Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Âm mưu của đế quốc Mỹ nhằm mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam

 

Những tháng cuối năm 1963, vấn đề Việt Nam ngày càng trở nên nóng bỏng đối với giới cầm quyền Mỹ. Bị thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa dòng”, hậu thuẫn cho cuộc đảo chính phế bỏ anh em Tổng thống tay sai Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu (ngày 1-11-1963).

Sau đảo chính, tình hình chính trị ở Sài Gòn không những không được cải thiện mà càng trở nên tồi tệ, rối ren hơn. Bọn tay sai mới tiếp tục đấu đá, lật đổ lẫn nhau và không chống đỡ nổi những cuộc tiến công nổi dậy mạnh mẽ của quân và dân ta. Trong khi đó, lực lượng cách mạng ngày càng được củng cố, phát triển và giành nhiều thắng lợi trên các chiến trường.

Đế quốc Mỹ quyết định đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam bằng một chiến lược mới và mở cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, nơi mà chúng cho là “gốc rễ”, là hậu thuẫn của cách mạng miền Nam, để triệt tiêu công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam và sự giúp đỡ của các nước cho cách mạng Việt Nam. Tháng 2-1964, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã thông qua “chương trình thử nghiệm 4 tháng” gồm 3 nội dung chủ yếu:

- “Kế hoạch hành quân 34A”, do thám bằng máy bay chiến lược U2, bắt cóc công dân Bắc Việt Nam để khai thác tin tình báo, sử dụng các đội nhảy dù phá hoại và gây chiến tranh tâm lý, tiến hành các cuộc tập kích từ biển vào để phá đường xe lửa và cầu đường. Mục đích của kế hoạch này là tăng cường sức ép để buộc Hà Nội phải ra lệnh cho du kích “Việt cộng” và Pa-thét Lào phải đình chỉ hoạt động.

- Mở các cuộc tiến công bằng không quân ở Lào, lan dần đến biên giới Bắc Việt Nam, coi đó là một sự “khởi xướng” cho cuộc chiến tranh không quân ào ạt chống lại Bắc Việt Nam.

- “Kế hoạch Đề-sô-tô”, tổ chức các cuộc tuần tra bằng tàu khu trục Mỹ ở khu vực Vịnh Bắc Bộ nhằm phô trương lực lượng, gây tác động tâm lý và thu thập tin tức tình báo về các trận địa ra đa cảnh giới, trận địa phòng thủ của Bắc Việt Nam phục vụ cho các hoạt động trong khuôn khổ Kế hoạch 34A, hỗ trợ các cuộc tiến công của hải quân Nam Việt Nam vào bờ biển miền Bắc. “Mỹ tin rằng Bắc Việt Nam không dám đánh tàu Mỹ”, trường hợp “Hà Nội coi các cuộc tuần tra đó là một sự khiêu khích, Oa-sinh-tơn (Washington) sẽ phản ứng nhanh chóng”.

Thực chất đây là chương trình hoạt động phô trương sức mạnh và tìm cớ để gây chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

Ngày 17-4-1964, Bộ tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đưa ra kế hoạch đánh phá các tuyến vận chuyển chiến lược của ta chạy dọc biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia nhằm ngăn chặn sự chi viện từ Bắc vào Nam. Kế hoạch này được mang tên Oplan 37, dự định thực hiện qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Truy kích Việt cộng qua biên giới Lào và Cam-pu-chia.

Giai đoạn 2: Mở các cuộc oanh kích và dùng mìn đánh phá các mục tiêu đã dự định trong nội địa miền Bắc.

Giai đoạn 3: Tăng cường oanh tạc mạnh mẽ và liên tục chống miền Bắc.

Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã yêu cầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ soạn thảo kế hoạch hành động từng bước, kết hợp cả hoạt động chính trị và quân sự chống lại miền Bắc Việt Nam; soạn thảo nghị quyết nhằm tìm kiếm sự phê chuẩn của Quốc hội cho việc mở rộng các hoạt động quân sự ở Đông Dương.

Theo chỉ thị của Giôn-xơn, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ thông qua kế hoạch dùng không quân, hải quân đánh phá 94 mục tiêu trên miền Bắc nước ta (gồm 12 điểm nút giao thông vận tải, kho, cảng, bến bãi; 9 khu vực sân bay; 53 khu vực quân sự; 8 khu vực công nghiệp; 12 đường bay trinh sát vũ trang). Dự kiến thực hiện kế hoạch qua 4 giai đoạn trong 13 tuần. Trong đó, giai đoạn 1 (3 tuần): Tấn công liên tục trên các tuyến giao thông, các khu vực quân sự phía Nam vĩ tuyến 20. Giai đoạn 2 (6 tuần): Cô lập Bắc Việt Nam bằng cách phá hủy các tuyến đường sắt liên hệ với Trung Quốc. Giai đoạn 3 (2 tuần): Cô lập Bắc Việt Nam bằng cách phá hủy các cơ sở kho cảng, bến bãi, các khu lưu trữ và cung cấp đạn dược, xăng dầu ở Hải Phòng - Hà Nội. Giai đoạn 4 (2 tuần): Phá hủy tất cả các mục tiêu còn lại trong danh sách bao gồm các khu công nghiệp, khu khai thác.

Bằng cách thức tiến hành leo thang từng bước với quy mô tăng dần và tính chất ngày càng ác liệt, Đế quốc Mỹ dùng hải quân khóa chặt cửa biển miền Bắc, dùng máy bay của không quân và của hải quân mở các chiến dịch đánh phá ven biển, các mục tiêu trong nội địa, săn tìm các căn cứ hải quân Bắc Việt để tiêu diệt lực lượng tàu thuyền chiến đấu có khả năng cản trở bước tiến công của chúng. Chúng dùng máy bay thả thủy lôi, bom từ trường để phong tỏa các cảng sông, cửa biển đồng thời trang bị hiện đại cho hải quân ngụy kết hợp chống phá miền Bắc. Với những mưu đồ trên, đế quốc Mỹ hy vọng “Hà Nội sẽ phải “quỳ gối” trong vòng 2-6 tháng”.

