệu trên luôn được các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu

vong, phần tử cơ hội chính trị sử dụng trên không gian mạng, nhất là các trang như Tiếng Dân,

Việt Tân, Việt Nam thời báo, Đài Á Châu tự do (RFA), VOA Tiếng Việt... Họ cho rằng, đi theo

con đường XHCN là kéo đất nước vào cảnh nghèo khổ vì “chủ nghĩa Mác - Lênin dị ứng với sự

giàu có”; rằng Việt Nam “không chịu phát triển”, “không thể phát triển” bởi Việt Nam “lạc nhịp”

với thế giới, “sa lầy trong tư duy” về chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH. Họ ca ngợi CNTB là

giàu sang, phú quý, là dân chủ, tự do, từ đó “khuyên” rằng, các thế hệ đi trước đã sai lầm khi lựa

chọn đi theo CNXH thì ngày nay cần phải “mạnh dạn từ bỏ, chấm dứt”…

Một số bài viết tiếp tục “lý luận” rằng, việc lựa chọn con đường bỏ qua chế độ TBCN để tiến

thẳng lên CNXH ở Việt Nam là sai lầm, đẻ non, không đi theo quy luật; phê phán công cuộc đổi

mới hiện nay là nửa vời, kinh tế thị trường định hướng XHCN là “đầu Ngô, mình Sở”.

Một số luận điệu cho rằng, con đường mà Việt Nam đang đi thì định hướng XHCN chỉ là hình

thức, còn bản chất đã ngả theo TBCN!

Họ triệt để lợi dụng những sự kiện chính trị, đối ngoại lớn của Đảng và Nhà nước, những ngày lễ

kỷ niệm trọng đại của đất nước, các vấn đề liên quan đến dân tộc, nhân quyền, tôn giáo, công tác


phòng, chống tham nhũng hay những vấn đề tiêu cực trong đời sống xã hội để xuyên tạc, phủ

nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; bôi nhọ, nói xấu, hạ thấp uy tín cá nhân của

các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước; phủ nhận những thành quả cách mạng mà Việt Nam

đã đạt được. Với mưu đồ phá hoại, từ lâu các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu

trò chống phá, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành quả cách mạng của Đảng,

Nhà nước ta. Họ kích bác đường lối đổi mới ở Việt Nam là “mù mờ”, “thiên đường mù”, “không

tưởng”…, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc xây dựng và phát

triển đất nước.

Trong dịp kỷ niệm Quốc khánh năm nay, các đối tượng lại cho rằng, sau 79 năm Cách mạng

Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, gần 50 năm thống nhất đất nước, 38 năm đổi mới, Việt Nam vẫn

là nước tụt hậu, nhân dân đói nghèo, tham nhũng tràn lan, đạo đức suy đồi, xã hội vô kỷ cương,

nhân quyền bị bóp nghẹt… Từ đó, các đối tượng hướng chỉ trích vào Đảng Cộng sản Việt Nam,

“khuyên” người dân cần phải đấu tranh để thay đổi đường lối xây dựng đất nước thì đất nước

mới phát triển, người dân mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân chủ.

TINH THẦN TƯƠNG THÂN TƯƠNG ÁI CỦA NGƯỜI VIỆT

 Trong bão tố, người Việt không chỉ cùng nhau vượt qua những thử thách mà còn thể hiện rõ nét

tinh thần tương thân tương ái. Những căn nhà trống mở cửa đón người trú bão, những dòng xe tải

chậm rãi che chắn cho xe máy hay những người lặng lẽ chia sẻ đồ ăn, thức uống - tất cả đã tạo

nên một bức tranh đẹp về lòng nhân ái giữa thiên tai. Hình ảnh lực lượng Công an, Quân đội và

các lực lượng khác cùng dân chống bão; nhiều người dân hỗ trợ nhau vượt qua thiên tai, khắc

phục thiên tai trong những ngày qua thêm lần nữa cho thấy sự quý giá của tình quân dân, nghĩa

đồng bào.

Có thể thấy trong bão lũ, những nghĩa cử cao đẹp được trao đi để cùng nhau vượt qua gian khó.

Đó là tinh thần đoàn kết, lá lành đùm lá rách của người Việt Nam. Những nghĩa cử đẹp trong

cộng đồng hướng về nơi chịu thiệt hại về thiên tai đã cho thấy niềm tin về lòng tốt, sự sẻ chia, là

trách nhiệm và ý thức công dân của con người trong xã hội vẫn luôn tỏa sáng và hơn thế, chính

sự ấm áp, những nghĩa cử cao đẹp đã đưa con người xích lại gần nhau hơn, cho thấy một Việt

Nam đoàn kết, sáng ngời tấm lòng sẻ chia.

Các giá trị đó đã làm nên cốt cách và bản sắc văn hóa, là nền móng, sức mạnh nội sinh để dân

tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Ngày nay, đoàn kết, tương thân, tương ái vẫn là

yếu tố quan trọng giúp Việt Nam tiếp tục phát triển vững mạnh, đạt được nhiều thành tựu mới.

Hình ảnh những cán bộ, chiến sĩ Công an, Quân đội cùng các lực lượng dầm mình trong mưa gió

để cứu nạn, cứu hộ, trắng đêm đảm bảo an toàn cho tính mạng và tài sản của nhân dân là hình

ảnh thân thuộc, ở mỗi bản làng, khu phố trong thiên tai, bão lụt. Đó là minh chứng sinh động của

tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, phủ nhận mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực

thù địch, phản động.

