Thứ Năm, 9 tháng 5, 2019

Đôi điều suy ngẫm về chiến tranh và những nguy cơ mầm mống gây xung đột, mầm họa của chiến tranh

Tôn Tử nói: "Chiến tranh là đại sự của quốc gia, quan hệ tới việc sống chết của nhân dân, sự mất còn của nhà nước".
Chiến tranh là bạo lực không giới hạn, chỉ đem lại những đau khổ và mất mát, chiến tranh không tránh khỏi gieo rắc cái chết, tàn phá hết mọi thành quả lao động của toàn xã hội đã dày công vun đắp, xây dựng được.
Khi đất nước hòa bình, mỗi người dân đều được hưởng cuộc sống thanh bình, hoạch định công ăn việc làm, nuôi dạy con cái, hăng hái lao động sản xuất trước hết là để vun đắp hạnh phúc cho gia đình, bản thân và cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy đất nước phát triển phồn vinh. Nhưng một khi đất nước chỉ cần đứng trước nguy cơ bên bờ vực chiến tranh (chứ chưa nói đến việc xảy ra chiến tranh), thì đã gây ra sự đảo lộn, xáo trộn đến tất cả sinh hoạt cuộc sống, có ai còn yên tâm để xây dựng, vun đắp cho tương lai của chính bản thân, gia đình mình.
Mặc dù vậy, từ xưa đến nay, trong mỗi một đất nước, vẫn thường tồn tại những người/nhóm người vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm hoặc những kẻ biến thái trở thành tội phạm gây ra những thiệt hại về vật chất, tinh thần cho xã hội. Các hành vi tội phạm đang len lỏi trên khắp các lĩnh vực của cuộc sống từ các hành vi tội phạm hình sự, khủng bố, tội phạm kinh tế, tham ô, tham nhũng cho đến những hành vi chống phá Nhà nước nhằm gây bất ổn về chính trị. Những hành vi tội phạm là cội nguồn gây ra những bất ổn cho xã hội, là mầm mống sinh ra những xung đột, nếu để leo thang mất kiểm soát thì nguy cơ chiến tranh sẽ hiện hữu. Ở Việt Nam, những kẻ tội phạm đều bị phơi bày ra ánh sáng và phải nhận lấy kết cục xứng đáng, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, người dân vững tin vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Trong thời đại ngày nay khi mà cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang bùng nổ, mọi người đều dễ dàng tiếp nhận các thông tin đặc biệt là thông tin trên mạng. Các hành vi tội phạm khi phát hiện và xử lý đều được báo chí đưa tin và nhanh chóng được người dân cập nhật kịp thời, qua đó người dân được cảnh tỉnh cùng lên án, chung sức chống lại những hành vi tội phạm, có tác dụng ngăn chặn, răn đe những kẻ đã, đang và có ý đồ phạm tội để vun vén lợi ích cá nhân, gây thiệt hại và bất ổn cho xã hội.
Thế nhưng, có những nhóm người vẫn đang lợi dụng mạng xã hội, thường xuyên lợi dụng những vấn đề, tin tức nóng để cố tính đưa tin sai sự thật, cố tình bóp méo, thổi phồng quá mức, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Điển hình như nhóm người tự xưng lập đảng Việt Tân, dùng facebook Việt Tân để đưa tin bài xuyên tạc với các thủ đoạn đê hèn như photoshop, cắt ghép ảnh đánh lừa người đọc, giọng điệu hết sức tục tĩu, vô văn hóa. Thật đáng buồn cho những hãng công nghệ lớn như Facebook, Youtube... cho dù mang lại những công nghệ tiện ích cho người dùng nhưng vô tình lại trở thành công cụ cho những kẻ phá hoại. Những người này vẫn luôn rêu rao chiêu bài quyền dân chủ, quyền tự do ngôn luận. Thật là một thứ "dân chủ biến thái", khi mà những hành vi, phát ngôn của họ là nhằm cố tình gây hoang mang dư luận, gây bất ổn cho xã hội và không dừng lại ở mức độ chỉ phát ngôn, bọn chúng còn tuyên truyền, kích động và cả thuê người dân tụ tập biểu tình, phá hoại cơ sở vật chất. Không thể chấp nhận một kiểu "dân chủ biến thái" kiểu như chỉ mong muốn xã hội rối loạn để mà "đục nước béo cò" nhằm đạt được mục đích lợi ích nhóm riêng mình. Chỉ cần tìm hiểu qua cũng có thể thấy được những mục đích đen tối của những nhóm người này. Như nhóm đảng Việt Tân, từ ngày thành lập đến nay vẫn luôn thực hiện những chiêu bài kêu gọi tài trợ của các tổ chức nước ngoài, của những người Việt ở nước ngoài nhẹ dạ, cả tin để chiếm đoạt tiền bạc phục vụ các cá nhân trong tổ chức nhóm, thậm chí đã từng tổ chức đe dọa ám sát các nhà báo đã phanh phui bản chất hoạt động của tổ chức này (tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%A7ng_b%E1%BB%91_%E1%BB%9F_Little_Saigon).
Những hành vi của những kẻ này chính là những mầm mống gây xung đột, phá hoại đất nước, đích thị chúng là những kẻ tội phạm cần phải được trừng trị đích đáng. Mặc dù vậy, những kẻ này đa phần đều sống ở nước ngoài, thông qua mạng thông tin xã hội để thực hiện những hành vi phạm tội đê hèn.  Cho dù pháp luật của Việt Nam có thể khó khăn trong việc xử lý chúng, nhưng mỗi người công dân Việt Nam có lòng yêu nước, chuộng hòa bình đều có thể nhìn rõ bản chất của chúng. Là công dân Việt Nam yêu nước, chuộng hòa bình luôn đề cao cảnh giác, phân biệt rõ thực giả, không để bị lôi kéo bởi những luận điệu của các thế lực thù địch, phản động, cùng nhau đoàn kết đấu tranh làm thất bại những âm mưu đen tối của những kẻ rắp tâm muốn phá hoại sự bình yên của một đất nước hòa bình.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, đất nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao cuộc chiến tranh tàn khốc, đã luôn đoàn kết toàn dân đứng lên đánh đuổi bọn cướp nước, bán nước, những kẻ bóc lột để dành lấy độc lập tự do, hòa bình cho dân tộc, nhân dân Việt Nam luôn hiểu được giá trị của một đất nước hòa bình, độc lập dân tộc. Ngày nay, đất nước Việt Nam đang hòa bình, ổn định trên con đường đổi mới ngày càng phát triển, mỗi người dân Việt Nam bên cạnh việc lao động cống hiến cho hạnh phúc bản thân thì cần hết sức đồng lòng, đoàn kết đấu tranh chống lại mọi nguy cơ gây mâu thuẫn tạo mầm mống gây xung đột, những mầm họa chiến tranh.