Đến tháng 5-1964, kế hoạch xúc tiến chiến tranh phá hoại miền Bắc đã được đế quốc Mỹ hoàn tất. Hệ thống căn cứ không quân, hải quân chúng bố trí gần miền Bắc nước ta đều đã được bảo đảm sẵn sàng nhận lệnh (Hạm đội 7, căn cứ ở Đà Nẵng, sân bay Ubon ở Thái Lan, Guam ở Thái Bình Dương). Để thực hiện kế hoạch đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân với một “kịch bản” đã được chuẩn bị từ trước, đế quốc Mỹ xác định phải “có một chiến dịch khiêu khích Bắc Việt Nam” để tạo cớ. Và họ đã tính toán cái “cớ” ấy nằm trong khuôn khổ của Kế hoạch Đề-sô-tô là phù hợp nhất.

Chiến thắng Ấp Bắc – báo hiệu sự phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ

 

Sau phong trào Đồng Khởi, cục diện chiến tranh ở miền Nam có thay đổi mới, đẩy đế quốc Mỹ và ngụy quyền vào thế bị động, buộc chúng phải có những điều chỉnh về chiến lược. Đối phó với cách mạng miền Nam, chính quyền Mỹ quyết định thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” - sử dụng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ tiến hành chiến tranh với vũ khí, phương tiện chiến tranh, tài chính của Mỹ, do cố vấn Mỹ chỉ huy.

Triển khai chiến lược mới, đế quốc Mỹ huy động hàng chục nghìn cố vấn cùng số lượng lớn phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam, tích cực viện trợ cho ngụy quyền khối lượng lớn vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại.

Được sự chi viện và yểm trợ tích cực của Mỹ, ngụy quyền Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét với quy mô khác nhau, vừa đẩy mạnh chương trình bình định, dồn dân lập ấp chiến lược, vừa tập trung đánh phá vùng căn cứ cách mạng, quyết tâm tiêu diệt lực lượng giải phóng.

Trong các cuộc hành quân, địch áp dụng các biện pháp chiến thuật hiện đại, như “trực thăng vận” - vận chuyển, bắn phá yểm trợ, hành quân đồ bộ bằng máy bay trực thăng lên thẳng và “thiết xa vận” - vận chuyển, yểm trợ hành quân càn quét bằng xe bọc thép M-113, gây ra những khó khăn và tổn thất cho quân và dân miền Nam.

Trước yêu cầu mới, quân và dân miền Nam thể hiện quyết tâm đánh bại các chiến thuật dùng máy bay trực thăng và xe bọc thép của địch. Tại Quân khu 8, thực hiện chỉ đạo của Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu, các cơ quan đã tổ chức phổ biến, huấn luyện chiến thuật chống địch càn quét, cách bố trí trận địa phòng ngự và kỹ thuật bắn máy bay, cách bắn xe bọc thép. Đêm 31-12-1962, Đại đội 1, Tiểu đoàn 261 (chủ lực Quân khu) và Đại đội 1, Tiểu đoàn 514 bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho về đóng tại Ấp Bắc và ấp Tân Thới để huấn luyện cách đánh máy bay trực thăng, xe bọc thép; cách tổ chức, bố trí lực lượng; xây dựng hệ thống công sự trận địa trong làng, xã chiến đấu; phối kết hợp với 1 trung đội công binh tỉnh Mỹ Tho, 1 trung đội địa phương huyện Châu Thành và du kích các xã Tân Phú, Tân Hội, Điềm Hy chuẩn bị tiến công ấp chiến lược Giồng Dứa, Long Định.

Phát hiện lực lượng ta đang bố trí tại Ấp Bắc, địch cấp tốc điều động lực lượng, phương tiện, tổ chức cuộc hành quân Đức Thắng 1/13 càn quét vào khu vực này. Lực lượng gồm 3 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh 7, 1 tiểu đoàn dù, 2 đại đội biệt động quân, 3 đại đội bảo an, 3 đại đội dân vệ, 13 xe thiết giáp M113, 13 tàu chiến, 32 máy bay, các trận địa pháo của Sư đoàn 7 ở lộ 4, Long Định, Phước Mỹ, do Bùi Đình Đàm, Đại tá, Tư lệnh Sư đoàn 7 và John Paul Vann, Trung tá Mỹ, cố vấn trưởng Sư đoàn 7 chỉ huy.

Rạng sáng ngày 2-1-1963, địch bắt đầu hành quân, chia làm nhiều mũi, bằng đường bộ, đường thủy đồng loạt tiến công vào Ấp Bắc nhưng không thành công. Chúng quyết định sử dụng chiến thuật “trực thăng vận”. 7 giờ 30 phút, chúng cho 10 máy bay trực thăng CH-21 đổ 1 tiểu đoàn bộ binh xuống phía sau Ấp Bắc. Khi máy bay trực thăng địch đang hạ cánh, ta bất ngờ nổ súng bắn rơi 1 chiếc tại xóm Bàu Rô, 1 chiếc khác bị hỏng nặng cố bay về căn cứ nhưng đã rơi xuống cánh đồng Cà Dăm. Quá hoảng hốt, địch vội cho 5 máy bay trực thăng vũ trang UH-1A đến yểm trợ thì 2 chiếc bị bắn rơi; 1 chiếc CH-21 khác đổ quân xong cũng bị ta bắn hạ. Sau 2 đợt tiến công không thành, địch tập trung 3 tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 7 tại Miếu Hội, chia làm 2 mũi tiến công vào ấp Tân Hội hòng tiêu diệt Đại đội 1 (Tiểu đoàn 514). Nhưng vẫn bị lực lượng ta đánh lui.

Bị thất bại 3 đợt tiến công liên tiếp, địch cho máy bay, pháo binh bắn phá dồn dập vào Ấp Bắc, ấp Tân Hội, dọn đường cho 1 tiểu đoàn bộ binh và 13 xe thiết giáp M113 mở cuộc tiến công lần 4 vào Ấp Bắc, đánh thẳng vào trận địa của Đại đội 1 (Tiểu đoàn 261). Quân ta anh dũng chống trả, đẩy lùi các đợt tiến công của địch, buộc chúng phải rút lui chờ quân tiếp viện. Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn - Lê Văn Tỵ và Tư lệnh quân Dù - Trần Thiện Khiêm trực tiếp chỉ huy đợt tiến công. Chỉ huy địch lệnh cho quân lính trên các hướng rút ra vòng ngoài tổ chức trú quân, chờ sáng hôm sau mới tổ chức tiến công.