 

THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM – ĐIỀU KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã và đang phát triển toàn diện, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, với các thế lực thù địch, phần tử phản động thì chẳng bao giờ chúng mong muốn những điều tốt đẹp đó và ngày càng đẩy mạnh các hoạt động xuyên tạc, chống phá thành tựu phát triển kinh tế ở Việt Nam. Mới đây, trên trang Vietnamthoibao.org trong bài “Bên thắng cuộc đã đánh mất cái gì?”, Phạm Đình Bá đã đưa ra những lập luận thiếu cơ sở lý luận, thực tiễn, Y cho rằng: “Nền kinh tế Việt Nam thường đóng vai trò là sự mở rộng của chuỗi kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc hơn là phát triển năng lực độc lập”. Thực chất nhằm xuyên tạc, phủ nhận, hướng lái người đọc hiểu sai lệch về đường lối phát triển kinh tế ở Việt Nam.

1.      Đại hội lần thứ III (năm 1960), Đảng ta xác định công nghiệp hóa là vấn đề có tính quy luật của quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn; khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, năm 1986 đến nay, Việt Nam xác định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam, trong đó, gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phù hợp với thực tiễn nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất thấp, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai. Theo đó, các nhân tố xã hội chủ nghĩa đang được xác lập, do đó Việt Nam nhất thiết phải có nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Điều đó hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tiến hành công cuộc đổi mới; phát huy những lợi thế của toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như: Không gian kinh tế mới, công nghệ mới, sản phẩm mới; thế giới được mở rộng hơn gắn liền với sự liên kết chặt chẽ giữa các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Vì vậy, Việt Nam xác định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời huy động có hiệu quả các nguồn lực trong nước, phát huy được các nguồn lực bên ngoài, nhất là các dòng vốn đang duy chuyển từ các nước đến Việt Nam, bảo đảm cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

2.      Thực tế cho thấy, qua gần 40 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Trên lĩnh vực kinh tế, liên tiếp từ 2016 đến 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước có kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ 1986 đến 2020: Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần. Quy mô GDP nước ta năm 2020 tăng 1,4 lần so với năm 2015, đạt khoảng 343,2 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD, gấp 1,3 lần năm 2015; năm 2022 đạt 9.513 tỷ đồng (tương đương 409 tỷ USD), thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực cũng như trên thế giới. Quy mô sản xuất của ngành công nghiệp ở nước ta liên tục mở rộng, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của toàn ngành công nghiệp tăng từ 7,4% năm 2016 lên 9,1% năm 2019. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 26/8/2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 dự kiến đạt 6,1%, nhờ sự phục hồi xuất khẩu các mặt hàng chế tạo chế biến, du lịch, tiêu dùng và đầu tư. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ kinh tế với hơn 221 thị trường nước ngoài. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và đối tác thương mại lớn thứ tư của Trung Quốc, sau Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc; trong đó, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam; tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa kỳ cũng phát triển nhanh, tăng từ 0,733 tỷ USD năm 2000 lên vượt mốc 100 tỷ USD vào năm 2022, năm 2023 là 97 tỷ USD.

Những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cả về quy mô và chất lượng tăng trưởng ngày càng cao; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên. Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, luyện kim, sắt thép, vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến,… Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đang phát triển lớn mạnh, đóng góp lớn về sản xuất, đầu tư, xuất khẩu, giải quyết việc làm, nhất là các ngành da giày, dệt may, thép, thực phẩm chế biến, hóa chất. Một số ngành công nghiệp nền tảng, như cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, vật liệu, công nghiệp năng lượng đã từng bước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đang làm chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ, quản lý kinh tế – xã hội, lao động thủ công chuyển sang lao động với trình độ, công nghệ hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao; tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế.

Vì vậy, những luận điệu của Phạm Đình Bá xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu phát triển kinh tế ở Việt Nam, chống phá Đảng, Nhà nước ta cần được nhận diện. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái này./.

QUÂN VÀ DÂN MỘT LÒNG KHẮC PHỤC BÃO LŨ

 Thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, hậu

quả thiên tai gây ra là không thể tránh khỏi. Chúng ta chỉ có thể nắm bắt tình hình, dự báo sớm

để chủ động phòng ngừa, hạn chế thấp nhất hậu quả xảy ra và nỗ lực khắc phục thiệt hại. Trong

thực tế, chúng ta đã rất chủ động đối phó với cơn bão ngay từ sớm.

Thủ tướng đã ban hành các công điện chỉ đạo các bộ, ban, ngành, địa phương triển khai nhiều

biện pháp cấp bách chủ động ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả, đồng thời

phân công các thành viên Chính phủ, các cơ quan chức năng kiểm tra việc ứng phó, lập ban chỉ

đạo tiền phương để kịp thời chỉ đạo xử lý các tình huống đặt ra trước, trong và sau khi bão đổ bộ.

Toàn dân tộc đã phát huy tinh thần đại đoàn kết, đồng lòng, chung tay giúp đỡ đồng bào vượt

qua khó khăn.