Không thể xuyên tạc thân thế, sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh



Trong những ngày tháng 5 lịch sử và nhất là kỷ niệm 129 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890 - 19.5.2019) trên các trang mạng có những bài viết đã xuyên tạc hoàn toàn thân thế, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cụ thể chúng xuyên tạc rằng: “Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc. Sự việc này đã được chính Hồ Chí Minh xác nhận gián tiếp trong bài viết “Đảng Ta” vào năm 1949 dưới bút hiệu Trần Thắng Lợi bằng một câu tám chữ: ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi”.
Như chúng ta đã biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù (còn gọi là Làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung lại theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi mẫu thân qua đời, Nguyễn Sinh Cung lại theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên Nguyễn Tất Thành. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành lại theo cha vào Huế, thoạt đầu học trường Pháp – Việt, sau học trường Quốc học Huế. Khoảng cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 2/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn. Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, lên tàu Amiran Latuso Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mácxây (Pháp). Tại Mácxây, ngày 15-9-1911, Người viết thư gửi Bộ trưởng thuộc địa Pháp, ký tên Nguyễn Tất Thành. Năm 1919 Nguyễn Tất Thành công khai gọi tên mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã dùng khoảng 50 – 60 tên bút danh khác nhau.
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, Người lấy tên là Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được Người tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân Người sử dụng tên Hồ Chí Minh.
Như vậy, từ những minh chứng trên có thể khẳng định, Nguyễn Ái Quốc chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn bài viết “Đảng Ta” vào năm 1949 dưới bút hiệu Trần Thắng Lợi bằng một câu tám chữ: ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi”, đây chính là sự khôn khéo trong quá trình hoạt động cách mạng của Người để kẻ thù không phát hiện ra. Chỉ có nhân dân Việt Nam, những người cách mạng chân chính, đấu tranh cho lẽ phải mới hiểu đúng nghĩa của cụm từ 8 chữ “ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi” trong bài viết “Đảng ta” năm 1949, còn các thế lực thù địch từ thời đó cho đến bậy giờ cũng vẫn cho rằng Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là hai người khác nhau.
Các thế lực phản động đang đẩy mạnh xuyên tạc, vu khống trắng trợn, bỉ ổi đối với thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải hết sức cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, vạch trần và bác bỏ những luận điệu phản động này./.
Mai Năm Mới

Không thể xuyên tạc, phủ nhận cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam


Gần đây, trong khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thì các đối tượng xấu đã lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để ra sức chống phá chúng ta. Chúng xuyên tạc rằng: Ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng; Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng thành công.
Thứ nhất, phải khẳng định dứt khoát rằng, đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc sự thật cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Vì, tham nhũng là hiện tượng mang tính lịch sử – xã hội gắn liền với sự tồn tại của nhà nước, tham nhũng là vấn nạn toàn cầu mang tính phổ biến, không chỉ riêng có ở một quốc gia, vùng lãnh thổ nào, không phụ thuộc vào chế độ chính trị và trình độ phát triển. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ có nhà nước vì nó luôn gắn với nhà nước và quyền lực. Khi còn tồn tại nhà nước và quyền lực nhà nước bị lạm dụng thì còn tồn tại tham nhũng. Điều đó có nghĩa, ở bất cứ chế độ xã hội nào, tham nhũng, suy thoái đều gắn với quyền lực bị thao túng, bị tha hóa.
Vì thế, luận điệu cho rằng: Ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng; do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra; tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng; tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… là những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn của các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị, chúng ta phải hết sức cảnh giác, đấu tranh và bác bỏ.
Thứ hai, khẳng định thành công của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những năm qua, Bộ Chính trị đã ban hành một số quy định làm hành lang quản lý cán bộ, xử lý sai phạm, như: Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04/8/2017 về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đã được ban hành với nhiều nội dung đổi mới quan trọng, có tính đột phá. Tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng tổ chức ngày 25/6/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “công cuộc chống “giặc nội xâm” đang ở giai đoạn hết sức quan trọng, quyết liệt”, vì thế “Hội nghị lần này không chỉ có ý nghĩa động viên tinh thần, mà còn bàn các công việc thiết thực, cụ thể nhằm tạo bước chuyển biến mới mạnh mẽ hơn, hiệu quả cao hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng”.
Thực tế đã chứng minh, quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái của Đảng là quyết tâm chính trị, bởi đây là vấn đề quyết định sự tồn vong của đất nước. Vì thế, Luật Phòng, chống tham nhũng ra đời năm 2005, đến nay tuy mới 12 năm nhưng đã 3 lần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, lần mới đây nhất là tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV. Việc làm này cho thấy quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái. Chinha vì vậy, nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh. Tình hình nhũng bước đầu đã được kiềm chế, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế – xã hội.
Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, thường xuyên, liên tục, phức tạp, không ít khó khăn, thách thức và cũng không dễ dàng giành được thắng lợi. Vì vậy, đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân là thành viên của hệ thống chính trị phải đề cao cảnh giác để có nhận thức đúng, đầy đủ không chỉ về tình trạng tham nhũng hiện đang tồn tại một cách khách quan trong hệ thống chính trị nước ta; mà còn về kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng cũng như những hạn chế, khuyết điểm, tồn tại và nguyên nhân để chủ động có chủ trương, biện pháp đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng này. Song dù khó khăn, gian khổ đến mấy cũng không thế lực nào có thể làm nhụt ý chí, quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vấn đề quan trọng là, trong mọi tình huống, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải luôn đề cao cảnh giác, nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá để từ đó có chủ trương, biện pháp đấu tranh kiên quyết, kịp thời.
Mai Năm Mới

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2019

Tăng cường củng cố sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ, tăng cương kỷ luật, giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. ĐTM/2019/2019

Tăng cường củng cố sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ, tăng cương kỷ luật, giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang.
ĐTM/2019/2019
Quan hệ chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện trước hết ở quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng xây dựng củng cố và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, đó là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ đồng chí đồng đội, quan hệ cá nhân với tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng… Đây là mối quan hệ nội tại bên trong của quân đội cách mạng, được thể hiện trên cơ sở giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, thống nhất lợi ích. Vì vậy, các mối quan hệ đó phải được thực hiện trên cơ sở  tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của điều lệnh, kỷ luật của lực lượng vũ trang đồng thời phải thực sự dân chủ, bình đẳng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, lợi ích. Cá mối quan hệ đó phải được xây dựng và giải quyết trên nền tảng của tình cảm đồng chí, đồng đội, luôn sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Đó phải là mối quan hệ đoàn kết, thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau được tạo lập và phát triển từ yêu càu của hoạt động lực lượng vũ trang, hoạt động chiến đấu

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang ĐTM/2019


Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang
ĐTM/2019
Nắm vững đường lối, nhiệm vụ chính trị; bám sát đối tượng và tình hình thực tiễn, đổi mới nội dung hình thức, tiến hành công tác tư tưởng, công tác tổ chức phù hợp, thiết thực kịp hời. đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, văn hoá, nhất là công tác giáo dục chính trị, công tác tư tưởng lý luận, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; xây dựng và tuyên truyền đường lối, chính sách, giải thích có lý, có tình những hiện tượng của đời sống xã hội; đấu tranh tư tưởng lý luận; xây dựng, củng cố niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, xây dựng động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ. Đổi mới  công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng, công tác chín sách…kết hợp chặt chẽ công tác tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách để tiến hành có hiệu quả mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực hoạt động của lực lượng vũ trang

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. ĐTM/2019


Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang.
ĐTM/2019
Kiên trì, giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, kết hợp với nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đấu tranh chống thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với quân đội. Củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
Xây dựng các tổ chức trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của quân đội. Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng gắn với kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì, cán bộ chủ chốt. Coi trọng củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có chất lượng cao, số lượng phù hợp, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện ché độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội. Chế độ một người chỉ huy và chế độ chính uỷ, chính trị viên đều là bộ phận trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên hoạt động dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng uỷ cùng cấp. Người chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chủ trì công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị. Quan hệ giữa người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên là quan hệ hợp đồng công tác.
Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng với tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Không đối lập sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục quan niệm sai lầm đòi tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng cách buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.