Qua một ngày chiến đấu thắng lợi, 22 giờ ngày 2-1-1963, bộ đội và du kích ở Ấp Bắc bí mật rút khỏi vòng vây về căn cứ Đồng Tháp Mười an toàn. Kết quả, trong trận Ấp Bắc, ta loại khỏi chiến đấu 450 quân địch (có 11 cố vấn và nhân viên kỹ thuật Mỹ), bắn rơi 5 trực thăng, phá hủy 3 xe thiết giáp M113, đánh chìm 1 tàu chiến; đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân càn quét lớn của địch.

Chiến thắng Ấp Bắc đã mở đầu cho việc đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” được coi là “tân kỳ và hữu hiệu”, báo hiệu sự phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và ngụy quyền, cổ vũ mạnh mẽ quân và dân miền Nam đẩy mạnh phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”. Đánh giá về thắng lợi này, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khẳng định: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được”[1].

Chiến thắng Đồng Xoài – Góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam

 

Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, năm 1965 đế quốc Mỹ quyết định đưa quân vào tham chiến trực tiếp ở miền Nam, đồng thời tăng cường viện trợ quân sự và trang bị vũ khí cho ngụy quân Sài Gòn, với hy vọng tạo thế chiến lược mới, giành lại quyền chủ động trên chiến trường.

Về phía ta, sau thắng lợi Chiến dịch Bình Giã (2-12-1964/3-1-1965), tốc độ xây dựng lực lượng chủ lực được đẩy nhanh. Tại Nam Bộ, trong 2 tháng đầu năm 1965, ta đã xây dựng thêm được 2 trung đoàn (3, 4); các đơn vị được trang bị thêm một số loại vũ khí như súng tiểu liên AK, súng chống tăng B40..., góp phần nâng cao đáng kể sức mạnh chiến đấu cho bộ đội cả về vật chất và tinh thần.

Cùng với việc xây dựng lực lượng và tăng cường vũ khí, trang bị, những bài học kinh nghiệm tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực rút ra từ chiến dịch Bình Giã cũng nhanh chóng được phổ biến và đưa vào huấn luyện cho bộ đội, kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển mới của chiến trường.

Căn cứ vào nhiệm vụ chiến lược do Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra là tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, nhanh chóng thực hiện những đòn đánh tiêu diệt lớn hơn, đẩy nhanh sự suy sụp, tan rã của ngụy quân Sài Gòn, kiên quyết đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền quyết định mở đợt hoạt động Xuân - Hè 1965, trọng điểm là Chiến dịch Đồng Xoài nhằm đánh bại ngụy quân Sài Gòn trước khi Mỹ tăng quân vào chiến trường miền Nam.

Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đồng Xoài gồm các đồng chí: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh kiêm Chính ủy (giai đoạn cuối chiến dịch bổ sung đồng chí Trần Độ - Chính ủy); Hoàng Cầm - Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng; Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà) - Phó tư lệnh, Lê Văn Tưởng - Phó chính ủy.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 3 trung đoàn bộ binh (271, 272, 273, còn có tên gọi khác là 1, 2, 3), 2 tiểu đoàn đặc công và một số đơn vị pháo binh, công binh của chủ lực Miền; 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh của Quân khu 6 cùng lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh Bình Long, Phước Long, Lâm Đồng, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa.

Về lực lượng địch ở khu vực Đồng Xoài và 2 tỉnh Bình Long, Phước Long có 9 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn biệt động quân, 1 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn và 7 đại đội bảo an, 21 đại đội biệt kích, 1 chi đoàn thiết giáp; cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ đạo thực hiện chương trình bình định nông thôn tại đây.

Với phương pháp kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với tiến công chính trị và binh vận, tích cực tiêu diệt địch, phát động nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, phát triển chiến tranh nhân dân, mở rộng và củng cố vùng giải phóng; thực hiện đánh điểm để diệt viện, Chiến dịch diễn ra 3 đợt:

Đợt 1 (từ ngày 10 đến ngày 31-5-1965), ta đánh điểm để kéo viện. Đêm ngày 10 rạng sáng ngày 11-5-1965, Tiểu đoàn bộ binh 1 Trung đoàn 271 cùng Tiểu đoàn bộ binh 840 và đặc công tiến công thị xã Phước Long, đồng thời Tiểu đoàn bộ binh 1 Trung đoàn 272 tiến công chi khu quân sự Phước Bình. Địch đưa 4 tiểu đoàn đến giải tỏa, ta không tiêu diệt được.

Đợt 2 (từ ngày 9 đến ngày 20-6-1965), ta lập thế để đánh trận then chốt. Đêm 9-6-1965, Trung đoàn 272 cùng Tiểu đoàn bộ binh 2 Trung đoàn 273 tiêu diệt chi khu Đồng Xoài, sau đó liên tiếp đánh quân viện, tiêu diệt gọn 3 tiểu đoàn ở khu vực Đồng Xoài, Thuận Lợi, Phú Riềng.

Đợt 3 (từ ngày 24-6 đến ngày 22-7-1965), tiếp tục đánh địch ở Bù Đốp, Bầu Bàng, đường 13, 15.

Kết quả chung toàn chiến dịch, ta đã tiêu diệt 4 tiểu đoàn chủ lực (trong đó có 1 tiểu đoàn dù thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược), 24 đại đội bảo an và biệt kích, 6 chi đội cơ giới, 4 phân đội kĩ thuật, loại khỏi vòng chiến đấu gần 4.500 quân địch, bắn rơi 34 máy bay, phá hủy 60 xe quân sự, 6 đầu máy và 12 toa xe lửa, thu và phá hủy hơn 2 nghìn súng, pháo các loại, giải phóng hơn 50 nghìn dân thuộc 2 tỉnh Bình Long và Phước Long, góp phần khai thông biên giới sang Campuchia, nối liền hành lang chiến lược từ miền Bắc qua đường Trường Sơn vào miền Đông Nam Bộ.