Để phòng, chống bão số 3, Bộ Công an đã huy động hơn 100.000 lượt cán bộ, chiến sĩ của Công

an 35 tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng, giúp đỡ nhân dân chằng chống nhà cửa, tuyên truyền, vận

động nhân dân đến nơi tránh trú bão an toàn, sơ tán gần 53.000 người trên lồng bè, chòi canh

nuôi thuỷ sản, trong các nhà yếu đến nơi an toàn. Phối hợp Bộ đội Biên phòng kiểm đếm, hướng

dẫn hơn 51.000 tàu cá, gần 220.000 người về nơi tránh trú an toàn; bố trí các trang thiết bị,

phương tiện phục vụ công tác phòng chống bão.

Theo báo cáo của Cục Cứu hộ cứu nạn, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân

đội đã huy động hơn 450 nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ và hơn 10.000 phương tiện ứng phó siêu

bão số 3. Trước khi bão đổ bộ, các đơn vị Quân đội đã nhanh chóng có mặt tại những nơi nguy

hiểm, xung yếu hỗ trợ chính quyền địa phương và nhân dân ứng phó, khắc phục hậu quả bão lũ.

Trong những ngày xảy ra mưa lũ trên diện rộng, Công an các địa phương phía Bắc tập trung hỗ

trợ sơ tán người dân di dời khỏi vùng nguy hiểm, tham gia gia cố đê kè ngăn lũ, trực tiếp tuần

tra, đưa người bị mắc kẹt trong lũ đến nơi an toàn, đưa người bị nạn đi cấp cứu.

Hậu bão số 3 đã gây ra lũ quét, lũ lụt diện rộng cho nhiều tỉnh, thành phố phía Bắc với nhiều

thiệt hại về người và của. Để ứng phó, khắc phục hậu quả mưa lũ, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, giúp

đỡ nhân dân nhanh chóng ổn định sản xuất, cuộc sống, không để người dân nào bị đói, rét, không

nơi ở, đảm bảo an ninh trật tự, thực hiện hiệu quả công tác cứu nạn, cứu hộ, lực lượng Công an

đã khẩn trương huy động tối đa lực lượng, phương tiện ở nhiều đơn vị, địa phương. Công an các

tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng… huy động toàn lực lượng từ cấp

tỉnh tới cấp xã sử dụng các phương tiện tiếp cận, di chuyển toàn bộ người và tài sản trong vùng

có nguy cơ ngập lụt nghiêm trọng tới nơi tránh trú.

Đã có nhiều tấm gương anh dũng trong thực hiện nhiệm vụ, trong đó có cán bộ đã hy sinh để bảo

vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân, đó là Thượng úy Nguyễn Đình Khiêm (sinh năm 1997), Đại

đội trưởng Đại đội 3, Tiểu đoàn Công binh 1, Lữ đoàn Công binh 513, Quân khu 3; Trung tá

Trần Quốc Hoàng (sinh năm 1987), cán bộ Trại giam Quảng Ninh.

Đặc biệt, sau khi xảy ra tai nạn sập cầu Phong Châu và trận lũ quét kinh hoàng làm hơn 100

người bị vùi lấp ở bản Làng Nủ, Lào Cai, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ Công an địa phương và

CSCĐ thuộc Bộ Tư lệnh CSCĐ cùng một số đơn vị Quân đội đã đến hiện trường tiến hành cứu

nạn, cứu hộ với quyết tâm, nỗ lực cao nhất.

TIN GIẢ, SAI LỆCH VỀ CƠN BÃO SỐ 3

 Trong khi Đảng, Nhà nước và các địa phương, lực lượng chức năng cùng quân dân miền Bắc

đang gồng mình ứng phó với trận bão, lũ lịch sử, huy động tối đa các nguồn lực để phòng, chống

và giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả; trong khi cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và

đồng bào cả nước đang hướng về miền Bắc, tích cực ủng hộ, giúp đỡ người dân ở những vùng

gặp nạn thì trên mạng xã hội lại có những hình ảnh, bài viết thông tin sai sự thật, nhất là thông

tin sai về việc vỡ đập, vỡ đê, ngập lụt, sạt lở... dẫn đến người dân hoang mang.

Không chỉ xuất hiện tin giả, tin sai lệch về bão số 3, một số đối tượng còn lợi dụng thiệt hại do

bão gây ra để kêu gọi ủng hộ nhằm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Các đối tượng lừa đảo sử dụng

hình ảnh, thông tin giống các trang chính thống kêu gọi những người hảo tâm quyên góp, chuyển

tiền vào tài khoản cá nhân để chiếm đoạt… Những hành vi này vừa gây nhiễu loạn trong dư

luận, vừa tạo cớ để các thế lực xấu lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thiên

tai, hoạn nạn.

Những thông tin xuyên tạc, thông tin mang tính quy kết “gắp lửa bỏ tay người” của các thế lực

thù địch và các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn nói trên đi ngược với cộng

đồng, gây nên sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận. Từ việc hướng lái dư luận hiểu sai lệch,

cho rằng Đảng, Nhà nước không quan tâm đến đời sống dân sinh, bỏ mặc người dân trong tình

cảnh khốn khó, âm mưu của các đối tượng nhằm gây chia rẽ giữa nhân dân với Đảng, chính

quyền, chia rẽ giữa lực lượng vũ trang và nhân dân, bôi lem Đảng, chế độ, kích động chống đối

từ bên trong.

Có một quy luật quen thuộc trên không gian mạng là cứ hễ khi đất nước gặp khó khăn thì được

các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động lại coi đây là thời cơ để lợi dụng chống phá. Điều này

vốn từng xảy ra suốt thời gian chúng ta đối phó với đại dịch COVID-19.