Những giải pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân về chính trị trong giai đoạn hiện nay. ĐTM/2019


Những giải pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân về chính trị trong giai đoạn hiện nay.
ĐTM/2019
1. Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang.
Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị là vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở tạo ra sức mạnh của lực lượng vũ trang. Chỉ có giác ngộ chính trị cao, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng thì lực lượng vũ trang mới kiên định với mục tiêu lý tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao
Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh chính trị, tư tưởng, tinh thần, làm cơ sở tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang. Lập trường, bản lĩnh chính trị còn là cơ sở để cán bộ, chiến sĩ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là điều kiện cơ bản để cán bộ, chiến sĩ nhận thức, xem xét và giải quyết đúng đắn các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội; nhận thức đúng kẻ thù, không mơ hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn – thù, địch – ta; có thái độ kiên quyết, đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái xấu, cái sai.
Lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang còn là một trong những điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, làm cho lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân
Nội dung nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang bao gồm:  Nâng cao nhân thức, giác ngộ cho cán bô, chiến sĩ về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kiên định, không giao động, hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng ý chí, động cơ, quyết tâm thực hiện mục tiêu lý tưởng; đấu tranh với những quan điểm sai trái, hiện tượng hòai nghi, dao động về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu, học tập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo chi phối, định hướng nhận thức và hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí minh, bổ sung, hoàn thiện đường lối. đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thường xuyên quán triệt, phổ biến tình hình, nhiệm vụ cách mạng nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, của từng đơn vị. Làm cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang luôn thấu triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình mọi mặt, có động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Giáo dục âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, xây dựng ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ.
Thường xuyên giáo dục truyền thống, lịch sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của quân đội, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu Đảng, yêu chế độ, yêu nhân dân. Xây dựng tình cảm, trách nhiệm giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc và quân đội.
Bồi dưỡng, xây dựng, hình thành ở cán bộ, chiến sĩ thế giới quan khoa học và cách mạng, có quan điểm và phương pháp xem xét, giải quyết các sự kiện, hiện tượng một cách đúng đắn, có lập trương, bản lĩnh chính trị vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, phê phán cái xấu, cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu
Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những hiện tượng thoái hoá, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu kiên định, thiếu nhạy cảm về chính trị, “dĩ hoà vĩ quý” “ gió chiều nào che chiều ấy”, cơ hội, thủ đoạn về chính trị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh…

Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay ĐTM/2019


Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay
ĐTM/2019
Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới
Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.
Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới.

Những yếu tố tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay ĐTM/2019


Những yếu tố tác động đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay
ĐTM/2019
Cục diện kinh tế, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc, nhanh chóng, nhất là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu làm cho tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng thay đổi bất lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra trong điều kiện mới, với những nội dung mới, hình thức phức tạp mới,  dưới những sắc thái mới, mà tính chất của chúng không kém phần gay go, quyết liệt
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển với tốc độ phi thường đưa tới những tiến bộ to lớn, làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trong kinh tế và cả trên các mặt của đời sống xã hội … đồng thời, làm nảy sinh những khó khăn thánh thức mới cực kỳ gay gắt.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định thay đổi chiến lược tiến công chủ nghĩa xã hội và các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới, từ xâm lược bằng vũ trang là chủ yếu sang xâm lược bằng phi vũ trang, bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” là chủ yếu, kết hợp với răn đe quân sự, sẵn sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, kể cả tiến hành chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.
Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây:
Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị
Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang .
Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Sự tác động của những biến đổi về cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta hiện nay đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Trong quá trình vận động, biến đổi, các giai cấp và tầng  lớp xã hội có xu hướng xích lại gần nhau, liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt khác với cơ cấu xã hội – giai cấp không thuần nhất, phát triển đa dạng, đan xen, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự không thuần nhất về chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác nhau thậm chí đối lập nhau sẽ tác động đến quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu thuẫn giữa việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.
Hiện nay cùng với những tàn dư của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản là hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa chống cộng và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, xét lại đang tấn công toàn diện và mạnh mẽ vào bản chất cách mạng của quân đội ta.
Bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi trọng chống phá ta về chính trị, tư tưởng và văn hoá, chúng tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng “về sự phá sản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, rêu rao luận điệu “ Phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang làm tha hoá về tư tưởng, đạo đức, lối sóng của cán bộ, chiến sĩ ta, làm cho lực lượng vũ trang biến chất về chính trị.
Đây  là cuộc chiến tranh không có khói lửa, không có tiếng súng, không dễ dàng nhận rõ mặt kẻ thù như trong chiến tranh vũ trang trước đây, chúng ta không chỉ chống lại chiến lược “Diễn biến hoà bình” mà còn chống lại cả nguy cơ “Tự diễn biến” từ bên trong.
Trong những điều kiện đó việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang, là một nội dung rất cơ bản, có tính chất quyết định đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ và từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta từ sau năm 1975 đến nay, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi mới mạnh mẽ trong quá trình đổi mới đất nước.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về quân sự, về chiến tranh đã phát triển một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình để xây dựng đất nước, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau
Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:
Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
Xây dựng và phát triển chế  độ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, vững mạnh, đồng thời phải trực tiếp bảo vệ từng tế bào của chế độ một cách kiên quyết và thường xuyên. Xây dựng và bảo vệ xâm nhập lẫn nhau, diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, trong mỗi tổ chức, mỗi con người.
Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, một mặt nhấn mạnh tích cực xây dựng đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không coi nhẹ các biện pháp vũ trang bảo đảm có đủ sức mạnh cần thiết để răn đe, giữ vững hoà bình và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. điều đó đòi hỏi:
Phải chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước: tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực khoa học – công nghệ và tiềm lực quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ, giữ gìn hoà bình, không để xảy ra chiến tranh là thượng sách để giữ nước. Xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là tạo ra sức mạnh lớn nhất để bảo vệ đất nước, là quá trình bảo vệ tích cực nhất, chủ động nhất. Mỗi bước phát triển của quá trình xây dựng là tạo nên một sức mạnh mới để bảo vệ Tổ quốc
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại trong công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ động đối phó có hiệu quả và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá từ bên trong và tấn công quân sự từ bên ngoài của các thế lực thù địch.

Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh


Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh
ĐTM/2019
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”
Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri – tinh thần, coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân
Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa lực lượng vũ trang ta với lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa – những mối quan hệ cơ bản quyết định quá trình hình thành, phát triển bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng  lực lượng vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc; giữ  vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị – tinh thần to lớn của lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những lực lượng vũ trang xâm lược nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những giá trị lý luận xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.

Phương châm xử lý các vụ biểu tình, bạo loạn chính trị ở vùngdân tộc, tôn giáo. ĐTM/2019


Phương châm xử lý các vụ biểu tình, bạo loạn chính trị ở vùngdân tộc, tôn giáo.
ĐTM/2019
Trong xử  lý các vụ “biểu tình, bạo loạn”  ở vùng dân tộc, tôn giáo cần đạt được các yêu cầu: Phải dự báo được khả năng xuất hiện “điểm nóng”“biểu tình, bạo loạn” ở những vùng trọng điểm.
Chuẩn bị chu đáo về phương tiện, trang bị phù hợp với yêu cầu của từng lực lượng đảm nhiệm các nhiệm vụ khác nhau trong xử lý các vụ “biểu tình, bạo loạn”, kịp thời tham mưu cho chính quyền có đối sách đúng đắn không để phát sinh mâu thuẫn, hạn chế sơ hở để kẻ địch lợi dụng.
Khi xảy ra“biểu tình, bạo loạn” lực lượng quân đội phải làm nòng cốt cho cấp uỷ, chính quyền địa phương xử lý tình huống chính xác, kịp thời trong thời gian ngắn. Lấy thuyết phục quần chúng bị kích động  là chính, bình tĩnh, khéo léo, mềm dẻo nhưng kiên quyết giải tán biểu tình, bắt đầu sỏ.
Lực lượng vận động quần chúng của các đơn vị quân đội cần phối hợp với địa phương  tranh thủ số chức sắc tiến bộ, dùng họ thuyết phục quần chúng tín đồ, nhưng kiên quyết xử lý các hành vi quá khích, cực đoan. Bảo vệ an toàn các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ sở vật chất, tài sản của công dân và Nhà nước trên địa bàn.
Trong nhiều năm tới các thế lực thù địch vẫn  lấy địa bàn  vùng dân tộc, tôn giáo làm  trọng điểm để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”,   triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động quần chúng biểu tình, bạo loạn gây bất ổn định chính trị, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, các đơn vị quân đội trên địa bàn vùng dân tộc , tôn giáo cần phải nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn từ quá trình thực hiện nhiệm vụ tham gia xử lý “biểu tình, bạo loạn” ở vùng dân tộc, tôn giáo trong 15 năm qua,  áp dụng vào việc xây dựng hoàn chỉnh các phương án đối phó với các thủ đoạn mới hiện nay và trong tương lai của các thế lực thù địch./. 

Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng của các đơn vị Quân đội trên địa bàn vùng dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới. ĐTM/2019


Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng của  các đơn vị Quân đội trên địa bàn vùng dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới.
ĐTM/2019
Hoạt động lợi dụng, kích động tín đồ “biểu tình, bạo loạn” chống chính quyền luôn luôn là hành vi cực kỳ nguy hiểm của các thế lực thù địch. Muốn đấu tranh  có hiệu quả với các thủ đoạn đó, chúng ta phải nắm được quần chúng , đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công tác đấu tranh, xử lý các vụ “biểu tình, bạo loạn” ở vùng dân tộc,tôn giáo.
Muốn nắm được quần chúng, phải triển khai và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng lôi kéo quần chúng về phía cách mạng, giáo dục động viên họ và điều quan trọng hơn là tổ chức họ tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh các âm mưu và thủ đoạn kích động tín đồ “biểu tình, bạo loạn” các thế lực thù địch. Tranh thủ sự ủng hộ của các chức sắc tiến bộ, động viên và tổ chức họ đấu tranh vạch mặt các ban chấp sự, các khung chính quyền ngầm, lực lượng ngầm của địch, tố cáo bọn xấu.
 Giải quyết vấn đề này đòi hỏi đòi hỏi các đơn vị quân đội phải chăm lo xây dựng các đội công tác dân vận ở đơn vị cơ sở có tổ chức chặt chẽ, đi vào hoạt động thường xuyên liên tục là một trong những hình thức, biện pháp cơ bản, phù hợp có tính khả thi cao đối với việc nâng cao chất lượng hiệu quả công tác dân vận nói chung và công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo nói riêng

XÂY DỰNG PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY THEO DI SẢN TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.