Cùng với các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, thắng lợi của Chiến dịch Đồng Xoài góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam; đánh dấu bước trưởng thành mới về trình độ tổ chức chuẩn bị và tác chiến tập trung, cũng như trình độ tổ chức và điều hành chiến dịch của đội ngũ cán bộ, chỉ huy, khả năng hiệp đồng trong tác chiến vận động của các lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam.

Miệt mài đi tìm đồng đội trên đất bạn

 

Để tìm kiếm, quy tập, hồi hương 1.428 hài cốt liệt sĩ (HCLS) Quân tình nguyện Việt Nam hy sinh trong các thời kỳ chiến tranh ở Campuchia, gần 20 năm qua, cán bộ, chiến sĩ Đội K52 (Bộ CHQS tỉnh Gia Lai) đã đặt chân đến 1.200 buôn làng, đào bới hơn 95.000m3 đất đá, rà phá hàng trăm quả đạn và các vật liệu nổ trên đất bạn.

Năm 2000, thực hiện sự chỉ đạo của thủ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh Quân khu 5, Bộ CHQS tỉnh Gia Lai đã tham mưu với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Gia Lai thành lập Ban chuyên trách “Tìm kiếm, quy tập và hồi hương HCLS Quân tình nguyện Việt Nam” và thành lập Đội K52. Năm 2001, Đội K52 bắt đầu đi vào hoạt động.

Theo Đại tá Lê Tuấn Hiền, Chính ủy Bộ CHQS tỉnh Gia Lai, xác định tìm kiếm, quy tập HCLS là nhiệm vụ quan trọng, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc nên Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh đã quán triệt và làm tốt công tác chuẩn bị từ con người đến phương tiện, làm tốt công tác giáo dục để anh em trong đội xác định rõ nhiệm vụ và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, lòng quyết tâm cùng với tinh thần đoàn kết vượt qua khó khăn. Bên cạnh đó, đơn vị tổ chức huấn luyện, truyền thụ kinh nghiệm trong tìm kiếm, cất bốc HCLS và trong thực hiện công tác dân vận, nên luôn được nhân dân Campuchia tin tưởng, giúp đỡ, phối hợp, hướng dẫn, chỉ những nơi chôn cất liệt sĩ.

Ở đất nước chùa tháp, khí hậu một năm chỉ có hai mùa. Mùa mưa thì mưa dầm dề, sông suối nước dâng cao ngăn cách, khó cơ động lực lượng, còn mùa khô thì rất nắng nóng, nhiệt độ trung bình 38-40 độ C. Trong khi đó, đường đi tìm kiếm ngày càng xa, dấu tích bị thay đổi bởi thời gian, địa hình phức tạp, nhiều sông suối, rừng núi cao, để tìm được 1.428 HCLS Quân tình nguyện Việt Nam, anh em Đội K52 đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, kể cả hy sinh thân mình vì nhiệm vụ. Có những vị trí như ở Ô Kriêng, Ô Prẹ... tỉnh Stung Treng, anh em tìm kiếm ròng rã đến 6 mùa khô, đào bới hàng trăm mét khối đất đá. Nhiều lúc tìm thấy HCLS chưa xác định được tên tuổi, nhìn những hiện vật là chiếc lược, chiếc vòng tay, chiếc lưỡi câu trong túi áo liệt sĩ... anh em lau nước mắt, cẩn thận hương khói, gói ghém HCLS đưa về đất mẹ. Một lần đi tìm HCLS ở phía tây bắc Stung Treng, lúc về trời tối, gặp dòng nước xoáy, ca nô bị lật, nhưng các anh vẫn ôm chặt những bộ hài cốt của đồng đội vừa mới tìm được...

Gặp chúng tôi khi đang cùng anh em khai quật, tìm kiếm HCLS ở An Khê, Thượng tá Nguyễn Xuân Toản, Đội trưởng Đội K52 cho biết: “Đặc thù của Đội K52 là đi công tác xa nhà, xa Tổ quốc. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, đơn vị đã tổ chức huấn luyện, truyền thụ kinh nghiệm về “Quy luật chôn cất mai táng”, phương pháp tìm kiếm, cất bốc, quy tập... Thực hiện nhiệm vụ ở 3 tỉnh của nước bạn, gồm: Stung Treng, Ratanakiri và Preah Vihear, dù quân số phân tán, nhưng các nền nếp, chế độ của đội vẫn được duy trì nghiêm túc. Đội thực hiện tốt công tác vận động chính quyền, bà con nhân dân Campuchia tin tưởng vào bộ đội Việt Nam, phối hợp cùng các lực lượng và tìm kiếm HCLS".

Nghe anh em trong đội kể lại, chúng tôi được biết, ông Khum Sai, 80 tuổi ở Phum Klê, Khum Xiêm Hộp đã chống gậy đi hơn 20km dẫn đường chỉ vị trí mộ liệt sĩ, ông Tà Phan ở Preah Vihear 76 tuổi đã dẫn anh em trong đội đi gần 25km đường rừng Khộp để chỉ nơi yên nghỉ của 3 liệt sĩ. Đặc biệt là hình ảnh Trung tướng Kham Suk, Chỉ huy trưởng Tiểu khu Quân sự tỉnh Ratanakiri đã tạo điều kiện cho đội công tác, dẫn đường và vận động bà con các buôn chỉ vị trí an táng liệt sĩ bộ đội Việt Nam.

Trao đổi với chúng tôi trong một lần cùng đoàn công tác sang hội đàm với Ban chuyên trách và dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Đức Cơ (Gia Lai), Trung tướng Kham Suk cho biết: “Sau khi có chủ trương của hai nhà nước, chúng tôi tạo mọi điều kiện cho anh em đội K52 trong việc tìm kiếm, quy tập HCLS. Nhân dân Campuchia có được độc lập, cuộc sống người dân tự do, ấm no như ngày hôm nay, chúng tôi biết ơn Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam và các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh thân mình vì sự trường tồn của đất nước chùa tháp. Mong sao Đội K52 hoàn thành việc tìm kiếm, nhanh chóng đưa các liệt sĩ trở về với Tổ quốc Việt Nam”.