GIỌNG ĐIỆU XUYÊN TẠC, KÍCH ĐỘNG VỀ VIỆT NAM SAU CƠN BÃO SỐ 3

 Những ngày qua, khi toàn xã hội chung tay góp sức giúp người dân các tỉnh phía Bắc khắc phục

hậu quả bão lũ thì trên không gian mạng, các thế lực thù địch, tổ chức phản động lưu vong, các

phần tử bất mãn, cơ hội lại tiếp tục lợi dụng tình hình này để đưa ra những luận điệu xuyên tạc,

phán xét chủ quan nhằm chia rẽ, phá hoại.

Ngay sau khi cơn bão số 3 (bão Yagi) đổ bộ vào Việt Nam gây nên những thiệt hại to lớn về

người và của, đồng thời hoàn lưu bão gây sạt lở đất và lũ lụt diện rộng ở nhiều tỉnh miền núi phía

Bắc và đồng bằng sông Hồng, bên cạnh sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước và địa phương

trong việc ứng phó nhằm giảm tối đa thiệt hại về người và của thì trên không gian mạng lại có

những tiếng nói xuyên tạc, lạc lõng.

Có thể kể đến một số trang tin như Việt Tân, VOA Tiếng Việt, RFA... đã ra sức đăng tải những

thông tin sai trái, xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến công tác

phòng, chống bão lũ, bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai.

Họ vu cáo với các luận điệu như: “Đừng trông chờ gì Đảng, Nhà nước Việt Nam hỗ trợ người

dân sau bão Yagi”; “Các nhóm lợi ích và sau lưng những kẻ bảo kê cho nhóm lợi ích chỉ nghĩ

đến tiền thôi, họ không màng đến sự sống của người dân”; “Phải chi Nhà nước dùng ngân sách

bảo vệ dân bằng một phần nhỏ ngân sách để bảo vệ Đảng, có lẽ nhiều người dân đã được cứu”…

Trang Việt Tân đưa các hình ảnh người dân bị thiệt hại sau bão lũ rồi kích động: “Trong các báo

cáo diễn tập, những thiên tài của Đảng luôn tuyên bố “hoàn thành xuất sắc công tác phòng,

chống lụt bão”, vậy mà…”; “Mưa bão tới đâu, lãnh đạo cho diễn tới đó”; “Nhân dân lâm nguy,

chính quyền vẫn ưu tiên bệnh thành tích”; “Rất nhiều người kêu cứu trong tuyệt vọng, không rõ

chính quyền, công an, cứu hộ đi đâu”…

Họ mỉa mai rằng, chỉ có dân cứu dân khi hoạn nạn, dân không thể kêu cứu chính quyền mà chỉ

có thể nhờ ai đó giúp mình; rằng “tuyên truyền thì ngạo nghễ, thực tế thì ngao ngán”! Thậm chí,

một số trường hợp còn đưa những hình ảnh không chính xác rồi miệt thị đó là ảnh “biểu diễn”

cứu hộ, cứu nạn trong bão lũ nhằm “lừa mị dân”…

Các tổ chức phản động lưu vong lợi dụng việc bão lớn làm đổ nhiều cây xanh, cột điện, hỏng

nhiều đường sá, cầu cống rồi cố tình chọn đăng một vài hình ảnh cây mới trồng không có nhiều

rễ, cột điện có ít lõi sắt (cả ảnh thật và ảnh cắt ghép, ảnh không rõ nguồn gốc và thời điểm chụp)

rồi từ việc phê phán chính quyền thiếu trách nhiệm, tham nhũng, tắc trách để quy chụp “cây xanh

dưới cơ chế của đảng thì phải chấp nhận vậy thôi”!

Có đối tượng bất mãn, chống đối lại đưa ra những luận điệu kiểu “tâm linh” như cho rằng, cơn

bão Yagi đổ bộ vào Việt Nam càn quét gây thiệt hại nặng nề là do “trời trừng phạt và do chế độ

độc Đảng lãnh đạo”. Từ đó, những đối tượng này cổ xuý, muốn chống bão lụt thì dân hãy tự lo

lấy, chừng nào còn độc đảng thì chừng đó chính quyền còn bỏ mặc nhân dân và hả hê trước

những thiệt hại to lớn về người và của trước sự tàn phá của cơn bão.

 

 HƯNG MAI – LUẬN ĐIỆU CẦN LÊN ÁN

          Gần đây, trên trang mạng Saigonnhonew, Hưng Mai đăng bài viết “Nhà nước bây giờ của ai?”. Trong đó có nội dung:  Mô hình “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” mà ĐCSVN luôn tuyên bố theo đuổi đang đứng trước nguy cơ trở thành một lời hứa bị phản bội, khi quyền lực ngày càng tập trung vào tay một nhóm nhỏ, phục vụ cho lợi ích của nhóm này hơn là lợi ích của toàn dân”. Đây là những luận điệu phản động, xuyên tạc của Hưng Mai, nhằm gây hoang mang, tạo hoài nghi của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Thứ nhất, tại Điều 2, Hiến pháp 2013 khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2022 nêu rõ: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán…; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.