XÂY DỰNG PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY THEO DI SẢN TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.
ĐTM/2019
Trong kho tàng di sản tư tưởng về công tác cán bộ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Quân đội ta Những yêu cầu cụ thể về phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của chính uỷ, chính trị viên cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn.
Những phẩm chất tốt đẹp đã đi vào truyền thống của lớp lớp chính uỷ, chính trị viên trong thời kỳ chiến tranh, góp phần viết nên những trang sử hào hùng với những chiến công oanh liệt đi vào lịch sử dân tộc như một huyền thoại của quân đội ta. Ngày nay trong thời kỳ yêu cầu mới phẩm chất, năng lực phương pháp tác phong công tác của người chính uỷ, chính trị viên phải được phát triển trên một trình độ mới cao hơn.  Người chính uỷ, chính trị viên phải thật sự là người có đức, có tài.  Tài - Đức ấy phải được bồi dưỡng vun trồng mới có. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng phẩm chất, năng lực công tác của Chính ủy, Chính trị viên đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng hiện nay trước mắt cần làm tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:
1. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc trong nhận thức, trách nhiệm của toàn quân trước hết là của lãnh đạo, chỉ huy các cấp về thực hiện Nghị quyết 51/NG-TW của Bổ chính trị, về xây dựng, bồi dưỡng, đội ngũ chính uỷ, chính trị viên
Các cấp lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc quán triệt những quan điểm tư tưởng cơ bản Nghị quyết 51/NG-TW của Bộ Chính trị Khoá IX.
Thống nhất nhận thức trong giai đoạn hiện nay về sự cần thiết phải bồi dưỡng và nội dung chủ yếu cần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác  của chính uỷ, chính trị viên. Đề cao trách nhiệm của chính uỷ, chính trị viên trong quán triệt và thực hiện các yêu cầu trên. đấu tranh khắc phục những biểu hiện nhận thức lệch lạc không đúng về yêu cầu phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của chính uỷ, chính trị viên
2. Các cấp uỷ phải nghiên cứu tiêu chuẩn hoá chứ danh chính uỷ, chính trị viên .
Quán triện đường lối cán bộ của Đảng hiện nay, nhất là tiêu chuẩn chung của người lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ mới. Đảng uỷ Quân sự Trung ương cần kịp thời xác định bổ sung tiêu chuẩn chính uỷ, chính trị viên. Tổng cục Chính trị tiếp tục nghiên cứu quy định về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn các mối quan hệ, chế độ công tác, tiêu chuẩn chính uỷ, chính trị viên . Trên cơ sở tiêu chuẩn chung, các cơ quan, đơn vị, nhà trường quán triệt và cụ thể hoá cho phù hợp.
3. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại trường và tập huấn bồi dưỡng tại đơn vị.
Cần lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt các lớp tập huấn, bồi dữơng cán bộ chính trị, quân sự, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên. Các học viện nhà trường thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo cán bộ chính trị các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài.
4. Phát huy tính tích cực, nâng cao chất lượng tự học, tự rèn của bản thân người chính uỷ, chính trị viên .
Phương châm cơ bản là : Tự học tập, tự tu dưỡng rèn luyện là chính, đồng thời sự giúp đỡ của tổ chức là quan trọng.    
Việc quán triệt, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phẩm chất, năng lực và phương pháp tác phong công tác của chính uỷ, chính trị viên của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay vừa mang tính cấp thiết vừa mang tính lâu dài. Ngày nay tư tưởng của Người về những phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của chính uỷ, chính trị viên vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, là cơ sở khoa học giúp cho Đảng ta, Quân đội nhân dân Việt nam có những quyết sách đúng về xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; đồng thời, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, để quân đội hoàn thành suất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.





BỒI DƯỠNG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH TRỊ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY THEO LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