Đi tìm đồng đội trên đất bạn Lào

 

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Giúp bạn là tự giúp mình”, trong cuộc chiến chống kẻ thù chung, nhiều cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, hy sinh trên đất bạn Lào, nhưng vì nhiều nguyên nhân đến nay chưa tìm được hài cốt. Đó là điều trăn trở không chỉ thân nhân các liệt sĩ, mà còn là nỗi niềm đau đáu khôn nguôi của hai dân tộc Việt Nam - Lào. Hôm nay, giữa núi rừng Trường Sơn, bước chân thầm lặng của cán bộ, chiến sĩ các Đội Quy tập hài cốt liệt sĩ Quân khu 4 vẫn ngày đêm băng rừng, lội suối nơi đèo cao, vực thẳm, tìm kiếm các hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trên đất bạn Lào để đón các anh về với đất mẹ thân yêu.

Trên hành trình đi tìm đồng đội, các anh luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền, lực lượng vũ trang, các tổ chức đoàn thể và người dân nước bạn Lào. Đến nay, các Đội Quy tập hài cốt liệt sĩ Quân khu 4 đã tìm kiếm, cất bốc, hồi hương được hơn 25.400 hài cốt liệt sĩ tại Lào về nước.

Đi tìm đồng đội trên đất bạn Lào

Người dân bản Bua La Pa, huyện Không Sê Đôn, tỉnh Sa La Văn, Lào chỉ đường cho Đội Quy tập hài cốt liệt sĩ 192, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế đi tìm đồng đội. 

Đi tìm đồng đội trên đất bạn Lào

Lực lượng vũ trang Lào bảo vệ Đội Quy tập hài cốt liệt sĩ 584, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Trị tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ tại bản Lạy Ka Thạ, huyện Át Xạ Phăng Thong, tỉnh Sa Vẳn Na Khệt, Lào.

Đi tìm đồng đội trên đất bạn Lào

Cán bộ, nhân viên Đội Quy tập hài cốt liệt sĩ 589, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình cất bốc hài cốt liệt sĩ tìm được tại hang Lợn, bản Pha Nang, huyện Mạ Hả Xay, tỉnh Khăm Muộn, Lào.

Đi tìm đồng đội trên đất bạn Lào
Nghĩa tình quân dân trên đất bạn Lào. 
Đi tìm đồng đội trên đất bạn Lào

Tổ chức Lễ an táng hài cốt liệt sĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Nầm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Đi tìm đồng đội trên đất bạn Lào

Đoàn công tác Cục Chính sách (Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam) và cán bộ Quân đội nhân dân Lào thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc tế Đồng Tâm, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.

Vị tướng hơn 30 năm đi tìm đồng đội

 

“Từ năm 1993, tôi bắt đầu đi tìm đồng đội, đến nay đã tìm được hơn 250 hài cốt liệt sĩ, trong đó có hơn 50 hài cốt liệt sĩ xác định được danh tính và đưa về an nghỉ ở quê hương; phối hợp với các địa phương tìm kiếm hài cốt 150 đồng đội đưa về quê an táng”.

Đó là tâm sự của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh, thương binh hạng 2 với tỷ lệ thương tật 78%, nguyên Phó tư lệnh về Chính trị Quân đoàn 4, nguyên Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2, hiện sống tại phường 5, quận Bình Thạnh (TP Hồ Chí Minh).

Tôi gặp lại Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh trong buổi ra mắt Hội truyền thống Trường Sĩ quan Lục quân 2 tại TP Hồ Chí Minh, cuối tháng 8-2024. Dù đã 85 tuổi, nhưng trông ông vẫn khỏe khoắn, nhanh nhẹn. Ông bảo, chắc tại mình băng rừng vượt suối nhiều năm nên xương chắc khỏe. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh vốn dạn dày trận mạc, ông từng tham gia nhiều trận đánh trên khắp các chiến trường. Một trong những kỷ niệm khó quên, trở thành động lực thôi thúc ông dành hết tâm sức, thời gian đi tìm hài cốt liệt sĩ tri ân đồng đội chính là từ một lần chết hụt. Ông kể:

- Năm 1966, tôi là Trung đội trưởng Trung đội 6, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7, Quân đoàn 4 ngày nay). Sau khi hành quân vào Nam, ngày 10-8-1966, trung đội tôi tham gia trận đánh đầu tiên tại Đường 10-Vĩnh Thiện (nay thuộc huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước). Đơn vị chiến đấu ngoan cường với lính biệt kích ngụy, nhưng sau đó chúng tôi bị lọt vào ổ phục kích của địch. Tôi bị thương vỡ quai hàm, đứt cơ đùi, máu chảy rất nhiều không cầm được. Đồng đội yểm trợ đưa tôi về phía sau. Trên đường đi bị địch đánh chặn, đồng đội vừa chiến đấu vừa cõng tôi rút vào rừng. Do mất máu nhiều nên tôi kiệt sức, chết lâm sàng. Anh em tưởng tôi đã hy sinh. Đến khu vực nghĩa trang dã chiến của đơn vị, do mệt mỏi, trời lại tối nên anh em đặt tạm tôi xuống huyệt đào sẵn, lấy võng đắp lên đợi sáng mai sẽ mai táng.

Sáng sớm hôm sau, Tiểu đội phó Bế Ích Quân và hai chiến sĩ ra an táng ông. Đang xúc đất lấp mộ, chợt đồng chí Quân nhớ ra hình như chân anh Doanh không đi dép. Nghĩ vậy, đồng chí Quân nhảy xuống hố, sờ chân thủ trưởng xem có mang dép hay không để cởi dép của mình đeo vào chân ông. Bất giác, đồng chí Quân hét lên: “Dừng lại, chân anh Doanh còn ấm”. Thế là anh em vội bới đất đưa Trung đội trưởng Doanh lên và chuyển gấp tới cấp cứu tại đội phẫu của đơn vị, rồi chuyển đi bệnh viện tuyến trên. Lần đó ông phải điều trị suốt 5 tháng 10 ngày mới bình phục trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Câu chuyện về lần chết hụt ấy mãi đến khi gặp lại Đại tá, cựu chiến binh Bế Ích Quân, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh mới được nghe kể lại. Hai chiến sĩ tham gia cứu ông cũng đã hy sinh. Từ đó, ông đau đáu nỗi niềm tri ân đồng đội, mải miết đi tìm hài cốt những chiến sĩ đã anh dũng nằm lại chiến trường…

- Tôi sống lại từ lằn ranh sinh tử, từ tình cảm của đồng đội. Nếu như không vì đồng đội thương tôi chân không mang dép xuống cõi hoàng tuyền thì tôi đã chết từ mấy chục năm trước. Bởi vậy, cả cuộc đời còn lại tôi nguyện dành để trả ơn đồng đội, dốc sức đưa hài cốt anh em về với người thân – Vị tướng già quả quyết.