Thứ hai, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện “bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”. Ở nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức ra, nhân viên nhà nước là người được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, trở thành công bộc của nhân dân. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở văn bản pháp luật, trong các bài nói, bài viết của Người mà còn thấm đượm lòng nhân ái, thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã phát triển tới một đỉnh cao, phản ánh giá trị cao quý nhất của chế độ nhà nước dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, thực tiễn đã chứng minh: Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng gần 40 năm, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Vì vậy, chúng ta khẳng định rằng: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; nhà nước tồn tại và hoạt động vì quyền lợi nhân dân lao động, chứ không phải như quan điểm có tính chất bóp méo, xuyên tạc, áp đặt của Hưng Mai. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh, lên án, phê phán và bác bỏ những luận điệu sai trái, dối trá, không đúng sự thật do Hưng Mai bịa đặt ra./.

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐÚNG ĐẮN CỦA VIỆT NAM ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH

 Phương châm trong đối ngoại của Việt Nam là: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;

đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; là

bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế (Nghị quyết Đại hội

XIII của Đảng). Nhiều hãng truyền thông lớn trên thế giới đã đăng tải những thông điệp tích cực

về các hoạt động của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hoa Kỳ, khẳng định uy tín, vị thế của Việt Nam.

Chuyến công tác, làm việc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hoa Kỳ càng có ý nghĩa quan trọng khi

diễn ra vào thời điểm tròn một năm Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến

lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, cũng như trước thềm kỷ niệm 30 năm

quan hệ ngoại giao. Đây là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua, đúc rút, chia sẻ và

lan toả những bài học, kinh nghiệm hay về quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tôn vinh và tri

ân những thế hệ bạn bè đã và đang tích cực đóng góp cho quan hệ hai nước. 

Bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là

thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh

thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi

mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt

Nam – Hoa Kỳ hay giữa Việt Nam với quốc gia nào trên thế giới đều là tất yếu khách quan, phù

hợp xu thế chung của thời đại.

Điều đó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc

“ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát

triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia”

như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động,

phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế

lực xấu.

THÀNH TỰU TRONG HỢP TÁC VỚI HOA KỲ

 Từ khi bình thường hóa quan hệ, nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thăm Hoa Kỳ,

đặc biệt là chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7/2015. Đồng

thời, tất cả các Tổng thống Hoa Kỳ từ sau khi bình thường hóa quan hệ đều đã thăm Việt Nam,

gần đây nhất là chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden tháng 9/2023 và nâng cấp quan hệ song

phương lên Đối tác Chiến lược toàn diện. Tròn một năm nâng cấp quan hệ song phương lên Đối

tác Chiến lược toàn diện, hai bên đã tiếp tục cùng nhau triển khai giải quyết những vấn đề quan

trọng thông qua các cơ chế đối thoại mới, tập trung thúc đẩy các mục tiêu hợp tác bao gồm:

Quan hệ chính trị ngoại giao; hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư; hợp tác chuyển đổi số; hợp

tác khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; hợp tác về giáo dục đào tạo; biến đổi khí hậu, môi

trường, y tế, quốc phòng - an ninh...

Qua đó, hai bên tích cực phối hợp tổ chức các sự kiện, hoạt động quốc tế, khu vực quan trọng;

triển khai hiệu quả các sáng kiến, cơ chế trong khuôn khổ Liên hợp quốc và Hiệp hội các quốc

gia Đông Nam Á (ASEAN). Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ lập trường của Việt Nam đối với vấn đề

Biển Đông, Tiểu vùng sông Mê Kông, ứng phó với biến đổi khí hậu; coi trọng phối hợp với Việt

Nam trong giải quyết nhiều vấn đề khu vực quan trọng khác... Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất

khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khi Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 8 của Hoa

Kỳ, đồng thời là đối tác thương mại lớn nhất ở khu vực ASEAN. Hoa Kỳ tiếp tục là nhà đầu tư

lớn vào Việt Nam với 1340 dự án với tổng vốn trên 11,8 tỷ USD tính đến tháng 3/2024. Về

phía Việt Nam cũng có 230 dự án đầu tư tại Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD…

Trong lĩnh vực hợp tác về an ninh - quốc phòng, hai bên tiếp tục duy trì trao đổi thường xuyên để

tăng cường hợp tác. Đồng thời, tiếp tục triển khai các cơ chế đối thoại thường niên như Đối thoại

Chính trị - An ninh - Quốc phòng 13 (8/2024) và Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 24

(8/2024). Hợp tác an ninh, chống tội phạm được mở rộng, hai bên tiếp xúc duy trì, trao đổi các

cấp về những vấn đề an ninh chiến lược và chuyên ngành, đồng thời thúc đẩy các khuôn khổ hợp

tác mới.

Trong đối thoại về nhân quyền, hai bên trao đổi về những vấn đề này thông qua các cơ chế đối

thoại thẳng thắn, trên tinh thần xây dựng như Đối thoại Nhân quyền, Đối thoại Lao động Việt

Nam - Hoa Kỳ, qua đó góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giảm thiểu khác biệt; tăng

cường hợp tác nhằm bảo đảm tất cả người dân được hưởng đầy đủ quyền con người. Đồng thời

Việt Nam - Hoa Kỳ  tiếp tục bám sát những nguyên tắc nền tảng của quan hệ hai nước, bao gồm

“tôn trọng hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và tôn trọng thể chế chính trị, độc lập,

chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau”, củng cố hơn nữa tin cậy chính trị và lòng tin chiến lược,

đảm bảo nguyện vọng của nhân dân hai bên, đóng góp tích cực hơn nữa cho hòa bình, ổn định,

hợp tác và phát triển bền vững tại khu vực cũng như trên thế giới.