BỒI DƯỠNG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH TRỊ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY THEO LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
                                                                            ĐTM/2019.
Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử mang tầm thời đại. Và ngày nay cả nước đang thực hiện đường lối đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghiã, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở vào thời điểm hiện nay, đứng trước tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp khó lường, các thế lực thù địch phản động dùng mọi thủ đoạn nham hiểm nhất để phá hoại sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng thời những căn bệnh của Đảng cầm quyền chưa chữa khỏi. Do đó, xây dựng Đảng càng đòi hỏi phải chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn Đảng là nội dung cơ bản của xây dựng Đảng, Chỉnh đốn Đảng trước hết về tư tưởng, tổ chức, cán bộ, và phương thức lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng trong sạch, bảo đảm hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới. Việc xây dựng chỉnh đốn Đảng chủ yếu nhằm khắc phục những lệch lạc về tư tưởng, chính trị, sự thoái hóa biến chất trong đạo dức lối sống, thiếu tu dưỡng rèn luyện buông thả của một bộ phận cán bộ.
Ngay từ đại hội V của Đảng, đã nhận định tình hình xa sút phẩm chất, giảm sút ý chí chiến đấu một bộ phận cán bộ Đảng viên. “Nhiều người từ sai lầm trong sinh hoạt, quan liêu trong tác phong, đã đi đến chỗ biến chất trong lối sống, thoái hóa về chính trị[1]. Đại biểu đại hội VIII của Đảng nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, xa đọa về đạo đức lối sống. Một số cán bộ thoái hóa về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ của họ gây hậu quả hết sức nghiêm trọng[2] hiện tượng suy thoái này đến nay vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, và không chỉ ở đảng viên thường mà cả ở cán bộ lãnh đạo cao cấp.
 Trước diễn biến phức tạp của tình hình và tác động tiêu cực của xã hội. Do đó, trong Đảng bộ Quân đội cũng còn không ít cán bộ, đảng viên còn biểu hiện hẫng hụt về chí tuệ, thiếu dũng khí đấu tranh, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, cá biệt có cả cán bộ lãnh đạo các cấp mang nặng chủ nghĩa cá nhân, giảm sút ý chí, tư tưởng cơ hội thực dụng, tham nhũng chạy theo tham vọng quyền lực, danh lợi, cục bộ bản vị, chưa gương mẫu rèn luyện bản thân, ... Gây hậu quả sấu. Trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn biểu hiên dân chủ hình thức, đề cao uy quyền cá nhân...
Tóm lại, tất cả tình hình trên cho thấy, hơn lúc nào hết Đảng phải được xây dựng chỉnh đốn, trong đó vấn đề then chốt là cán bộ và công tác cán bộ. Để cho Đảng có đủ trình độ, trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, đáp ứng tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đây không những là vấn đề then chốt mà còn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta.
Riêng đối với những cán bộ chính trị, nhất là trong giai đoạn hiện nay, trình độ năng lực, kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị còn hạn chế so với yêu cầu nhiệm vụ, chưa thực sự tiêu biểu về trí tuệ, về phẩm chất đạo đức tác phong công tác, như thiếu gương mẫu xa cách bộ đội, thiếu dân chủ, khoa học chưa xứng đáng là người chị người anh của bộ đội, thậm trí còn cán bộ chính trị “tồi, tệ, tụt” như  ý thức trách nhiệm kém trong công tác đảng công tác chính trị kém, nhưng lại hay ngồi lê mách lẻo, nói xấu người này chê bai người khác, trong quá trình làm việc thì mắc bệnh chây ì, tắc trách, ít chịu tìm tòi nguyên cứu làm cho bộ đội chê trách, còn họ thì ngày càng teo tóp về cách nghĩ cách làm, rồi họ cũng teo tóp cả hướng phát triển. Thậm chí cũng không phải không có một số cán bộ chính trị có biểu hiện “tư, tình, tiền” trước tác dộng của mặt trái của nền kinh tế thị trường họ chỉ coi trọng lợi ích riêng tư, sống giả nhân giả nghĩa, ham tư túi trục lợi cá nhân, cơ hội chủ nghĩa, trong số họ còn tư tình, háo tình ái, ham tiền bạc, thiếu tình đồng chí cao đẹp và tình đồng đội trong sáng.
Để góp phần tiếp tục thực hiện đúng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng bồi dưỡng rèn luyện tác phong công tác người cán bộ chính trị trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ công tác đảng, công tác chính trị trong giai đoạn hiện nay, cần phải tiếp tục một số giải pháp là:
Một là, cần phải quán triệt nắm vững Tư tưởng Hồ Chí Minh về tác phong công tác của người cán bộ chính trị, để nhận thức đúng đắn đầy đủ ý nghĩa giá trị vai trò vị trí tác phong công tác của người cán bộ chính trị trong quân đội cách mạng hiện nay.
Sự nhận thức đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về tác phong công tác của người cán bộ chính trị và con đường hình thành tác phong công tác của người cán bộ chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết  đòi hỏi người cán bộ trong quân đội đặc biệt là người cán bộ chính trị phải được quán triết sâu sắc đầy đủ, thấm nhuần sâu sắc lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, mục tiêu nhiệm vụ chiến đấu của quân đội, nhiệm vụ công tác đảng công tác chính trị và coi đó là nền tảng tư tưởng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Do vậy, Hồ Chí Minh đã dậy: “lí luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế... không có lý luận thì như nhắm mắt mà đi”[3]. Tư tưởng của Người về vai trò tác phong công tác của người cán bộ chính trị mãi mãi là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đối người cán bộ, đặc biệt là người cán bộ chính trị trong quân đội hiện nay và mai sau. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá phát triển năng động nhưng cũng đầy phức tạp, các lực lượng thù địch đang tấn công trực diện vào hệ tư tưởng cách mạng, vào các giá trị văn hoá đạo đức lối sống tốt đẹp của dân tộc, vào trong quân đội, vào cả tác phong công tác của người cán bộ chính trị. Thực tiễn đó càng đòi hỏi người cán bộ chính trị phải thấm nhuần sâu sắc sự dậy bảo của Bác, nhằm không ngừng chăm lo xây dựng tư tưởng chính trị, nâng cao năng lực và tác phong công tác của người cán bộ chính trị trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, phải kế thừa, phát huy phát triển các giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc của nền văn hiến Việt Nam.