Kể từ khi nghỉ hưu, năm 1993 Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh bắt đầu hành trình tìm kiếm hài cốt liệt sĩ. Địa điểm khởi đầu là nơi ông từng bị thương năm 1966. Cứ thế, bước chân ông đã in trên khắp các chiến trường năm xưa. Hành trang ông mang theo là những tập sơ đồ, bản vẽ phác họa địa hình, là danh sách liệt sĩ và ký ức một thời đạn lửa cùng trái tim nhiệt huyết hướng về đồng đội đã hy sinh. Mỗi chuyến đi của ông là một lần nỗ lực, tự bỏ tiền túi, tự thuê xe vượt hàng trăm cây số, đi đến tận những cánh rừng thăm thẳm, xa xôi, bởi ở đâu đó vẫn văng vẳng bên tai ông tiếng gọi của đồng đội mong sớm được “trở về”. Chặng đường hơn 30 năm đi tìm hài cốt liệt sĩ, ông đã gặp không ít kỷ niệm vui, buồn không thể nào quên.

Một trong những kỷ niệm mà ông xót xa và khâm phục những người vợ ròng rã tìm mộ phần của chồng với nghị lực phi thường dù niềm hy vọng mong manh. Đó là trường hợp vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Hưởng, quê ở Nam Định. Bà đã bỏ lại gia đình, vào Nam thuê nhà ở để tiện tìm hài cốt của chồng. Bà đi làm thuê, cứ đủ tiền ăn là lại đi dò hỏi, lần tìm thông tin về mộ phần của chồng, gặp hết nhân chứng nọ, đồng đội kia, cứ nhen lên hy vọng rồi lại vụt tắt… Đằng đẵng mấy chục năm trời, cuối cùng bà cũng toại nguyện tìm được hài cốt chồng nhưng không có tiền để đưa về quê an táng. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh cùng ban liên lạc đã hỗ trợ kinh phí, tổ chức đưa hài cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Hưởng về quê, rồi xây nhà tình nghĩa tặng vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Hưởng để thuận tiện thờ phụng chồng.

Hay, trường hợp vợ liệt sĩ Cốt, chính trị viên đại đội, dù đã tái giá nhưng vẫn dành thời gian đi tìm hài cốt của chồng. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh đã đồng hành với thân nhân liệt sĩ Cốt suốt 12 năm. Đồng chí Cốt được chôn cất vào hòm đạn đại liên bằng kẽm nên khi tìm thấy vẫn còn toàn bộ xương và một số kỷ vật… Mỗi lần tìm thấy hài cốt và đưa được đồng đội trở về, ông lại thấy nhẹ lòng đôi chút!

Mới đây, gặp ông tại nhà riêng ở TP Hồ Chí Minh, ánh mắt ông phảng phất một nỗi buồn thăm thẳm. Tôi gặng hỏi, ông mới giãi bày:

- Tuổi chú đã cao, sức dần cạn kiệt nên không thể tiếp tục đi tìm đồng đội như trước. Nhưng chú vẫn day dứt vì còn rất nhiều đồng đội ở Quân đoàn 4 hy sinh chưa tìm được mộ phần; có những trường hợp còn chưa được công nhận là liệt sĩ dù đã có nhân chứng xác nhận, có hồ sơ chiến đấu nhưng vẫn còn vướng nhiều thủ tục. Thời gian chẳng chờ đợi, chắc chú không kịp làm tròn tâm nguyện, không thể đưa thêm đồng đội về quê…”.

Ông bỏ lửng câu nói, tay run run lật từng trang sổ ghi danh sách liệt sĩ của Quân đoàn 4. Giọt nước mắt của vị tướng già bất giác lăn dài trên đôi gò má nhăn nheo… Nỗi xót xa của ông cũng thật dễ hiểu bởi thời gian càng lùi xa thì thông tin về mộ phần liệt sĩ càng ít đi. Nhân chứng vơi dần, địa hình đổi thay nên việc tìm kiếm càng thêm gian khó. “Mong sao đồng đội của chú hy sinh trên các chiến trường sẽ sớm được tìm thấy, đưa về với quê hương, gia đình, người thân. Đó cũng là điều mà chú luôn canh cánh trong lòng, mong lắm có một ngày như thế!” – Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh bày tỏ.

Gia đình riêng của vị tướng trận

 

Một người trọn cuộc đời binh nghiệp như Trung tướng Lư Giang, hiển nhiên có quá ít thời gian dành cho người thân. Bao nhiêu thăng trầm trải mấy miền đất nước. Bao nhiêu đồng đội ngã xuống xanh cây cỏ, núi rừng.

Biên soạn cuốn Hồi ký của Trung tướng Lư Giang, lắm lúc, tôi thấy lòng mình thắt lại, lặng đi trước những số phận người thân của vị tướng chiến trận này.

Người vợ đầu của ông, cô thanh nữ Trương Thị Hạnh, người con gái đẹp quê Giáp Sơn, Lục Ngạn, Bắc Giang, mất khi mới tròn 24 tuổi. Thuở ấy, hai gia đình đều danh giá, môn đăng hộ đối, nên việc trăm năm của đôi trẻ sớm thành. Buổi đón dâu độc đáo, cô dâu như một nữ hiệp, váy trắng, mũ trắng, giày, tất trắng, cưỡi ngựa trắng thuần thục bên chú rể nho nhã, thư sinh, rụt rè, nhỏ bé. Pháo nổ vang trời mừng đôi trai tài gái sắc.