 

 NHỮNG THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ ĐẢNG

Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ thường xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu dài, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Những kết quả đạt được trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua là minh chứng cho chủ trương đúng đắn, kiên quyết, kiên trì của Đảng ta trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”; là một biểu hiện của Đạo đức, của Văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Thế nhưng, lợi dụng vào đó các thế lực thù địch, phản động đưa ra những luận điệu xuyên tạc, chống phá. Chúng đưa ra các luận điệu xuyên tạc như: đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm chỉ là “trò đánh trống, khua chiêng”, “đấu đá nội bộ”,  hay “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng phe cánh”,… Gần đây nhất, ngày 16/9/2024, trên trang Thongluan-rdp, Bút danh Phạm Trần có bài viết “Từ đạo đức và văn minh đến suy thoái và tham nhũng” để tuyên truyền xuyên tạc về công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà Đảng và nhân dân ta đang quyết tâm thực hiện.

          Phạm Trần xuyên tạc rằng, trước đây “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, bây giờ là “suy thoái và tham nhũng”, Y nhấn mạnh rằng, “tham nhũng hết thuốc chữa”, y còn viện dẫn hàng loạt những con số vô nghĩa, bịa đặt mà theo y là sự cung cấp từ các nguồn tin “đáng tin cậy” của chúng trong nội bộ Đảng. Thực chất, đây là luận điệu xuyên tạc, vu khống trắng trợn, ý đồ xấu, phản động rất nham hiểm, nhằm hướng lái dư luận tin vào những luận điệu của chúng tự nhào nặn ra hòng chia rẽ lòng dân với Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Trước hết, cần nhận thức rõ, tham ô, tham nhũng, tiêu cực là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, tồn tại ở mọi chế độ chính trị với những mức độ và dạng thức khác nhau, gắn liền với nhà nước và quyền lực, không phải của riêng chế độ xã hội chủ nghĩa. Tính chất nguy hiểm của nạn tham nhũng làm ảnh hưởng xấu đến đội ngũ cán bộ, công chức; nếu nó không được ngăn chặn, triệt bỏ sẽ gây cản trở lớn cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Hệ lụy kéo theo là làm suy thoái đạo đức, lối sống trong đội ngũ lãnh đạo, gây ra sự bất bình, bức xúc trong dư luận xã hội và nghiêm trọng hơn là làm xói mòn, suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ và sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Đấu tranh loại bỏ tham nhũng là quy luật mang tính tất yếu xuất phát từ tính chất nguy hại của hiện tượng này đối với xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp mà bất kỳ thể chế chính trị hay quốc gia nào cũng phải quan tâm để xóa bỏ tận gốc khuyết tật đó.

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được điều đó, vấn đề mang tính tất yếu và then chốt của Đảng là luôn phải tự đổi mới, chỉnh đốn, đấu tranh chống tham nhũng, thoái hóa, biến chất,… trong nội bộ và hệ thống chính trị. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tham nhũng qua các thời kỳ đã thể hiện rõ quyết tâm chính trị lớn lao, dù khó khăn, lâu dài nhưng vẫn không chùn bước trước “nạn giặc nội xâm”. Thời gian vừa qua, một loạt các sai phạm được đưa ra xét xử nghiêm minh. Điều này khẳng định công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo chuyển biến tích cực, có đột phá, được tiến hành quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” góp phần thức tỉnh, cảnh báo, ngăn chặn từng bước và đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, suy thoái, đưa đất nước phát triển thịnh vượng, bền vững.

Thứ ba, lấy hiện tượng “một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất” để quy kết bản chất của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa là thủ đoạn không mới nhưng rất nguy hại. Trên thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên tham nhũng là hiện tượng “Con sâu làm rầu nồi canh”, “cành cây sâu mọt” chứ không thể đánh đồng với toàn bộ cán bộ, đảng viên, mà cũng càng không thể là bản chất của chế độ. Các luận điệu xuyên tạc thực chất là dùng chiêu bài “mượn gió, bẻ măng”, chiêu trò “rượu cũ bình mới” hòng cố tình che đậy mục đích chống phá của chúng.

Những kết quả nổi bật và chiến lược sắc bén trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước thời gian qua càng khẳng định “Đảng ta  là đạo đức, là văn minh” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Đồng thời là sự khẳng định mạnh mẽ trước các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội phản động./.

NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VU CÁO VỀ CHUYẾN THĂM HOA KỲ CỦA TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM

 Vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tham dự

Hội nghị Thượng đỉnh tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79 và làm việc tại Hoa Kỳ.

Chuyến công tác tại Hoa Kỳ diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ

lên Đối tác Chiến lược toàn diện và đang tích cực chuẩn bị cho các hoạt động kỷ niệm 30 năm

thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ vào năm 2025. Đây là dịp quan trọng để hai bên

cùng nhìn lại những thành tựu mà quan hệ hợp tác mang lại, đồng thời thảo luận về những định

hướng và biện pháp lớn để tiếp tục duy trì đà phát triển tích cực, ổn định, thực chất trong thời

gian tới.