Hai là, tập trung nâng cao bản lĩnh chính trị trong quá trình bồi dưỡng rèn luyện của người cán bộ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Bản lĩnh cán bộ chính trị có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ, dặc biệt những lúc khó khăn, những bước ngoặt hoặc trong giai đoạn các liệt gian khổ ác liệt của chiến tranh. Đây là phẩm chất cơ bản , chủ đạo của người cán bộ chính trị . hiện nay mặc dù dang xây dựng trong thời bình với nhiệm vụ chủ yếu là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tham gia lao động sản xuất, xây dựng chính tri trên một số vùng trọng điểm, một số lĩnh vực, nhưng thực tế quân đội cũng đang phải chịu ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường tác động, sự chông phá quyết liệt về tư tưởng tổ chức của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ...tất cả những yếu tố đó đòi hỏi người cán bộ chính trị phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Bản lĩnh đó trước hết biểu hiện ở trình độ nhận thức và lòng tin sau sắc vào chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Theo Hồ Chí Minh “lí luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lí luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng rèn luyện, người cán bộ chính trị cần bồi dưỡng trình độ bồi dưỡng trình độ nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và hành vi chính trị, bảo đảm nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng. Không những nâng cao nhận thức, cảnh giác cách mạng, luôn nhận rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, chú trọng bồi dưỡng thế giới quan phương pháp luận khoa học, bồi dưỡng phương pháp tư duy chính trị trong trong giải quyết các mỗi quan hệ chính trị xã hội.
Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, trước hết là năng lực chính trị và quân sự để cán bộ chính trị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Cán bộ chính trị trong quân đội là những người chuyên trách công tác Đảng công tác chính trị - lĩnh vực công tác đặc thù này đặt ra yêu cầu là người cán bộ chính trị không những phải giỏi công tác tư tưởng, công tác tổ chức mà phải có kiến thức toàn diện, cả về chính trị quân sự, kính tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật. Nếu không có kiến thức toàn diện thì người cán bộ chính trị không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhưng trước hết người cán bộ phải nắm chắc nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác Đảng công tác chính trị trong quân đội. Chính vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng, rèn luyện của mình, người cán bộ chính trị phải có hiểu biết rộng về các lĩnh vực xã hội và nhân văn, cùng khối kiến thức về khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, tuy nhiên bên cạnh sự hiểu biết rộng về các chuyên ngành trên, người cán bộ chính trị cần phải đặt tới trình độ tiên tiến, sâu sắc về những khối kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, không những chỉ ở mức độ nhận thức mà cần phải đạt tới hoàn thiện về kỹ năng hành động trong tổ chức thực hiện cùng với sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ. Đòi hỏi tri thức toàn diện của người cán bộ chính trị, không ngừng gia tăng và tăng cường hoàn thiện. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng cho người cán bộ chính trị cần tập trung rèn luyện óc tư duy lí luận, khả năng quán triệt các nghị quyết của Đảng, trình độ tổ chức thực hiện và rút kinh nghiệm thực tiễn, trên cơ sở đó để có thể vận dụng lí luận kinh nghiệm vào giải quyết các vấn đề này vào trong quá trình hoạt động của đơn vị. Cho nên cấp uỷ Đảng và chỉ huy các cấp trong quân đội cần có quy định, kế hoạch để bồi dưỡng cán bộ chính trị vừa là nhà lãnh đạo vừa là nhà chỉ huy, vừa là nhà lí luận có kiến thức cơ bản vững, có trình độ chuyên môn sâu cao . Nắm được được các kiến thức chuyên ngành có liên quan. Đồng thời tự bản thân người cán bộ chính trị phải thường xuyên cập nhập các kiến thức mới phù hợp với sự vận động của thời đại về thực tiễn kinh tế xã hội ở trong nước, kịp thời bổ xung những kiến thức còn yếu trên tinh thần “học, học nữa, học mãi” của V.I.Lênin.
Bốn là, nâng cao phẩm chất đạo đức lối sống và tác phong của người cán bộ chính trị, kiên quyết phê phán tư tưởng lặc hậu trong nhận thức về tác phong công tác của người cán bộ chính trị, đấu tranh với mọi biểu hiện tác phong thiếu dân chủ, không khoa học, tác phong làm việc làm việc bàn giấy, thiếu sâu sát bộ đội.
Bất kỳ trong giai đoạn cách mạng nào đối với người cán bộ chính trị thì yêu cầu đầu tiên là phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, mẫu mực, với lối sống tác phong nghiêm túc, giản dị sâu sát...người cán bộ chính trong quan đội phải là những tấm gương tiêu biểu về những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã khái quát. Ở tư cách người cách mạng ngay tư tác phẩm đường cách mệnh và nhiệm vụ của người cán bộ chính trị quân đôị. Đó là sự kết hợp giữa phẩm chất truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam, với những đức tính của người cán bộ cộng sản. Tuy nhiên trong điều kiện sự nghiệp cách mạng tiến lên công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, với những tác động của nền kinh tế thị trường, trước sự phá hoại của các thế lực thù địch thì phẩm chất đạo đức lối sống nói chung, của người cán bộ chính trị nói riêng càng đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.                                                              








[1] Đảng cng sn Vit Nam , Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th V, Tp III, Nxb S tht, HN 1982, tr.25
[2] Đảng cng sn Vit Nam , Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th VIII, Nxb CTQG, HN 1996, tr.137
[3] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t,5, tr234