Trong căn nhà nhỏ nằm ở một góc khuất cuối thành phố Hà Nội, sát Đoàn Nghi lễ 781 (tiền thân của Đoàn Nghi lễ Quân đội), người con gái đầu Lê Thị Chinh của Trung tướng Lư Giang, khi tôi đến thăm năm 2007, đã lên chức bà ngoại, lặng lẽ khóc. Mắt chị khóc mà như cười, lấp lánh sáng, nhìn lên bức ảnh cha mình. Ngoài kia, con sông Hồng đang chảy. Sông Hồng như càng thắt ruột thắt gan, vặn mình ra biển. Và, ở nơi biển xanh, trời xanh, mây trắng, hẳn Trung tướng Lư Giang vẫn đang dõi theo người con gái nhỏ bé, mới lọt lòng đã chịu nhiều thua thiệt. Chồng chị Lê Thị Chinh cũng đã mất, ra đi đã mấy năm, theo người cha suốt đời chiến trận. Nhắc đến chồng, nước mắt người phụ nữ lại nhỏ xuống.

Khi sinh ra không biết mặt cha, lên hai tuổi, chị Chinh lại mồ côi mẹ. Quãng đời đó vô cùng cơ cực với đứa trẻ lên hai. Kháng chiến bùng nổ. Người bố, chiến sĩ Lư Giang vào chiến trường. Khi ấy, cô bé hai tuổi không hiểu được cảnh loạn lạc. Chỉ sau này, chị mới hiểu thế nào là mất mát.

Trong đội quân Nam tiến năm 1945, không ít lúc, Chi đội trưởng Lư Giang lặng im dõi về đất Bắc. Ở đó, có những phần máu thịt của ông. Sau này, năm 1954, khi tập kết ra Bắc, bộn bề công tác đoàn thể, mãi đến năm 1956, ông mới biết rõ hoàn cảnh gia đình mình.

Vợ ông bị ép lấy tên lý trưởng, liền sau đó uất ức mà chết. Bố ông, người hào phú học rộng biết nhiều, bị giặc bắt, giam cầm và đánh chết vì có các con đi kháng chiến. Đứa con gái bé bỏng của ông ở với chú, dì, xóm mạc vùng đất Võ Tranh đá sỏi, cũng bị soi mói, đe dọa.

Lư Giang lặng im, dõi vào cõi lòng mình. Và kể từ đó, là một Lư Giang khác. Dũng cảm, kiên định, táo bạo, tỉnh táo, gan góc trong suốt hai cuộc kháng chiến. Một nghị lực, một niềm tin sắt đá, cháy bền bỉ, đã tạo nên một Lư Giang bằng “thép” trên các chiến trường ác liệt.

Trở lại với người con gái nhỏ thiếu cha, mồ côi mẹ từ tấm bé Lê Thị Chinh, đang se sắt ngồi trong phòng khách đơn sơ. Chị kể: “Tôi được ở bên cha, cộng từng giờ cũng chỉ khoảng hơn một năm, lại chia thành nhiều giai đoạn. Cha tôi chủ yếu ở chiến trường. Bố mất, vợ mất - ở chiến trường. Con gái cưới, sinh nở - ở chiến trường. Mọi chuyện học hành, công tác, nơi ăn, nơi ở, chúng tôi tự lo. Mà chủ yếu dựa vào tổ chức”.

Chị Chinh có ba người con gái. Lên chức bà, lại một thân một mình chăm sóc cháu. Chồng chị, bác sĩ quân y, mất vì bệnh nặng. Những ngày con rể ốm, Lư Giang đến thăm, mắng yêu: “Cha mi. Mi chết trước tao là không được đâu. Tao không khóc mi đâu. Cố mà sống chứ, con...”. Lúc ấy, Lư Giang khẽ cười, nụ cười nhăn nheo, hiếm hoi của người lính trận.

Thương bố là thế, mà cũng có lần chị Chinh cự lại bố mình. Ấy là dạo ông mới học ở Liên Xô và Cuba về. Cứ mỗi tháng, ông lại họp toàn bộ đại gia đình lại (vợ và con gái, con rể đều là bộ đội, đảng viên), ra nghị quyết, có thư ký hẳn hoi (thường là người vợ sau của ông).

Cuộc họp luôn diễn ra căng thẳng, kiểm điểm tình hình mọi mặt, đề ra các nhiệm vụ trong tháng, trong quý. Đến lần thứ ba thì cô con gái cả không chịu, bảo thôi cha ơi, đã suốt ngày họp hành ở cơ quan rồi, giờ về lại họp, lại nghị quyết thì mệt lắm, và chị bỏ. Trung tướng Lư Giang nghiêm khắc là thế, cũng cười xòa.

Tôi lặng người trước câu nói của bác Hàn Thị Trang, người vợ sau, người bạn đời thủy chung, son sắt của Trung tướng Lư Giang: “Nhà tôi suốt đời chưa bao giờ có được một ngày nghỉ ngơi, sung sướng”. Khó khăn, gian khổ đã tôi luyện những người phụ nữ trở nên can đảm, kiên cường, biết nhường nhịn, yêu thương, hy sinh vì chồng, vì con, vì cái chung, vì nghĩa lớn.

Đại tá Hàn Thị Trang là điển hình của mẫu người phụ nữ kiên nghị, biết thu xếp mọi công việc trong gia đình, để chồng an tâm công tác. Là vợ một vị tướng trận, hơn ai hết, bà Trang hiểu mình phải làm gì trong những giờ phút khó khăn nhất. Bản thân bà cũng nhiều lần vào chiến trường, lên tuyến đầu chiến đấu, công tác. Trong đại gia đình Trung tướng Lư Giang, bà Trang như một người Chính ủy mềm mỏng và cương quyết. Nhắc đến ông, nhiều lần nước mắt bà nhỏ xuống.