Chuyến công tác của Tổng Bí thư đã thành công tốt đẹp trên tất cả các phương diện. Tuy nhiên,

lợi dụng vào sự kiện này, trước, trong và sau chuyến đi, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội

chính trị tìm cách xuyên tạc, chống phá chuyến công tác của Tổng Bí thư và công tác đối ngoại

của Đảng, Nhà nước ta.

Các trang mạng, blog, website của các tổ chức phản động, các trung tâm truyền thông như VOA,

RFI, RFA… tăng tần suất các bài viết có nội dung xuyên tạc mục đích, ý nghĩa chuyến công tác,

bôi nhọ hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Họ kích động rằng, nhiều

người Việt biểu tình đòi thả “tù nhân lương tâm”, trả tự do cho các “nhà hoạt động nhân quyền”,

“nhà báo cải cách”… Một số bài viết đưa tin, Tổng Bí thư đi Mỹ là chuyến công du “củng cố

quyền lực mềm” với nội dung sai sự thật, kêu gọi Chính phủ Hoa Kỳ gây sức ép vấn đề dân chủ,

nhân quyền với Việt Nam; cho rằng quan hệ Việt - Mỹ sẽ không phát triển nếu dân chủ, nhân

quyền ở Việt Nam không được cải thiện, nếu không xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 

Các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối ở nước ngoài cũng liên tục đưa bài

kêu gọi người Việt tại Hoa Kỳ tham gia biểu tình bên ngoài trụ sở Liên Hiệp quốc ở thành phố

New York. Bên cạnh đó, một số gương mặt quen thuộc từng phải chịu án phạt tù về hành vi

chống phá Nhà nước, nay đang sống lưu vong ở nước ngoài cũng đã lợi dụng hoạt động trên để

tiến hành phô trương thanh thế, đánh bóng tên tuổi như Nguyễn Văn Đài, Đặng Đình Mạnh…

Tuy nhiên, dù được các đối tượng kêu gọi và thông tin rầm rộ trên mạng xã hội nhưng thực chất

số lượng tham gia biểu tình, phản đối chỉ có một nhóm nhỏ đứng lẻ loi, lạc lõng nơi xứ người.

Trái ngược với nhóm nhỏ lẻ loi, lạc lõng đó là rất đông kiều bào Việt Nam đang sinh sống tại

Hoa Kỳ đã tiếp đón Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc gặp thân mật nhóm trí thức các thế hệ người

Việt Nam sinh sống tại thành phố Houston, bang Texas, Hoa Kỳ.

Không kêu gọi được đông người tham gia biểu tình, các đối tượng tiếp tục sử dụng mạng xã hội

viết các bài tỏ thái độ hậm hực, dùng lời lẽ miệt thị, chế diễu hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà

nước ta, bôi nhọ quan hệ đối ngoại Việt Nam với Hoa Kỳ. Để tăng thêm độ tin cậy, các đối

tượng triệt để lợi dụng chiêu bài phỏng vấn người nước ngoài như trang tin VOA phỏng vấn dân

biểu Hoa Kỳ Michelle Steel nói bà “rất lo ngại” về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Tổ chức HRW ngày 23/9 còn đưa ra thông cáo nhằm kêu gọi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden

không tiếp đón Tổng Bí thư Tô Lâm. Rõ ràng, những ý kiến hay tiếng nói lạc lõng trên không thể

đại diện cho tiếng nói, tình cảm của kiều bào ta tại Mỹ và người Mỹ gốc Việt cũng như không

thể đại diện cho quan điểm, sự quan tâm của người Mỹ và bè bạn quốc tế về các hoạt động của

Tổng Bí thư Tô Lâm tại Mỹ cũng như mối quan hệ Việt – Mỹ. 

Những luận điệu sai trái trên là hành động tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo,

miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại mối quan hệ Việt – Mỹ, hạ thấp uy tín, vai trò

của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng chính sách mở cửa, hội

nhập, nhiều bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai

trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; cố tình suy

diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”,

“tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN.

 

LỢI DỤNG ĐÓNG GÓP Ý KIẾN SỬA ĐỔI LUẬT ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 

Thời gian gần đây, trong khi các tổ chức, cơ quan chức năng đang tích cực tổ chức các hội nghị, hội thảo, đặc biệt là đối với những luật sư để lấy ý kiến đóng góp xây dựng Luật, các lực lượng thù địch, phản động lợi dụng vấn đề này để xuyên tạc ý nghĩa và một số nội dung của định hướng xây dựng Luật. Trên các trang mạng xã hội, bên cạnh việc trích dẫn, cắt ghép ý kiến của một số luật sư trong các cuộc hội thảo khoa học về định hướng xây dựng Luật Luật sư sửa đổi, các tổ chức RFA, BBC… đã viện dẫn ý kiến sai trái của những luật sư thoái hóa, biến chất như: Đặng Đình Mạnh, Lê Quốc Quân… để phủ nhận sự cần thiết, giá trị và một số nội dung bổ sung của luật như: “không nên bắt luật sư phải có bản lĩnh chính trị”, “bản lĩnh chính trị đó là sự hiểu biết và chấp nhận sự độc tài về chính trị của Đảng Cộng sản”, “yêu cầu bãi bỏ ba điều luật (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015)”… Chúng ta cần cảnh giác và đấu tranh với những luận điệu sai trái này.

Thứ nhất, luật sư cần phải có “bản lĩnh chính trị vững vàng”.

Bản lĩnh chính trị là sự kiên định, khả năng độc lập suy nghĩ, quyết định và hành động, là đòi hỏi cơ bản và trực tiếp đối với mỗi cá nhân, giúp mỗi người kiên định lập trường, quan điểm và bằng ý chí, năng lực của mình vượt qua khó khăn, thử thách, áp lực để quyết tâm thực hiện thắng lợi mục đích đã đề ra. Để thành công trong công việc, cuộc sống mỗi người cần có nhiều phẩm chất, điều kiện, trong đó bản lĩnh chính trị là phẩm chất quyết định.

Ngày nay, khi xã hội càng phát triển, pháp luật ngày càng được đề cao và vị thế của luật sư được coi trọng hơn. Điều đó, một mặt tạo điều kiện thuận lợi, yếu tố tích cực để luật sư hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, lẽ phải, cái đúng, cái tốt, đấu tranh loại bỏ cái sai, cái xấu trong xã hội. Để hoàn thành được nhiệm vụ vinh dự, nhưng hết sức nặng nề này, luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh việc bảo vệ uy tín và danh tiếng nghề nghiệp, tự giác, gương mẫu tuân thủ pháp luật; mỗi Luật sư phải thực hiện trách nhiệm chính trị, trách nhiệm xã hội của mình thông qua việc tích cực tham gia hoạt động tố tụng theo tinh thần cải cách tư pháp, thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách, phổ biến, giáo dục pháp luật và các hoạt động xã hội khác.

Mặt khác, hoạt động trong lĩnh vực pháp luật cũng khiến mỗi luật sư phải đối mặt với nhiều cám dỗ, thách thức. Nếu luật sư không có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ dễ bị những cám dỗ lợi ích, vật chất mua chuộc, bị gây áp lực từ nhiều phía, khiến luật sư khó giữ được mình, đánh mất bản thân, làm mất niềm tin của khách hàng, nguy hiểm hơn là làm mất niềm tin của người dân đối với những người thực thi, bảo vệ công lý, mất niềm tin vào pháp luật của Nhà nước. Bởi lẽ, luật sư là những người làm việc độc lập, tự chịu trách nhiệm về hành vi ứng xử của mình ở mọi lĩnh vực pháp luật. Trong quá trình hoạt động nghề, luật sư là người có nguy cơ tiếp xúc với những mặt trái, mặt xấu của xã hội và có nguy cơ rơi vào cám dỗ. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ cao quý, cần xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng là điều tất yếu của mỗi luật sư trong quá trình hoạt động nghề. Do vậy, đưa nội dung luật sư phải có “bản lĩnh chính trị” vào định hướng xây dựng Luật Luật sư sửa đổi là cần thiết và phù hợp.

  Thứ hai, yêu cầu xóa bỏ ba điều (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự 2015 là đòi hỏi vô lý.

Không chỉ xuyên tạc, phủ nhận giá trị, nội dung định hướng xây dựng Luật Luật sư sửa đổi, các lực lượng thù địch, phản động còn đưa ra yêu cầu xóa bỏ ba điều (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là những đòi hỏi vô lý, bởi các điều luật mà chúng đòi xóa bỏ là những quy định về nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia như: Điều 109 “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, Điều 117 “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Đến đây thì bản chất thù địch, phản động đã thể hiện rõ, chúng muốn xóa bỏ các điều luật trên để thực hiện âm mưu, ý đồ hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tạo môi trường thuận lợi để chống phá Đảng, Nhà nước. Mục đích của các lực lượng chống phá là muốn đưa mình thoát khỏi “vùng cấm” của luật pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ dàng tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước như: Tuyên truyền chống Nhà nước, thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam… mà không bị chế tài pháp luật xử lý.

Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động tuyên truyền kêu gọi, đòi xóa bỏ các điều luật trên, các lực lượng chống phá muốn gây sự chú ý của dư luận trong nước, cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí như: RFI, RFA, BBC… can thiệp. Đồng thời, thông qua các hoạt động tuyên truyền, kêu gọi đó để hướng lái dư luận xã hội theo chiều hướng tiêu cực, tạo ra suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam rối ren, tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.

Mặt khác, thông qua việc kêu gọi xóa bỏ một số điều luật trên, các đối tượng nhằm xuyên tạc, vu khống, hạ thấp uy tín, hình ảnh Việt Nam, cho rằng Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền; vu cáo Nhà nước sử dụng các điều luật này để bóp nghẹt quyền tư do dân chủ, các quyền căn bản của công dân đã được Hiến định.

Từ đó có thể thấy, yêu cầu xóa bỏ các điều (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ là những đòi hỏi vô lối, là chiêu trò, thủ đoạn của các lực lượng thù địch, phản động hòng bao che, cổ súy cho những hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, làm mất ổn định chính trị – xã hội, cản trở sự nghiệp phát triển của Việt Nam.

Để nâng cao chất lượng xây dựng Luật Luật sư, bên cạnh phát huy trí tuệ, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong xã hội đóng góp ý kiến tâm huyết, khách quan để xây dựng Luật, cần nêu cao tinh thần cảnh giác, nhận rõ thủ đoạn của các lực lượng thù địch, phản động lợi dụng góp ý sửa đổi Luật Luật sư để xuyên tạc, phủ nhận giá trị, nội dung của Luật, đưa ra những đòi hỏi vô lối, chống phá Đảng, Nhà nước và tích cực đấu tranh bác bỏ./.