Bà Trang châm mấy nén hương. Khói hương vẽ lên trần nhà những nét trắng đùng đục, ngoằn ngoèo. Khói hương lan tỏa, chia ly, cách trở. Đã bao nhiêu đồng đội của ông hy sinh. Đã bao nhiêu lần bà và ông lặng im bên những nấm mộ liệt sĩ có tên hoặc khuyết danh ở các nghĩa trang trên cả nước. Là một vị tướng trận, ông đã bao đêm thức trắng, tính toán chi li, tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội.

Câu chuyện về hai cô con gái của Trung tướng Lư Giang với bà Hàn Thị Trang khiến tôi rất xúc động. Xúc động về đức hy sinh của gia đình vị tướng. Ngay sau đám cưới một thời gian, khi hai cô con gái còn bé bỏng, năm 1964, Lư Giang nhận mệnh lệnh trở lại chiến trường Khu 5, nơi trận chiến đang diễn ra cực kỳ ác liệt. Tạm biệt mái ấm gia đình, Lư Giang lên đường bước vào cuộc chiến đấu. Những đêm đầu trên đường hành quân, hẳn ông không thể nào quên hai con gái bé bỏng và người vợ dịu hiền. Cuộc kháng chiến, một lần nữa, thử thách gia đình người lính.

Chị Lê Thị Hải Lê rất giống cha mình, lặng lẽ, kiên nghị và có phần bướng bỉnh. Hai chị em Hải Lê và Đông Phương sớm có cuộc sống tự lập, từ khi mới năm, sáu tuổi. Ngay sau khi Lư Giang đi chiến trường, năm 1965, theo yêu cầu nhiệm vụ, bà Hàn Thị Trang cũng vào tuyến lửa. Hai đứa trẻ đứng vịn tựa vào nhau, tìm mẹ bên vệ đường lầm bụi đất trong đêm tối. Bà Trang nhớ con, sợ không đi nổi, đã lén đi vào lúc nửa đêm.

Hai chị em bìu ríu chăm sóc nhau, đến năm 1967, được tổ chức gửi sang Trung Quốc học ở Quế Lâm. Khi ấy, Đông Phương còn bé, vào lớp mẫu giáo và Hải Lê vào lớp 1. Nơi đất nước Trung Hoa mênh mông, những đứa trẻ Việt Nam chập chững đến trường, trong tình yêu thương của thầy, của bạn. Đông Phương, cô bé mẫu giáo xinh xinh trường Quế Lâm ngày nào, hiện đã là Đại tá, bác sĩ quân y Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hẳn không thể nào quên tuổi thơ sớm xa gia đình, sớm đứng trong đoàn thể của mình.

Có những lúc, chị em Hải Lê - Đông Phương hầu như không còn nhớ khuôn mặt cha mình. Năm 1974, trong một lần ra Bắc báo cáo tình hình mặt trận với Bộ Tổng tư lệnh. Lư Giang về thăm con, hai đứa trẻ bấy giờ đã lớn. Hải Lê năm ấy đã 13 tuổi, đứng nép vào góc nhà sợ sệt. Cha đây con! Hai con gái nhỏ lấm lét nhìn người đàn ông đen sạm, khắc khổ, gầy gò đang nhận là cha mình. Hai đứa trẻ nhìn nhau. Đông Phương ngước mắt nhìn chị dò hỏi. Rồi, với sự linh cảm ruột rà, Hải Lê dắt em chạy đến ôm cha. Ba bố con đều khóc. Đêm ấy, Lư Giang không ngủ. Đêm ấy, vợ ông đang ở chiến trường.

Cảm nhận tình cảm của cha mẹ, đặc biệt là người cha dành cho mình, Hải Lê và Đông Phương thường ít nói về những quan tâm bề nổi, mà luôn nhắc đến chiều sâu nhân cách của ông. Ông là một tấm gương về đạo đức sống, lề lối làm việc, tác phong công tác rất chuẩn mực và cao hơn cả, là một tấm lòng nhân văn hiếm thấy. Có lẽ, do đã chứng kiến quá nhiều sự hy sinh của đồng chí, đồng đội, mà ông cực kỳ quý trọng con người, vì con người, coi trọng học đạo làm người là trên hết, hơn mọi thứ phù hoa, phú quý ở đời. Có thể nói rằng, số phận đã giáng vào đời ông, người thân của ông những đòn ghê gớm. Nhưng, cũng chính từ lầm than ấy, ông đã vùng lên, nén đau thương, mất mát, để đứng dậy. Ở ông, nghị lực, ý chí và niềm tin luôn cháy bỏng, bền bỉ và kiêu hãnh, trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình.

Trong những trò chuyện với bác Trang, chị Chinh, chị Lê, chị Phương, tôi như nghe thấy tiếng chim lích rích đâu đó vọng về. Tại sao trò chuyện về chiến trận, không phải là tiếng súng, mà lại là tiếng chim lích rích buổi bình minh được nhỉ? Tiếng chim sẻ, chim ri, chích bông, sáo sậu từ Gàng, Võ Tranh, Lục Nam, Bắc Giang? Hay tiếng chim từ những khu rừng đại ngàn Khu 5? Hay là tiếng chim từ cây khế góc vườn nhà Trung tướng Lư Giang? Không biết từ đâu, nhưng tiếng chim vẫn lích rích len vào tâm trí tôi, một người trẻ tuổi, một thế hệ cầm bút và cầm súng, nối tiếp con đường cha anh lựa chọn. Tiếng chim ấm áp, da diết, vang sâu trong tâm hồn mỗi người ngồi đây, đang nhớ đến ông, một người lính, một vị tướng, một người cha, người chồng bình dị. Có những lúc, mọi người đều im lặng, để tiếng chim thầm hót trong trái tim mình, riêng chung, ngọt ngào, thấm đẫm.

Và, thật kỳ diệu, sau tiếng chim, là ánh nắng chan hòa ùa đến. Nắng lên. Nắng tràn lên những cỏ cây, bảng đồng, bia đá. Nắng bừng lên dưới sắc cờ. Nắng tràn lên các góc phố, nóc nhà, vạt đồi, đỉnh núi, đáy khe. Nắng tung tăng bước chân em nhỏ tới trường, ngôi sao chiến sĩ nơi biên giới, hải đảo. Nắng rọi vào những số phận được-mất, hy sinh, lẫm liệt, vinh quang...